SADIE
TÔI PHẢI LƯU Ý LÀ Carter đang mặc một chiếc váy.
[Ha! Anh không giật micro được đâu. Đến lượt em mà.]
Anh ấy quên không kể với các bạn chuyện đó, nhưng ngay khi chúng tôi vào đến Duat, bề ngoài của chúng tôi thay đổi và chúng tôi thấy mình mặc quần áo của người Ai Cập Cổ Đại.
Trang phục này khá là hợp với tôi. Chiếc váy dài bằng lụa trắng của tôi lấp lánh. Hai cánh tay tôi được tô điểm bởi nhiều vòng và nhẫn vàng. Đúng, chiếc vòng cổ trang sức hơi nặng, giống y như những chiếc tạp dề bằng chì mà bạn thường phải đeo khi đi chụp X quang hay đến chỗ nha sĩ, và mái tóc tôi được tết thành bím với bao nhiêu là keo xịt tóc đủ để làm tê liệt một vị thần lớn. Nhưng ngoài ra, tôi chắc là mình trông khá là lôi cuốn.
Carter, ngược lại, mặc một chiếc váy của đàn ông – một tấm vải lanh cuốn đơn giản, cây móc và côn xích gắn cầu gai kim loại đeo trên một dạng thắt lưng dụng cụ quấn quanh eo anh ấy. Ngực anh ấy để trần, ngoại trừ một chiếc vòng vàng đeo ở cổ, y như của tôi. Mắt anh ấy được vẽ phấn đen, và anh ấy không đi giầy.
Đối với người Ai Cập Cổ Đại, tôi chắc là trông anh ấy rất uy nghi và thiện chiến, một tinh hoa của loài người. [Thấy chưa? Em cũng nói được như thế mà không phì cười đấy nhé.] Và tôi cho rằng Carter không phải là người con trai trông tệ nhất khi ở trần, nhưng như thế không có nghĩa là tôi muốn mạo hiểm khám phá âm phủ với một người anh chẳng mặc gì ngoài đồ trang sức và một chiếc khăn choàng tắm biển.
Chúng tôi vừa bước lên con thuyền của thần mặt trời, Carter ngay lập tức bị dằm đâm vào bàn chân.
"Tại sao anh lại đi chân không chứ?" Tôi hỏi.
"Đó có phải là ý tưởng của anh đâu!" Anh ấy nhăn nhó trong khi rút một mảnh ván thuyền to như cái tăm xỉa răng giữa các ngón chân. "Anh đoán là do các chiến binh cổ đại thường đi chân không chiến đấu. Xăng đan trở nên quá trơn với mồ hôi và máu, đại loại vậy."
"Và chiếc váy?"
"Đi thôi nào, được chứ?"
Nói thì dễ hơn làm.
Con thuyền bồng bềnh rời khỏi cầu tàu, rồi mắc vào một xoáy nước cách đó vài mét ở hạ nguồn. Chúng tôi bắt đầu xoay tròn.
"Một câu hỏi nhỏ," tôi nói. "Anh có biết gì về thuyền bè không?"
"Chẳng biết gì," Carter thú nhận.
Cánh buồm tả tơi của chúng tôi chẳng ích gì hơn một mảnh vải rách. Những mái chèo hoặc là bị gãy hoặc kéo lê một cách vô dụng trong nước, và trông chúng khá nặng. Tôi không biết làm sao hai chúng tôi có thể chèo được con thuyền mà thông thường cần một hai mươi tay chèo, kể cả khi dòng sông lặng sóng. Lần trước chúng tôi đi qua Duat, chuyến đi vút nhanh như trượt ván.
"Thế còn những ánh sáng hình cầu ấy thì sao nhỉ?" Tôi hỏi. "Giống như đội chèo thuyền trên tàu Nữ Hoàng Ai Cập?"
"Em có thể triệu hồi được vài quả không?"
"Rồi," tôi càu nhàu. "Đẩy việc khó lại cho em."
Tôi nhìn quanh con thuyền, hi vọng nhìn thấy một nút bấm có ghi: BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ GỌI CÁC THỦY THỦ PHÁT SÁNG! Tôi chẳng thấy điều gì có ích. Tôi biết con thuyền của thần mặt trời đã từng có đoàn thủy thủ ánh sáng. Tôi đã nhìn thấy họ trong cảnh mộng của tôi. Nhưng làm thế nào để triệu tập họ đây?
Dưới tán lọng trống không. Ngai vàng lửa đã biến mất. Con thuyền tĩnh lặng ngoại trừ tiếng nước rỉ qua những vết nứt trên vỏ thuyền. Tôi bắt đầu thấy chóng mặt vì con thuyền cứ xoay tròn.
Thế rồi một cảm giác khủng khiếp len vào trong tôi. Hơn chục giọng nói khẽ khàng thì thầm sau đầu tôi: Isis. Kẻ Âm Mưu. Kẻ Đầu Độc. Kẻ Phản Bội.
Tôi nhận ra sự khó ở của tôi không phải chỉ vì dòng nước xoáy. Toàn bộ con thuyền đang gửi tới tôi những ý nghĩ hiểm độc. Những tấm ván dưới chân tôi, những thanh lan can, những mái chèo và thanh truyền động – mọi thành phần trên con thuyền của thần mặt trời căm ghét sự có mặt của tôi.
"Carter, con thuyền này không thích em đâu," tôi thông báo.
"Em muốn nói là con thuyền này rất có gu ư?"
"Ha-ha. Ý em là, nó cảm nhận được Isis. Nói chung nữ thần đã từng đầu độc Ra và buộc ông ấy đi lưu đày. Con thuyền ghi nhớ điều đó."
"À... xin lỗi vậy, hay làm gì đó."
"Chào, thuyền," Tôi nói, cảm thấy thật ngốc nghếch. "Rất tiếc vì chuyện đầu độc. Nhưng, biết không – ta đâu phải là Isis. Ta là Sadie Kane."
