Tôi phải thừa nhận màn kết thúc đáng ngạc nhiên ở ngờ, nhưng ít nhất là bây giờ, tôi đã biết lý do tại sao tất cả mọi người lại hành động rất giống con chuột trong phòng thí nghiệm khi bị ném vào lồng của một con sư tử. Không ai thích cùng tham gia vào một vụ án với nhân viên FBI; khi đó, niềm vui duy nhất của chúng tôi chỉ là khiến mọi việc trở nên khó khăn nhất có thể cho họ. Nhưng dường như Chutsky là một người quyền lực đến nỗi ngay cả niềm vui nhỏ bé này cũng sẽ từ chối chúng tôi.
Tình trạng da ửng đỏ đáng lưu ý của Deborah là một bí ẩn sâu sắc hơn, nhưng đó không phải là vấn đề của tôi. Vấn đề của tôi bỗng dưng trở nên rõ ràng hơn một chút. Bạn có thể nghĩ rằng Dexter là một cậu bé ngu ngốc khi không đặt mọi thứ lại với nhau sớm hơn, nhưng khi tôi cuối cùng cũng đã nhận ra thì nó lại kèm theo ý muốn tự vỗ vào đầu mình một cái. Có lẽ những lon bia ở nhà Rita đã tạm thời khiến đầu óc tôi u mê.
Nhưng rõ ràng, người đã triệu chuyến viếng thăm từ Washington này đến với chúng tôi không là ai khác ngoài kẻ thù cá nhân của Dexter - Trung sĩ Doakes. Cũng có một số tin đồn mơ hồ rằng công việc trong quân đội của anh ta có phần bất thường, và tôi đã bắt đầu tin họ. Phản ứng của anh ta khi nhìn thấy thứ trên bàn không phải là sốc, phẫn nộ, ghê tởm hay giận dữ, mà là một điều thú vị hơn: công nhận.
Ngay tại hiện trường, anh ta đã nói với Đội trưởng Matthews ý nghĩa của chuyện này cũng như người để nói về nó. Cụ thể chính là người đã điều Chutsky tới. Do đó, tôi đã đúng khi nghĩ Chutsky và Doakes nhận ra nhau tại buổi làm việc, vì bất cứ điều gì đang xảy ra mà Doakes biết thì Chutsky cũng vậy, thậm chí có lẽ còn biết nhiều hơn thế, và ông ta phải đến để xoá bỏ mọi thứ. Nếu Doakes biết chuyện gì đó tương tự thì phải có cách sử dụng quá khứ của anh ta để chống lại chính anh ta - điều sẽ ném chuỗi gánh nặng rời xa Dexter Bị Giam Giữ.
Đó là một con tàu rực rỡ mang theo những chuỗi logic tinh khiết mát mẻ. Tôi chào đón sự trở lại của bộ não khổng lồ và thầm vỗ nhẹ vào đầu mình. Giỏi lắm, Dexter! Grừ Grừ.
Thật tốt khi thấy các khớp thần kinh cùng hoạt động theo một cách cho phép bạn biết lời tự khen của mình dành cho bản thân là hoàn toàn xứng đáng. Nếu Doakes có gì đó cần che giấu thì tôi đã bước gần hơn tới việc trở về là chính con người nhạy bén của mình.
Có những việc mà Dexter Hăng Hái rất giỏi, và một vài việc trong số đó có thể được thực hiện một cách hợp pháp ở nơi công cộng. Một trong những điều đó là dùng máy tính để tìm kiếm thông tin. Đây là kỹ năng tôi đã trau dồi để giúp mình hoàn toàn chắc chắn về những người bạn mới như MacGregor và Reiker. Ngoài việc tránh được cảm giác khó chịu khi cắt nhầm người, tôi cũng thích đối mặt với những người bạn có cùng sở thích với các bằng chứng về sự vô lý trong quá khứ của họ trước khi đưa họ đến cõi mộng. Máy tính và Internet là phương tiện tuyệt vời để tìm kiếm những thứ này.
Vì vậy, nếu Doakes có gì đó cần che giấu, tôi nghĩ là mình có thể tìm ra nó, hoặc ít nhất là tìm ra một sợi dây nhỏ mà mình có thể kéo cho đến khi toàn bộ quá khứ đen tối của anh ta bắt đầu sáng tỏ. Như những gì đã biết về anh ta, tôi khá chắc chắn đó là một quá khứ ảm đạm, giống như của Dexter. Và khi tôi tìm ra thứ gì đó...
Có lẽ tôi đã ngây thơ khi nghĩ rằng mình có thể sử dụng thông tin giả thuyết từ hồ sơ của anh ta trong quá khứ đó để buộc anh ta ngừng chỉ trích và làm tôi khó chịu, nhưng tôi nghĩ dù sao đó cũng là một cơ hội rất tốt. Không phải bằng cách đương đầu trực tiếp và yêu cầu anh ta dừng lại hay làm gì khác - điều hoàn toàn thiếu khôn ngoan với một người như Doakes. Hơn nữa, tống tiền - thứ mà tôi đang nói - là rất sai lầm. Nhưng thông tin là sức mạnh, và tôi chắc chắn sẽ tìm thấy một mánh nhỏ nào đó để sử dụng bất cứ điều gì mình thấy - một cách để đưa ra điều gì đó khiến Doakes phải suy nghĩ và không màng đến chuyện theo dõi hay ngăn chặn những cuộc chiến vì lẽ phải của Dexter nữa. Một người đàn ông phát hiện ra mình có nguy cơ bị lộ những chuyện đang che giấu thường sẽ chẳng còn thời gian để lo lắng về những gì người khác che giấu nữa.
Tôi vui vẻ rời văn phòng đội trưởng để trở lại căn phòng nhỏ bé của mình ở phòng thí nghiệm pháp y, và tiếp tục làm việc.
Vài giờ sau, tôi đã thu thập được tất cả những gì mình có thể tìm thấy. Có một vài chi tiết đáng ngạc nhiên trong tập hồ sơ của Trung sĩ Doakes. Một số điều khiến tôi ngừng thở: Doakes có tên riêng nữa! Là Albert... Đã có ai từng gọi anh ta như thế chưa? Không thể tưởng tượng nổi. Tôi đã nghĩ tên anh ta là Trung Sĩ luôn cơ đấy. Và anh ta cũng được sinh ra tại Waycross, Georgia. Những thứ kỳ lạ này sẽ kết thúc ở đâu?
Còn nhiều thứ kỳ lạ hơn, thậm chí còn mang lại giá trị tốt hơn nữa; trước khi Trung sĩ Doakes đến với đội điều tra, anh ta đã là... Trung sĩ Doakes! Trong quân đội, các lực lượng đặc biệt, trong tất cả mọi mặt! Hình dung Doakes đội một trong những chiếc mũ len hãnh diện diễu hành cùng John Wayne1 gần như vượt quá những gì tôi có thể nghĩ đến mà không tự nhiên cất cao bài hát về quân đội.
1 Một diễn viên, đạo diễn lừng danh người Mỹ với sở trường về loại phim cao bồi.
Một số bằng khen và huy chương được liệt kê ở đó, nhưng chẳng có gì đề cập đến bất kỳ hành động anh hùng nào khiến Doakes có được chúng. Dẫu sao thì tôi cũng cảm thấy yêu nước hơn khi biết người đàn ông này. Phần còn lại trong những ghi chép về anh ta cũng gần như hoàn toàn thiếu các chi tiết. Điều nổi bật duy nhất là trong khoảng thời gian mười tám tháng kéo dài của một hoạt động gì đó gọi là “dịch vụ độc lập”, Doakes đã phục vụ như một cố vấn quân sự ở El Salvador rồi trở về quê nhà và làm việc khoảng sáu tháng ở Lầu Năm Góc, sau đó nghỉ hưu để tới thành phố may mắn của chúng tôi. Sở cảnh sát Miami đã rất hạnh phúc khi được cưu mang một cựu chiến binh và cho anh ta một công việc tốt.