Kẻ Phản Bội, những giọng nói thầm thì.
"Ta có thể hiểu vì sao các ngươi nghĩ như vậy," tôi thú nhận. "Có lẽ là ta có cái mùi "phép thuật" của Isis trên người ta, phải không? Nhưng thật sự, ta đã để Isis đi rồi. Nữ thần không còn ở trong ta nữa. Anh trai ta và ta ra đi để đưa Ra trở về."
Con thuyền rùng mình. Hơn chục giọng nói nhỏ im bặt, như thể đây là lần đầu tiên trong cuộc đời bất tử của chúng, chúng thực sự, thực sự kinh ngạc. (À, đó là vì chúng chưa được gặp tôi, phải không nào?)
"Như thế tốt lắm, đúng không?" tôi thử. "Ra trở về, như ngày xưa, đi trên dòng sông? Chúng ta ở đây để sửa sai mọi chuyện, nhưng để làm được điều đó chúng ta cần thực hiện chuyến đi qua Những Ngôi Nhà của Đêm. Nếu các ngươi hợp tác –"
Khoảng hơn một chục ánh sáng hình cầu hiện ra. Chúng lượn quanh tôi như một bầy những quả bóng tennis tức giận cháy sáng, nhiệt lượng của chúng thật mạnh, tôi nghĩ chúng có thể đốt cháy chiếc váy mới của tôi.
"Sadie," Carter cảnh cáo. "Trông chúng chẳng vui vẻ gì."
Và anh ấy cứ tự hỏi vì sao tôi gọi anh ấy là Thuyền Trưởng Dĩ Nhiên.
Tôi cố gắng giữ bình tĩnh.
"Tử tế nào," Tôi nghiêm nghị nói với đám ánh sáng. "Không phải là vì ta. Mà vì Ra. Nếu các ngươi muốn pharaoh của mình trở lại, các người hãy chăm lo việc của mình đi."
Tôi nghĩ tôi sẽ bị nướng như món gà tandoori24 , nhưng tôi đứng vững vàng. Bởi vì tôi bị bao vây, tôi thực sự không có sự lựa chọn. Tôi vận dụng phép thuật của mình vàcố gắng bẻ cong ánh sáng bằng ý chí – cách tôi thường làm để biến một ai đó thành chuột hay thằn lằn.
Các ngươi sẽ giúp đỡ, tôi ra lệnh. Các ngươi sẽ tuân lệnh làm công việc của mình.
Có tiếng kêu xì xì đồng thanh trong đầu tôi, có nghĩa là hoặc tôi đã làm nổ tung mạch máu não, hoặc là đám ánh sáng đang dịu đi.
Đội chèo thuyền tản ra. Chúng vào vị trí, kéo dây, sửa buồm, chữa các mái chèo bị gẫy, và cầm lái.
Vỏ thuyền bị rò rỉ, rên lên trong khi con thuyền quay mũi xuôi dòng.
Carter thở hắt ra. "Được lắm. Em không sao chứ?"
Tôi gật đầu, nhưng thực sự tôi có cảm giác đầu mình vẫn quay cuồng. Tôi không biết liệu mình đã thuyết phục được mấy quả cầu, hay chúng chỉ đơn giản là đang kéo dài thời gian, đợi để báo thù. Dù sao chăng nữa, tôi chẳng vui gì khi phải đặt tính mạng của chúng tôi trong tay chúng.
Chúng tôi bơi đi trong bóng tối. Phong cảnh thành phố London tan biến. Dạ dày tôi có cái cảm giác rơi tự do trong khi chúng tôi đi sâu hơn vào trong Duat.
"Chúng ta đang tiến vào Nhà Hai," tôi đoán.
Carter nắm lấy cột buồm để đứng cho vững. "Ý em là Những Ngôi Nhà của Đêm, như Bes đã nói à? Nhân tiện, chúng là gì vậy?"
Tôi có cảm giác thật lạ khi giải thích về các truyền thuyết Ai Cập cho Carter. Tôi nghĩ chắc có thể là anh ấy đang trêu tôi, nhưng dường như Carter đang thực sự rối trí.
"Điều em đọc được trong Cuốn Sách của Ra," tôi nói. "Mỗi giờ trong đêm là một ‘Nhà’. Chúng ta phải đi qua mười hai chặng của dòng sông, tương ứng với mười hai giờ của một đêm."
Carter nhìn vào bóng đêm trước mặt chúng tôi. "Vậy là nếu chúng ta ở Nhà Hai, nghĩa là một giờ đã trôi qua rồi ư? Anh chưa có cảm giác lâu đến thế."
Anh ấy nói đúng. Cảm giác chưa lâu đến thế. Thế nhưng, tôi không biết thời gian ở Duat trôi qua ra sao. Mỗi Nhà của Đêm chưa chắc đã tương ứng chính xác với một giờ trên trần thế ở thế giới loài người.
Anubis có lần đã bảo tôi rằng anh ấy đã từng ở Miền Đất Chết trong hơn năm nghìn năm, nhưng anh ấy vẫn có cảm giác như mình là một thiếu niên, như thể thời gian chưa hề trôi.
Tôi rùng mình. Sẽ thế nào nếu chúng tôi ló ra ở đầu kia của Dòng Sông Đêm và nhận thấy rằng vài thiên niên kỉ đã trôi qua? Tôi vừa bước sang tuổi mười ba. Tôi chưa sẵn sàng để già một nghìn ba trăm tuổi.