Nhưng El Salvador... Tuy không phải người yêu thích lịch sử, nhưng tôi nhớ mang máng là hình như nơi này từng xảy ra chuyện gì đó rất kinh khủng, như một phần của chương trình kinh dị. Đã có nhiều cuộc biểu tình tuần hành xuống đại lộ Brickell vào thời điểm đó. Tôi không nhớ tại sao, nhưng biết làm thế nào để tìm hiểu về nó. Tôi mở máy tính lần nữa và lên mạng, và ôi... tôi đã tìm ra. El Salvador vào thời điểm Doakes ở đó đang rơi vào tình cảnh hỗn độn của sự tra tấn, hãm hiếp, giết người, và ngược đãi. Và không ai nghĩ đến chuyện mời tôi.
Tôi tìm thấy nhiều thông tin rất kinh khủng được đăng bởi các tổ chức nhân quyền khác nhau. Những điều họ nói về sự việc đã diễn ra khá nghiêm trọng, gần như ghê rợn. Tuy nhiên, theo như tôi biết, không cuộc biểu tình nào mang lại kết quả. Sau tất cả, đó chỉ là nhân quyền. Nó hẳn phải khó chịu kinh khủng; Ngay cả PETA2 dường như còn đạt được những kết quả tốt hơn nhiều.
2 Tổ chức bảo vệ quyền lợi động vật.
Những người này tiến hành nghiên cứu, công bố kết quả chi tiết về vụ bạo lực, điện cực, và dùi cui, với đầy đủ hình ảnh, sơ đồ lẫn tên của những nhà hàng gớm ghiếc vô nhân đạo - những kẻ thích gây đau đớn cho hàng loạt sinh vật. Và những con quái vật gớm ghiếc vô nhân đạo thực sự thì lui về miền Nam nước Pháp, trong khi phần còn lại của thế giới tẩy chay các nhà hàng vì xử tệ với gà.
Điều đó cho tôi rất nhiều hy vọng. Nếu từng bị bắt, có lẽ chỉ vì tôi đã phản đối các sản phẩm sữa và họ sẽ để tôi đi.
Những cái tên của người El Salvador và các chi tiết lịch sử hầu như đều lạ lẫm đối với tôi. Các tổ chức liên quan cũng thế. Rõ ràng nó đã phát triển thành một trong những nơi miễn phí tuyệt vời cho tất cả mọi người - nơi không có người tốt thực sự mà hoàn toàn chỉ có vài nhóm những kẻ xấu vây quanh những người nông dân. Tuy vậy, Hoa Kỳ đã ngấm ngầm ủng hộ một bên, bất chấp thực tế rằng bên này dường như chỉ mong muốn đập những kẻ đáng thương bị nghi ngờ thành bột nhão. Và đó là bên thu hút sự chú ý của tôi. Sự ủng hộ của họ có gì đó đổi chiều, một mối đe dọa khủng khiếp mơ hồ nào đó, rõ ràng là quá ghê rợn đến nỗi khiến người ta thà nhớ nhung những đòn roi đuổi gia súc ở quê nhà.
Dù là gì đi chăng nữa, nó dường như trùng với thời gian phục vụ độc lập của Trung sĩ Doakes.
Tôi ngồi lại vào chiếc ghế xoay ọp ẹp của mình. Ồ, ồ, ồ, tôi nghĩ. Thật là một sự trùng hợp thú vị. Vào khoảng thời gian đó, chúng ta đã có Doakes, sự tra tấn không rõ tên ghê tởm và sự dính líu bí mật của Mỹ - tất cả hội tụ lại cùng nhau.
Rõ ràng là không có đủ bằng chứng rằng ba điều đó có bất cứ mối liên quan nào, chẳng có lý do để nghi ngờ bất kỳ loại kết nối nào. Cũng hiển nhiên thôi, tôi chắc chắn chúng chẳng khác nào ba hạt đậu trong cùng một vỏ. Bởi vì hai mươi mấy năm sau đó, tất cả bọn họ đã trở lại với nhau trong một bữa tiệc hội ngộ tại Miami: Doakes, Chutsky và bất cứ điều gì khiến mọi thứ xảy ra trên bàn. Suy cho cùng thì nó đã bắt đầu trông giống như A sẽ phù hợp với B.
Tôi đã tìm thấy sợi dây nhỏ của mình. Và ước gì có thể nghĩ ra một cách để kéo nó...
Ú òa, Albert.