Tôi cũng ước gì mình không nghĩ tới Anubis. Tôi chạm vào lá bùa shen ở trên sợi dây chuyền. Sau tất cả những gì đã xảy ra với Walt, cái ý tưởng gặp lại Anubis khiến tôi cảm thấy tội lỗi kỳ lạ, nhưng cũng phấn khích. Có lẽ Anubis sẽ giúp đỡ chúng tôi trong chuyến đi này. Có lẽ anh ấy sẽ đưa tôi đi đến một chốn nào riêng tư để trò chuyện như anh ấy đã làm lần trước khi chúng tôi tới thăm Duat – một nghĩa trang xinh xắn và lãng mạn nào đó, một bữa tối cho hai người ở tiệm Cafe Áo Quan...
Tỉnh lại đi nào Sadie. Tôi nghĩ. Tập trung nào.
Tôi lôi Cuốn Sách của Ra từ trong túi ra và xem lướt lại phần hướng dẫn. Tôi đã đọc chúng vài lần rồi, nhưng chúng rất khó hiểu và rắc rối – chẳng khác nào cuốn sách giáo khoa toán. Cuộn giấy đầy chặt những thuật ngữ kiểu như "đầu tiên của Sự Hỗn Mang," "thở vào đất sét," "nhóm đêm" "tái sinh từ lửa," "cánh đồng mặt trời," "nụ hôn của lưỡi dao," "kẻ đầu cơ ánh sáng," và "con bọ hung cuối cùng" – đa phần những thuật ngữ ấy chẳng có ý nghĩa gì với tôi.
Tôi hiểu ra là trong khi chúng tôi đi qua mười hai chặng của dòng sông, tôi sẽ phải đọc ba chương Cuốn Sách của Ra ở ba địa điểm khác nhau, có lẽ để tái hiện lại những bản ngã khác nhau của thần mặt trời, và mỗi một bản ngã sẽ đưa ra một thách thức gì đó cho chúng tôi. Tôi biết là nếu tôi thất bại – nếu như tôi chỉ đọc vấp một từ thôi trong khi đọc thần chú – tôi sẽ gặp phải kết thúc còn tệ hại hơn cả Menshikov. Ý nghĩ ấy làm tôi hoảng sợ, nhưng tôi không thể đắm mình trong khả năng thất bại. Đơn giản tôi chỉ phải hi vọng rằng, khi đến lúc, những câu nói lủng củng kia sẽ trở nên có nghĩa.
Dòng sông chảy xiết hơn. Nước rò vào thuyền cũng nhiều hơn. Carter thể hiện kỹ năng chiến đấu thần diệu của mình bằng cách triệu hồi một cái gầu và tát nước ra ngoài, trong khi tôi cố gắng tập trung để giữ đội chèo thuyền trong khuôn khổ. Càng đi sâu vào Duat, những ánh sáng hình cầu càng trở nên bất trị hơn. Chúng cọ xát với ý chí của tôi, nhắc tôi nhớ rằng chúng muốn thiêu tôi thành tro bụi nhiều biết chừng nào.
Thật chẳng đễ chịu gì khi phải trôi trên dòng sông kỳ diệu với những giọng nói thì thầm trong đầu: Chết đi, đồ phản bội, chết đi. Tôi thường xuyên có cảm giác là chúng tôi bị theo dõi, Tôi quay đầu và nghĩ rằng tôi có thể nhìn thấy một vệt mờ màu trắng trên nền đen, như thể là dư ảnh của đèn flash, nhưng tôi quyết cho rằng đó chỉ là do tôi tưởng tượng mà thôi. Đáng lo hơn là bóng tối trước mặt – không bến bờ, không ranh giới, chẳng nhìn thấy gì cả. Các tay chèo có thể đưa chúng tôi lao thẳng vào một khối đá hay miệng một con quái vật, và chúng tôi sẽ chẳng hề được báo trước. Chúng tôi cứ thế đi qua khoảng trống tối om.
"Tại sao chẳng... có gì hết thế?" Tôi thì thầm.
Carter đổ một gầu nước ra ngoài. Trông anh ấy thật kì quặc – một cậu trai ăn mặc như pharaoh với cây móc và cây côn xích gắn cầu gai kim loại, đang tát nước ra khỏi con thuyền bị nước rò.
"Có lẽ những Ngôi Nhà của Đêm cũng có nếp ngủ của loài người," anh ấy gợi ý.
"Cái gì của loài người cơ?"
"Nếp ngủ. Mẹ thường nói với chúng ta về chuyện đó trước giờ đi ngủ mà. Nhớ không?"
Tôi không nhớ. Nhưng xét cho cùng, khi mẹ mất tôi mới sáu tuổi đầu. Mẹ là một nhà khoa học đồng thời cũng là một pháp sư, và bà chẳng nghĩ gì khi đọc định luật của Newton hay Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học cho chúng tôi thay những câu chuyện kể trước giờ đi ngủ. Phần lớn chúng đã trôi tuột khỏi đầu tôi, nhưng tôi muốn nhớ lại. Tôi luôn luôn bực mình khi Carter nhớ về mẹ tốt hơn tôi nhiều.
"Giấc ngủ có nhiều giai đoạn," Carter nói. "Ví dụ như, trong vài tiếng đầu tiên, não bộ gần như ở trong trạng thái bất tỉnh – một giấc ngủ thật sâu gần như không có mộng mị gì. Có lẽ vì thế mà ở phần này dòng sông tối đến thế và không có hình dạng. Thế rồi muộn hơn, não bộ trải qua giai đoạn – R.E.M – mắt chớp nhanh. Đó là khi những giấc mơ xuất hiện. Các chu kì diễn ra mỗi lúc một nhanh hơn và sống động hơn. Có lẽ Những Ngôi Nhà của Đêm tuân theo nếp ngủ như thế."