Tất nhiên, có thông tin là một chuyện. Hiểu được ý nghĩa và làm thế nào để sử dụng được nó lại là chuyện khác. Và tất cả những gì tôi thực sự biết là Doakes đã ở đó khi một vài chuyện tệ hại xảy ra. Có thể anh ta không tự mình làm những điều đó, và dù gì đi nữa, họ cũng đã bị chính phủ trừng phạt. Tất nhiên là theo một cách bí mật khiến người ta tự hỏi làm thế nào mọi người lại biết được nó.
Mặt khác, chắc chắn là có ai đó ngoài kia vẫn còn muốn giữ kín mọi chuyện. Và tại thời điểm này, ai đó đã được đại diện bởi Chutsky - người được chăm sóc bởi em gái thân yêu của tôi - Deborah. Nếu nhận được sự giúp đỡ của cô ấy, tôi có thể thu thập được một vài chi tiết từ Chutsky. Những gì có thể làm sau đó vẫn chưa chắc chắn, nhưng ít nhất tôi có thể bắt đầu.
Nó có vẻ quá đơn giản, dĩ nhiên đúng là thế. Tôi gọi cho Deborah ngay lập tức thì nghe tiếng máy trả lời tự động của cô ấy. Tôi thử gọi di dộng cho cô ấy và nhận được điều tương tự. Suốt thời gian còn lại của ngày hôm đó, tôi chỉ nghe thấy tiếng: Deb đã ra khỏi văn phòng, xin vui lòng để lại tin nhắn. Khi cố gắng gọi đến nhà cô ấy vào tối hôm đó, tôi vẫn nhận được điều tương tự. Khi gác máy rồi nhìn ra ngoài cửa sổ căn hộ của tôi, Trung sĩ Doakes đã đỗ xe tại điểm yêu thích của anh ta phía bên kia đường.
Mặt trăng nhô một nửa từ phía sau đám mây lơ đãng và thì thầm với tôi, nhưng nó đã lãng phí hơi thở rồi. Dù có muốn ra khỏi nhà và tham gia vào cuộc phiêu lưu mang tên Reiker đến thế nào đi nữa, tôi cũng không thể; không thể với chiếc Taurus màu nâu khó chịu đậu ở đó như một món lương tâm được giảm giá. Tôi quay đi, tìm cái gì đó để đá. Đang là tối thứ Sáu, và tôi bị ngăn cản ra ngoài đi dạo trong bóng tối với Người Lữ Hành Tối Tăm, thậm chí bây giờ, tôi còn không liên lạc được với em gái mình. Thật là một cuộc sống khủng khiếp!
Tôi đi vòng quanh căn hộ một lúc nhưng chẳng có gì khá hơn ngoại trừ các ngón chân đau nhức. Tôi gọi cho Deborah hai lần và lại được nghe cô ấy không ở nhà thêm hai lần. Tôi lại nhìn ra ngoài cửa sổ. Mặt trăng đã di chuyển một chút; Doakes thì không.
Tất cả phải ổn thôi. Trở lại với kế hoạch B.
Nửa giờ sau, tôi đang ngồi trên chiếc ghế bành của Rita với một lon bia trong tay. Doakes đã theo tôi, và tôi phải giả định rằng anh ta đang chờ đợi bên kia đường trong chiếc xe của mình. Tôi hy vọng anh ta đã tận hưởng nhiều như tôi - thứ mà thực ra chẳng có cái quái gì cả. Đây là những gì giống con người ư? Con người thực sự rất đau khổ và khờ dại đến nỗi phải trông chờ điều này - tiêu tốn cả buổi tối thứ Sáu - khoảng thời gian quý báu thoát khỏi sự nô lệ cực nhọc cho đồng lương - ngồi trước TV với một lon bia? Đó là một trí não trì trệ ngu si, và kinh dị thay, tôi thấy rằng mình đã quen với nó.
Đi chết đi, Doakes. Anh đang khiến tôi trở nên bình thường. “Này, thưa ngài”, Rita nói, quăng mình xuống bên cạnh tôi, ngồi khoanh chân, “sao ngài yên lặng thế?”.
“Anh nghĩ là mình đang làm việc quá sức”, tôi nói. “Và ít thích thú với nó hơn.”