Nghe có vẻ cường điệu quá. Thế nhưng, mẹ luôn bảo với chúng tôi rằng, khoa học và phép thuật không loại trừ nhau. Mẹ gọi chúng là hai thứ thổ ngữ của cùng một ngôn ngữ. Bast có lần nói với chúng tôi rằng có hàng triệu kênh nhánh và phụ lưu khác nhau chảy vào dòng sông của Duat. Đặc tính địa lý thay đổi với mỗi hành trình, tương ứng với những ý nghĩ của người du hành. Nếu dòng sông được hình thành bởi tất cả những tâm thức đang ngủ say trên thế giới, nếu dòng chảy của nó sẽ trở nên sống động và điên rồ hơn khi đêm trôi qua, thì chúng tôi sẽ có một chuyến đi gập ghềnh.
Dòng sông rút cuộc hẹp lại. Bờ sông xuất hiện ở cả hai bên – cát núi lửa đen lấp lánh trong ánh sáng của đội chèo thuyền kì diệu của chúng tôi. Không khí trở nên lạnh hơn. Đáy thuyền cọ vào đá và các dải cát, khiến cho các chỗ thủng càng tệ hơn. Carter quẳng cái gầu đi và lôi sáp từ trong túi dụng cụ ra. Chúng tôi cùng nhau cố gắng nút các chỗ thủng, đọc những câu thần chú ràng buộc để giữ cho con thuyền được nguyên vẹn. Nếu như tôi có cái kẹo cao su nào, chắc tôi cũng phải dùng nốt.
Chúng tôi không đi qua tấm biển báo nào kiểu – ĐANG ĐI VÀO NHÀ BA, TRẠM NHIÊN LIỆU Ở LỐI RA SẮP TỚI – nhưng rõ ràng là chúng tôi đã đi vào một khúc sông khác. Thời gian đang trôi tuột đi với tốc độ báo động, và chúng tôi vẫn chưa làm được gì cả.
"Có lẽ buồn chán là thách thức đầu tiên," Tôi nói. "Khi nào thì sẽ có chuyện nhỉ?"
Lẽ ra tôi đừng nên thốt lên điều đó. Ngay trước mặt chúng tôi, một hình dáng hiện ra trong bóng tối. Một bàn chân đi xăng đan to cỡ chiếc đệm nước đặt ngay trước mũi thuyền và bắt chết chúng tôi trong nước.
Đó cũng chẳng phải là một bàn chân hấp dẫn nốt. Chắc chắn là chân đàn ông. Ngón chân lấm lem bùn và các móng chân vàng khè, nứt nẻ, mọc quá dài. Quai xăng đan da phủ đầy tảo và vỏ hàu. Tóm lại, bàn chân có vẻ ngoài và có mùi như thể đã đứng mãi trên cùng một tảng đá ở giữa dòng sông, đi mãi cùng một đôi xăng đan hàng ngàn năm nay.
Thật không may, bàn chân lại gắn với một cái chân, chân đó gắn vào một cơ thể. Người khổng lồ cúi xuống nhìn chúng tôi.
"Các ngươi buồn chán hả?" giọng ông ta ồm ồm, không phải là thiếu thân thiện. "Ta có thể giết chết các ngươi, nếu như điều ấy có ích."
Ông ta mặc một chiếc váy giống như của Carter, ngoại trừ việc chiếc váy của ông ta có thể cung cấp đủ vải để may một chục cánh buồm. Thân hình ông ta khá giống người, vạm vỡ, phủ đầy lông lá – thứ lông mao dày đến nỗi nó khiến tôi mong muốn được thành lập một quĩ tẩy lông từ thiện cho những người đàn ông quá rậm lông. Ông ta có cái đầu của một con cừu đực, mõm trắng, chiếc vòng đồng xỏ qua lỗ mũi và hai chiếc sừng dài và cong với một tá chuông đồng. Đôi mắt ông ta cách xa nhau, mống mắt đỏ sáng rực và hai con ngươi là hai khe hở dọc. Tôi đoán tất cả những điều ấy nghe thật đáng sợ, nhưng Người khổng lồ đầu cừu đực không gây ấn tượng độc ác với tôi. Thực ra, không hiểu sao trông ông ta khá là quen. Ông ta có vẻ u sầu hơn là đáng sợ, như thể ông ta đã đứng trên đảo đá nhỏ giữa dòng sông quá lâu rồi, nên đã quên vì sao mình đứng đó.
[Carter hỏi tôi đã trở thành người nuôi cừu đực từ khi nào. Im đi nào, Carter.]
Tôi thực sự cảm thấy thương hại Người khổng lồ đầu cừu đực. Đôi mắt ông ta đầy những cô đơn. Tôi không thể tin được là ông ta sẽ làm hại chúng tôi – cho tới lúc ông ta rút từ thắt lưng ra hai con dao lớn với lưỡi dao cong vút như hai chiếc sừng của ông ta.
"Các ngươi im lặng," ông ta nhận xét. "Như thế là đồng ý để ta giết hả?"
"Không, cám ơn!" Tôi nói, cố gắng tỏ vẻ biết ơn lời mời. "Làm ơn cho tôi nói vài từ và hỏi một câu thôi. Vài từ đó là cắt móng chân. Câu hỏi đó là: Ông là ai?"
"Ahhh-ha-ha-ha," ông ta nói, be be như tiếng cừu kêu. "Nếu các ngươi biết tên ta, thì chúng ta chẳng cần màn giới thiệu, và ta có thể để các ngươi đi qua. Thật không may, chưa từng có ai biết tên ta cả. Cũng thật đáng xấu hổ. Ta thấy rằng các ngươi đã tìm ra Cuốn Sách của Ra. Các ngươi đã hồi sinh đội chèo thuyền của Ra và đưa được con thuyền tới Nhà Bốn. Chưa từng có ai đi được xa đến thế. Ta rất lấy làm tiếc là ta sẽ phải cắt các ngươi thành từng mảnh."
Ông ta lăm lăm mấy con dao, mỗi tay một con. Những quả cầu phát sáng ào lên trong tiếng thầm thì cuồng loạn, Đúng! Cắt cô ta ra! Đúng!
"Một giây nhé," Tôi nói lớn với người khổng lồ. "Nếu chúng tôi nói tên ông, chúng tôi được đi qua?"
"Dĩ nhiên." Ông ta thở dài. "Nhưng chưa từng có ai nói được."
Tôi liếc nhìn Carter. Đây không phải là lần đầu tiên chúng tôi bị chặn lại trên Dòng Sông Đêm và bị thử thách phải nói đúng tên người gác nếu không sẽ chết. Dường như, đó là một thí nghiệm cho những linh hồn Ai Cập và các pháp sư đi qua Duat. Nhưng tôi không thể tin là chúng tôi lại có một phép thử dễ đến thế. Tôi chắc chắn là mình đã nhận ra Người khổng lồ đầu cừu đực. Tôi đã nhìn thấy bức tượng ở Bảo tàng Brooklyn.
"Đó là ông ta, phải không?" Tôi hỏi Carter. "Người trông giống Bullwinkle25 ấy ?"
"Đừng có gọi ông ta là Bullwinkle!" Carter khẽ rít lên. Anh ấy ngước nhìn người khổng lồ đầu cừu đực và nói, "Ông là Khnum, phải không?"
Người khổng lồ đầu cừu đực thốt lên một tiếng trầm sâu trong họng. Ông ta gại gại mấy con dao vào lan can con thuyền. "Đó là một câu hỏi? Hay là câu trả lời cuối cùng của các ngươi?"
Carter chớp mắt. "Ừm –"
"Đó không phải là câu trả lời cuối cùng của chúng tôi!" Tôi thốt lên, nhận ra chúng tôi suýt nữa bước chân vào bẫy. "Còn lâu. Khnum chỉ là tên thông thường của ông thôi, phải không? Ông muốn chúng tôi nói tên thật của ông, ren của ông."
Khnum nghiêng đầu, những chiếc chuông trên sừng ông kêu leng keng. "Được thế thì hay quá. Nhưng, ái chà, chẳng ai biết cả. Thậm chí ta còn quên nó nữa là."
"Làm sao ông có thể quên tên chính mình được?" Carter hỏi. "Và, phải đấy, đó là một câu hỏi."
"Ta là một phần của Ra," thần đầu cừu đực nói. "Ta là bản ngã của ông ấy dưới âm phủ - một phần ba tính cách của ông ấy. Nhưng khi Ra thôi không còn tiếp tục hành trình hằng đêm của ông ấy nữa, ông ấy không còn cần đến ta. Ông ấy bỏ ta ở đây, tại cửa Nhà Bốn, vứt ta đi như vứt chiếc áo khoác cũ. Giờ ta canh gác những cánh cửa này... Ta không còn mục đích nào khác. Nếu như ta có thể giành lại được tên của mình, ta có thể chuyển giao linh hồn mình cho ai là người giải phóng ta. Họ có thể tái thống nhất ta với Ra, nhưng cho tới lúc đó, ta không thể rời khỏi chỗ này."
Ông ta có vẻ trầm cảm kinh khủng, như một con cừu nhỏ bị lạc, hay đúng hơn là một con cừu bị lạc cao mười thước, tay lăm lăm hai con dao. Tôi muốn giúp ông ta. Thậm chí còn hơn thế, tôi muốn tìm cách để mình không bị xẻ ra từng mảnh nhỏ.
"Nếu ông không nhớ được tên của ông," tôi hỏi, "tại sao chúng tôi không thể nói với ông bất cứ cái tên cổ nào? Làm sao ông biết được nó đúng hay không?"
Khnum buông thõng con dao trong nước. "Ta đã không nghĩ đến chuyện đó."
Carter liếc nhìn tôi như muốn nói. Tại sao lại bảo với ông ta?
Thần đầu cừu đực be be. "Ta nghĩ là ta sẽ biết ren của mình khi nghe thấy nó," ông ta quyết định, "mặc dầu ta cũng không chắc lắm. Ta đã đánh mất phần lớn ký ức của mình, phần lớn sức mạnh của ta và cá tính của ta. Ta chẳng hơn gì cái vỏ của chính ta trước đây."
"Chính ông trước đây hẳn là khủng lắm," tôi lẩm bẩm.
Vị thần hẳn có thể đã mỉm cười, mặc dù trên bộ mặt cừu đực ta thật khó mà nói chính xác. "Ta lấy làm tiếc là ngươi không có ren của ta. Ngươi là một cô nhóc sáng dạ. Ngươi là người đầu tiên đi xa được thế này. Người đầu tiên và giỏi nhất." Ông ta thở dài khổ sở. "À, thôi. Ta đoán là chúng ta phải chuyển sang mục giết chóc."
Người đầu tiên và giỏi nhất. Đầu óc tôi bắt đầu cuộc chạy đua.
"Đợi đã," tôi nói. "Tôi biết tên ông."
Carter hét lên. "Em biết à? Nói cho ông ta đi!"
Tôi nghĩ đến một dòng trong Cuốn Sách của Ra – đầu tiên từ Sự Hỗn Mang. Tôi rút ra từ những ký ức về Isis, nữ thần duy nhất biết được bí danh của Ra, và tôi bắt đầu hiểu bản chất của thần mặt trời.
"Ra là vị thần đầu tiên sinh ra từ Sự Hỗn Mang," tôi nói.
Khnum cau mày. "Đó là tên ta ư?"
"Không, nghe nhé," tôi nói. "Ông nói rằng ông không hoàn chỉnh nếu không có Ra, ông chỉ là cái vỏ của chính ông trước đây. Nhưng điều đó cũng đúng với tất cả các vị thần Ai Cập khác. Ra là vị thần cổ xưa nhất, mạnh nhất. Ông ấy là cội nguồn của Ma’at, như –"
"Như là rễ cái của các vị thần," Carter gợi ý.