Cô ấy im lặng một lúc, sau đó nói, “Anh đang nói đến gã mà anh phải thả hắn đi, phải không? Gã đã... giết bọn trẻ?”.
“Một phần là vì chuyện đó”, tôi nói. “Anh không thích những việc chưa được hoàn thành.”
Rita gật đầu, như thể thực sự hiểu những gì tôi vừa nói. “Nó rất... Ý em là, nó làm phiền anh. Có lẽ anh nên... Em không biết. Anh thường làm gì để thư giãn?”
Chắc chắn việc nghĩ đến chuyện nói với cô ấy những gì tôi đã làm để thư giãn sẽ gợi lên một số hình ảnh vui nhộn, nhưng có lẽ đó không phải một ý tưởng hay. Vì vậy, thay vào đó tôi nói, “Hừm, anh muốn chèo thuyền và đi câu cá”.
Và một giọng nói rất dịu dàng phía sau tôi cất lên, “Cháu cũng vậy”.
Các dây thần kinh của tôi chỉ được làm bằng thép mới ngăn tôi khỏi việc đâm đầu vào quạt trần; Tôi gần như không thể chạy trốn, và chẳng biết là có còn ai khác trong phòng hay không. Nhưng tôi đã quay lại và thấy Cody đang nhìn mình bằng đôi mắt không chớp.
“Cháu ư?”, tôi nói. “Cháu muốn đi câu cá à?”
Thằng nhóc gật đầu; nói ba từ cùng một lúc đã gần chạm tới giới hạn hằng ngày của nó.
“Hừm, vậy thì”, tôi nói, “Cứ như vậy đi. Sáng mai thì thế nào?”.
“Không”, Rita nói, “Em không nghĩ... Ý em là, thằng bé sẽ không... anh không cần phải đưa nó đi cùng đâu, Dexter”.
Cody nhìn tôi. Như thường lệ, thằng bé không nói thêm điều gì, nhưng nó cũng chẳng cần nói. Mọi thứ đã hiện rõ trong mắt nó. “Rita”, tôi nói, “đôi khi các chàng trai cần tránh xa các cô gái. Cody và anh sẽ đi câu cá vào sáng mai. Hãy mặc gọn gàng và dậy sớm”, tôi nói với Cody. “Tại sao?”
“Chú không biết tại sao”, tôi nói. “Nhưng cháu phải dậy sớm để chúng ta đi sớm.” Cody gật đầu, nhìn mẹ mình, sau đó xoay người và bước xuống hành lang.
“Thực sự, Dexter”, Rita nói. “Anh thực sự không phải đưa Cody theo đâu.”
Và tất nhiên, tôi biết là mình không buộc phải làm thế. Nhưng tại sao tôi lại không nên? Có lẽ điều đó sẽ chẳng gây cho tôi chút đau đớn thể xác thực tế nào. Bên cạnh đó, thật tốt khi được rời đi một vài giờ. Đặc biệt là thoát khỏi Doakes. Và trong mọi trường hợp, một lần nữa, tôi không biết tại sao lại như thế, nhưng trẻ con thực sự quan trọng với tôi. Tôi chắc chắn sẽ không thể chú tâm dạy chúng cách tập xe nhàm chán, nhưng nhìn chung, tôi thấy trẻ con thú vị hơn nhiều so với cha mẹ chúng.
Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa lên, Cody và tôi đã từ từ ra khỏi con lạch cạnh căn hộ của tôi trên con thuyền săn cá mập mười bảy feet. Cody mặc một chiếc áo phao màu xanh pha vàng và ngồi im trên nóc thùng giữ lạnh. Cody hơi co người một chút khiến đầu thằng bé gần như biến mất vào trong lớp áo, giống một con rùa sặc sỡ.
Bên trong thùng giữ lạnh là soda và bữa ăn trưa Rita làm cho chúng tôi - bữa ăn nhẹ cho mười hay mười hai người.
Tôi đã mua tôm đông lạnh làm mồi câu, vì đây là chuyến đi đầu tiên của Cody nên tôi không biết cậu nhóc sẽ có phản ứng như thế nào khi phải gắn một cái móc kim loại sắc nhọn vào vật gì đó còn sống. Tôi khá thích thú với việc tận hưởng điều đó, tất nhiên, mồi sống hoàn toàn sống động hơn, tốt hơn, nhưng ta không thể mong đợi gu thẩm mỹ tinh tế từ một đứa trẻ.
Chúng tôi ra khỏi con lạch, tới vịnh Biscayne và nhắm thẳng đến Cape Florida, chuyển hướng đi qua ngọn hải đăng. Cody không nói bất cứ điều gì cho đến khi chúng tôi nhìn thấy Stiltsville - bộ sưu tập kỳ lạ những ngôi nhà được xây dựng trên cọc nằm giữa vịnh. Lúc đó, thằng bé kéo mạnh tay áo tôi. Tôi cúi xuống để nghe tiếng thằng bé trong âm thanh gầm rú của động cơ và gió.
“Nhà”, Cody nói.
“Ừ”, tôi hét lên. “Thỉnh thoảng có người sống trong đó.” Thằng bé nhìn những ngôi nhà trượt dần lại phía sau, và khi chúng bắt đầu biến mất đằng sau chúng tôi, thằng bé lại ngồi trên chiếc thùng lạnh. Nó ngoái lại một lần nữa khi chúng đã gần khuất tầm nhìn. Sau đó, nó chỉ ngồi đó cho tới khi chúng tôi đến Fowey Rock và tôi neo thuyền. Tôi đặt động cơ ở mức trung bình rồi trượt neo qua mũi thuyền, chờ đợi để chắc chắn rằng nó bắt đúng chỗ trước khi tắt động cơ.
“Được rồi, Cody”, tôi nói. “Đã đến lúc giết một vài chú cá.”
Cậu nhóc mỉm cười - một sự kiện rất hiếm có. “Sẵn sàng”, nó nói.
Cody nhìn tôi chăm chú không chớp khi tôi chỉ cho thằng bé cách để luồn tôm vào móc. Sau đó, thằng bé cố gắng tự làm thử, rất chậm và cẩn thận đẩy móc. Nó nhìn cái móc, sau đó nhìn lên tôi. Tôi gật đầu, và nó quay lại nhìn mồi tôm, vươn ra để chạm vào phần móc đã xuyên qua lớp vỏ tôm.
“Được rồi”, tôi nói. “Bây giờ thả xuống nước.” Nó nhìn tôi. “Lũ cá đang ở đó”, tôi nói.
Cody gật đầu, hướng chiếc cần câu về một bên mạn tàu, ấn nút thả cần trên chiếc cần cuộn Zebco để thả mồi câu xuống nước. Tôi cũng quăng mồi của mình qua một bên, và chúng tôi ngồi đó, lắc lư chầm chậm trên những con sóng.
Tôi xem Cody câu cá với sự tập trung tuyệt đối. Có lẽ đó là sự kết hợp của vùng nước và một cậu nhóc, nhưng tôi không thể không nghĩ về Reiker. Mặc dù không thể điều tra kẻ đó một cách an toàn, tôi vẫn cho rằng hắn có tội. Khi biết rằng MacGregor đã biến mất, hắn sẽ làm gì? Dường như phần lớn khả năng là hắn sẽ hoảng sợ và cố gắng biến mất, nhưng ngược lại, càng nghĩ về nó, tôi càng không ngừng tự hỏi.
Có một sự miễn cưỡng con người rất tự nhiên khi phải từ bỏ toàn bộ cuộc sống và bắt đầu lại ở một nơi khác. Có lẽ hắn ta sẽ chỉ thận trọng trong một thời gian. Và nếu như vậy, tôi có thể lấp đầy thời gian của mình với việc tìm hiểu về danh bạ những hội kín - bất cứ ai đã tạo ra Nhóm Những Người
Nhàm Chán Gào Rú của đường số 4, NW, và thực tế rằng điều này nghe có vẻ giống như tên một vụ trinh thám của Sherlock Holmes khiến nó càng có vẻ khẩn cấp hơn. Bằng cách nào đó, tôi phải xoa dịu Doakes. Bằng cách nào đó, như thế nào đó, vào lúc nào đó, tôi phải...
“Chú sẽ là cha cháu ư?”, Cody đột nhiên hỏi.