"Đúng," tôi đáp. "Em không biết rễ cái là gì, nhưng – đúng. Bao thiên niên kỉ qua, các vị thần khác đã dần mờ nhạt, mất đi sức mạnh, bởi vì thiếu Ra. Có thể họ không thú nhận điều đó, nhưng ông ấy là trái tim của họ. Họ phụ thuộc vào ông ấy. Bao nhiêu lâu nay, chúng ta cứ tự hỏi, liệu đưa Ra trở về có đáng công không. Chúng ta không biết tại sao lại quan trọng thế nhưng giờ em đã hiểu."
Carter gật đầu, tiếp thu ý tưởng đó một cách chậm rãi. "Ra là trung tâm của Ma’at. Ông ấy phải trở về, nếu các vị thần muốn thắng cuộc."
"Và đó là lý do tại sao Apophis muốn đưa Ra trở về," tôi đoán. "Hai điều ấy có liên hệ Ma’at và Sự Hỗn Mang. Nếu Apophis có thể nuốt chửng Ra trong khi vị thần mặt trời già và yếu –"
"Tất cả các vị thần sẽ chết," Carter đáp. "Thế giới sẽ đổ sụp trong Sự Hỗn Mang."
Khnum quay đầu để có thể quan sát tôi với một con mắt đỏ rực. "Khá là thú vị đấy," ông ta nói. "Nhưng ta không nghe thấy bí danh của ta. Để đánh thức Ra, ngươi phải gọi được tên ta trước."
Tôi mở Cuốn Sách của Ra và hít một hơi thật sâu. Tôi bắt đầu đọc phần đầu tiên của thần chú. Bây giờ, hẳn bạn sẽ nghĩ, Trời ơi Sadie. Bài kiểm tra lớn của cô chỉ là đọc vài từ của một cuộn giấy? Có gì là khó chứ?
Nếu bạn nghĩ vậy, rõ ràng là bạn chưa từng bao giờ đọc thần chú. Hãy tưởng tượng đọc to thành tiếng trên sân khấu trước hàng ngàn giáo viên thù địch đang đợi cho bạn điểm kém. Hãy tưởng tượng bạn chỉ có thể đọc bằng cách nhìn vào phản chiếu ngược hiện ra trên một chiếc gương. Hãy tưởng tượng các từ lẫn lộn với nhau, và bạn sẽ phải lắp ghép các câu lại với nhau theo đúng một trật tự trong khi đọc. Hãy tưởng tượng bạn phạm một lỗi, đọc vấp một câu, đọc sai một chữ, và bạn sẽ chết. Hãy tưởng tượng làm tất cả các điều ấy cùng một lúc, và bạn sẽ có vài ý tưởng làm thế nào để niệm thần chú từ một cuộn giấy.
Mặc dù vậy, tôi cảm thấy tự tin lạ thường. Câu thần chú bỗng trở nên có nghĩa.
" ‘Tôi đặt tên người là Đầu Tiên từ Hỗn Mang,’ " Tôi nói. "Khnum, chính là Ra, mặt trời buổi tối. Tôi triệu tập ba của người để đánh thức Thần Vĩ Đại, bởi vì tôi –‘ "
Suýt nữa thì tôi phạm vào sai lầm chết người đầu tiên: chỗ này trên cuộn giấy ghi đại loại điền tên vào đây. Và tôi tí nữa thì đọc to lên như thế này: "Bởi vì tôi điền tên vào đây!"
Nào? Đó hẳn là một lỗi chân thật. Thay vào đó, tôi cố gắng nói được, " ‘Tôi là Sadie Kane, người phục hồi ngai vàng lửa. Tôi đặt tên người là Thở vào Đất Sét, Đầu Cừu Đực của Nhóm Đêm, ...Tối cao ‘ "
Tôi lại suýt nhầm lần nữa. Tôi đã chắc là tước vị Ai Cập này là Người Hút Bọ Tối Cao. Nhưng như thế chẳng có nghĩa gì cả, trừ phi Khnum có những quyền năng phép thuật mà tôi không muốn biết tới. Ơn trời, tôi nhớ được một vài điều từ Bảo Tàng Brooklyn. Khnum được mô tả như người thợ gốm đang điêu khắc một hình người từ đất sét.
" ‘ – Người Thợ Gốm Tối Cao,’ " Tôi tự sửa mình. "Ta gọi người là Khnum, người bảo vệ cánh cổng thứ bốn. Ta trả lại tên cho người. Ta trả lại tinh hoa của người cho Ra."
Đôi mắt to tướng của vị thần dãn ra. Mũi ông ta nở lớn. "Đúng." Ông ta đút những con dao vào vỏ. "Làm tốt lắm, quí cô. Hai người có thể đi qua Nhà Bốn. Nhưng hãy cẩn thận với lửa, và chuẩn bị tinh thần để gặp bản ngã thứ hai của Ra. Ông ta sẽ không biết ơn sự giúp đỡ của hai người lắm đâu."
"Ý ông muốn nói gì?" Tôi hỏi.
Nhưng hình hài của thần đầu cừu đực đã tan vào trong sương mù. Cuốn Sách của Ra hút lấy làn khói và cuộn tròn đóng lại. Khnum và hòn đảo của ông ta biến mất. Con thuyền trôi vào một đường hầm hẹp hơn.
"Sadie," Carter nói, "Thật là ngoạn mục."
Thông thường, tôi rất vui khi khiến anh trai kinh ngạc vì sự giỏi giang của mình. Nhưng tim tôi đang đập rất nhanh. Tay tôi đổ mồ hôi, và tôi nghĩ rằng tôi sắp sửa nôn. Thêm nữa, tôi có thể cảm thấy những ánh sáng hình cầu đã qua cơn sốc, bắt đầu trở lại chống đối tôi.
Không cắt, chúng phàn nàn, Không cắt!