May mắn thay lúc đó tôi không có gì trong miệng để bị sặc, nhưng trong một khoảnh khắc, dường như có gì đó với kích thước gần bằng một con gà tây dành cho Lễ Tạ ơn nằm trong cổ họng tôi. Khi có thể thở bình thường trở lại, tôi vật vã mãi mới có thể lắp bắp, “Tại sao cháu lại hỏi thế?”.
Cody vẫn nhìn chằm chằm cần câu của mình. “Mẹ cháu nói là có thể”, nó nói.
“Mẹ cháu đã nói thế sao?”, tôi nói, và thằng bé gật đầu mà không nhìn lên.
Đầu óc tôi quay cuồng. Rita nghĩ gì vậy? Tôi đã bị công việc nguỵ trang khó khăn để chống lại Doakes quấn lấy và không bao giờ thực sự nghĩ về những gì đã xảy ra trong đầu Rita. Rõ ràng là tôi lẽ ra nên nghĩ đến điều đó. Sao cô ấy có thể thực sự nghĩ như thế, đó... đó là chuyện không tưởng. Nhưng lạ thay tôi lại nghĩ đây là điều có thể hiểu được đối với một con người. May mắn là tôi không phải con người, và ý nghĩ ấy dường như hoàn toàn kỳ lạ đối với tôi. Mẹ cháu nói là có thể? Tôi có thể sẽ là cha của Cody? Có nghĩa là, ừm...
“Ừm”, tôi đáp, đó là một khởi đầu rất tốt cho thấy tôi hoàn toàn không có ý niệm gì về những thứ mình có thể nói. May mắn thay, ngay khi tôi vừa nhận ra chẳng có gì giống như một câu trả lời mạch lạc đã đi ra khỏi miệng mình, đầu cần câu của Cody liền giật dữ dội.
“Cháu câu được một con cá rồi!”, tôi nói, và trong vài phút tiếp theo, tất cả những gì cậu nhóc có thể làm là giữ chặt chiếc cần đang trĩu nặng. Con cá quẫy những đường zic zac hung dữ lặp đi lặp lại sang phải, trái, dưới thuyền, và sau đó thẳng theo chiều dọc. Nhưng dần dần, mặc cho con cá đã bơi những quãng dài xa khỏi tàu, Cody vẫn kéo được nó đến gần hơn. Tôi dạy cậu nhóc cách giữ cao đầu cần câu, chiều gió, đưa con cá tới gần nơi tôi có thể giúp một tay và mang nó lên tàu. Cuối cùng, Cody nhìn nó nằm thoi thóp trên boong tàu, đuôi vẫn quẫy dữ dội.
“Một con cá bạc má”, tôi nói. “Đó là một loài cá hoang.” Tôi cúi xuống để gỡ nó ra, nhưng nó đã quẫy nhiều đến nỗi bị mắc chặt vào lưỡi câu và không thể gỡ ra bằng một tay. Một dòng máu nhỏ chảy ra từ miệng nó và rơi xuống boong thuyền sạch bong của tôi, khiến tôi thấy có chút khó chịu. “Ồ”, tôi nói. “Chú nghĩ nó đã nuốt phải lưỡi câu. Chúng ta sẽ phải cắt nó ra.”
Tôi rút con dao phi lê ra khỏi vỏ nhựa màu đen rồi đặt trên boong. “Sẽ có rất nhiều máu”, tôi cảnh báo Cody. Tôi không thích máu, và không muốn thấy nó trong thuyền của mình, thậm chí là máu cá cũng không. Tôi tiến hai bước về phía trước để mở tủ đồ khô và lấy ra được một chiếc khăn sạch đã cũ.
“Haha.” Tôi nghe thấy tiếng cười nhẹ nhàng sau lưng.
Tôi liền quay lại.
Cody đã dùng dao đâm con cá, nhìn nó quằn quại dưới lưỡi dao, rồi cẩn thận đâm nó lần nữa. Lần thứ hai, thằng bé đâm sâu lưỡi dao vào mang con cá, và một dòng máu chảy ra boong tàu.
“Cody”, tôi nói.
Thằng bé ngước lên nhìn tôi và kỳ diệu làm sao, nó mỉm cười. “Cháu thích câu cá, chú Dexter”, nó nói.