Hãy lo việc của các ngươi, tôi đáp trả chúng bằng ý nghĩ. Và tiếp tục chèo thuyền đi.
"Ừm, Sadie?" Carter hỏi. "Tại sao mặt em trở nên đỏ thế kia?"
Tôi nghĩ là anh ấy buộc tội tôi là đỏ mặt. Thế rồi tôi nhận thấy là anh ấy cũng đỏ nốt. Cả con thuyền chìm trong sắc đỏ của hồng ngọc. Tôi quay đầu nhìn về phía trước chúng tôi, và tôi kêu lên một tiếng trong cổ họng y như tiếng be be của Khnum.
"Ồ, không," tôi nói. "Không thể là nơi này lần nữa."
Cách chúng tôi chừng một trăm mét, một đường hầm dẫn tới một cái hang lớn. Tôi nhận ra Hồ Lửa rộng lớn sôi sục; nhưng lần trước tôi không nhìn thấy nó từ góc độ này.
Chúng tôi đang tăng tốc độ, tiến về một loạt ghềnh nước như những lát cắt. Ở cuối các ghềnh, dòng nước biến thành một thác nước cuồn cuộn và đổ thẳng vào cái hồ cách khoảng nửa dặm bên dưới. Chúng tôi đang ầm ầm lao tới vách nước dựng đứng mà không có cách nào dừng lại được.
Tiếp tục chèo thuyền đi, đội chèo thuyền thì thầm vẻ hân hoan. Tiếp tục chèo thuyền đi!
Có lẽ chúng tôi có chưa tới một phút, nhưng cảm tưởng như dài hơn. Tôi cho là thời gian lao như tên bắn khi ta vui nhưng thực sự bò ra chậm chạp khi ta ầm ầm tiến tới cái chết.
"Chúng ta phải quay lại!" Carter nói. "Thậm chí nếu đó không phải là lửa, chúng ta sẽ không thể sống sót nếu bị rơi xuống đó!"
Anh ấy bắt đầu gào lên với những ánh sáng hình cầu, "Quay trở lại! Chèo đi! Báo động!"
Mấy quả cầu hớn hở lờ phắt anh ấy.
Tôi trừng trừng nhìn cú rơi rực lửa vào quên lãng và Hồ Lửa bên dưới. Mặc dù những làn sóng nhiệt cuốn lấy chúng tôi như hơi thở của một con rồng, tôi cảm thấy lạnh. Tôi nhận ra điều cần phải xảy ra.
"Tái sinh trong lửa," tôi nói.
"Cái gì?" Carter hỏi.
"Đó là một dòng trong Cuốn Sách của Ra. Chúng ta không thể quay trở lại. Chúng ta phải tới đó – tiến thẳng vào trong hồ."
"Em điên rồi à? Chúng ta sẽ bị thiêu rụi!"
Tôi xé toang chiếc túi phép thuật và lục lọi các đồ vật của mình. "Chúng ta phải đưa con thuyền qua lửa. Đó là phần mặt trời tái sinh hàng đêm, đúng không? Ra hẳn sẽ làm điều đó."
"Ra không thể cháy được!"
Thác nước chỉ còn cách chúng tôi hai mươi mét nữa. Tay tôi run lên trong khi tôi đổ mực vào nghiên. Nếu bạn chưa bao giờ cố gắng dùng bút nghiên trong khi đang đứng trên thuyền, việc đó không hề đơn giản đâu.
"Em làm cái gì thế? Carter hỏi. "Viết di chúc chắc?"
Tôi hít một hơi thật sâu và nhúng cây bút stylus vào chỗ mực đen. Tôi mường tượng ra ký tự tượng hình mình cần có. Tôi ước gì Zia có mặt ở đây với chúng tôi. Không chỉ bởi chúng tôi thấy hợp với nhau ở Cairo – [Ồ, đừng có bĩu môi nữa Carter. Đó đâu phải là lỗi của em nếu chị ấy nhận thấy em là người tài giỏi trong gia đình] – mà còn vì Zia là một chuyên gia về các ký tự tượng hình liên quan đến lửa, và đó chính là điều chúng tôi cần.
"Vén tóc lên nào," tôi nói với Carter. "Em cần phải vẽ lên trán anh."
"Anh sẽ không ngã vào cái chết với dòng chữ KẺ THẤT BẠI vẽ trên trán đâu!"
"Em đang cố gắng cứu anh đấy. Nhanh lên nào!"
Anh ấy vén tóc lên. Tôi vẽ ký tự lửa và khiên lên trán anh ấy, và ngay lập tức anh trai tôi bùng lên thành ngọn lửa.
Tôi biết – điều đó giống y như một giấc mơ trở thành hiện thực và một cơn ác mộng đến đồng thời. Anh ấy nhảy vòng quanh, thốt ra vài từ nguyền rủa trước khi nhận thấy rằng lửa không làm anh ấy đau đớn. Anh ấy đơn giản chỉ được bọc trong một tấm chăn lửa bảo vệ.
"Cái gì, chính xác – " Mắt anh ấy mở to. "Túm lấy cái gì đi!"
Con thuyền mớm nhẹ một cách kinh tởm lên mép thác nước. Tôi nguệch ngoạc ký tự tượng hình lên mu bàn tay, nhưng ký tự đó vẽ không được giống lắm. Ngọn lửa trùm lên yếu ớt quanh tôi. Ấy đấy, tôi không có thời gian để làm gì tử tế hơn. Tôi quàng cánh tay vào lan can thuyền, và chúng tôi nhào thẳng xuống dưới.
Thật lạ là có bao nhiêu điều thoáng qua trong óc ta trong khi ta rơi vào sự tận thế đích thực. Từ trên cao, Hồ Lửa trông khá đẹp, như bề mặt của mặt trời. Tôi tự hỏi liệu tôi có cảm thấy chút đau đớn hay tác động nào không, hoặc chúng tôi chỉ đơn giản là bốc hơi. Khó nhìn thấy được gì bởi chúng tôi lao qua tro bụi và khói, nhưng tôi nghĩ tôi nhìn thấy một hòn đảo quen thuộc cách đó chừng một dặm – ngôi đền màu đen nơi tôi từng gặp Anubis lần đầu. Tôi tự hỏi không biết vị thần có nhìn thấy tôi từ nơi đó, và liệu Anubis có lao tới để cứu tôi không. Tôi tự hỏi liệu cơ hội sống sót của tôi có cao hơn nếu như tôi đẩy con thuyền ra và rơi tự do như vận động viên chuyên nhảy từ vách đá, nhưng tôi không thể buộc được mình làm điều đó. Tôi túm lấy lan can với tất cả sức mạnh của mình. Tôi không dám chắc liệu khiên lửa thần kỳ có bảo vệ tôi, nhưng tôi toát mồ hôi đầm đìa, và tôi khá chắc chắn là tôi đã để cổ họng mình cùng với phần lớn các cơ quan nội tạng khác của tôi ở đỉnh thác rồi.
Cuối cùng chúng tôi chạm đáy với một tiếng động dè dặt.
Làm sao mô tả được cảm giác khi lao vào hồ lửa lỏng? À... nó bỏng rát. Ấy thế nhưng nó cũng hơi ướt nữa cơ. Tôi không dám thở. Sau giây lát lưỡng lự, tôi mở mắt ra. Những ngọn lửa cuồn cuộn màu vàng và màu đỏ là tất cả những gì tôi có thể thấy. Chúng tôi vẫn còn ở dưới nước... hay ở dưới lửa? Tôi nhận ra hai điều: Tôi không bị thiêu cháy đến chết và con thuyền đang tiến về phía trước.
Tôi không thể tin được là nét vẽ bảo vệ điên rồ của tôi lại có tác dụng thực sự. Trong khi con thuyền lướt giữa những dòng nhiệt cuồn cuộn, những giọng nói của đội chèo thuyền thì thầm trong óc tôi – giờ đây vui vẻ hơn là tức giận.
Tái sinh, chúng nói. Cuộc sống mới. Ánh sáng mới.
Nghe thật đầy hứa hẹn, cho tới lúc tôi nhận thức được vài thực tế kém thú vị hơn. Tôi vẫn không thể thở. Thân thể tôi thích thở. Lại nữa, nó đang nóng hơn nhiều. Tôi có thể cảm thấy nét vẽ bảo vệ của tôi suy yếu, mực cháy trên mu bàn tay tôi. Tôi quờ quạng đưa tay ra và túm được một cánh tay – của Carter, tôi đoán vậy. Chúng tôi nắm tay nhau, và mặc dù tôi không thể nhìn thấy anh ấy, cảm giác thật dễ chịu khi biết là anh ấy ở đó. Có lẽ đó chỉ là tưởng tượng của tôi, nhưng nhiệt năng có vẻ giảm dần.
Đã từ lâu rồi, Amos từng nói với chúng tôi rằng chúng tôi mạnh hơn khi đi cùng nhau. Chúng tôi làm tăng phép thuật của nhau chỉ đơn giản bằng cách ở gần nhau. Tôi hi vọng là điều ấy giờ đây đúng. Tôi cố gắng truyền đạt ý nghĩ của mình tới Carter, thúc giục anh ấy giúp tôi duy trì khiên lửa.
Con thuyền tiếp tục đi qua những ngọn lửa. Tôi nghĩ là chúng tôi bắt đầu đi xuống, nhưng đó có thể chỉ là ao ước. Thị giác của tôi đang tối sầm lại. Phổi tôi đang kêu gào. Nếu hít lửa vào, tôi tự hỏi liệu mình có kết cục giống Vlad Menshikov không.
Đúng vào lúc tôi nghĩ mình sẽ ngất đi, con thuyền trồi lên và chúng tôi ngoi lên bề mặt.
Tôi thở hổn hển – và không phải chỉ vì tôi cần không khí. Chúng tôi đậu lại trên bờ của một cái hồ sôi sục, ở trước một cánh cổng bằng đá vôi, giống như lối vào của một ngôi đền cổ mà tôi đã thấy ở Luxor. Tôi vẫn còn cầm tay Carter. Theo những gì tôi có thể thấy, cả hai chúng tôi đều ổn.
Con thuyền mặt trời còn hơn cả ổn nữa. Nó đã được tái sinh. Buồm của nó ánh lên trắng toát, biểu tượng của mặt trời lấp lánh vàng kim ở giữa thuyền. Các mái chèo được sửa chữa và mới đánh bóng lại. Sơn thuyền tươi mới màu đen bóng, vàng kim và xanh lục. Vỏ thuyền không còn bị rò nước nữa và túp lều lại một lần nữa trở thành gian tạ đình đẹp đẽ. Không có ngai vàng, và không có Ra, nhưng các tay chèo sáng ánh lên và vui vẻ trong khi chúng buộc các dây neo vào cầu tàu.
Tôi không thể kìm nén được. Tôi quàng tay quanh người Carter và nức nở. "Anh không sao chứ?"
Anh ấy vụng về lùi xa ra và gật đầu. Nét vẽ trên trán anh ấy đã cháy mất.
"Nhờ em đấy," anh ấy nói. "Ở đâu mà –"
"Cánh đồng Mặt Trời," một giọng nói quen thuộc cất lên.
Bes đang đi theo các bậc thang dẫn tới cầu tàu. Ông ấy mặc một chiếc áo kiểu Hawaii mới, còn sặc sỡ hơn nữa và một chiếc quần bơi Speedo, nên tôi không thể nói rằng ông ấy là hình ảnh đáng nhìn cho những đôi mắt đang nhức nhối. Giờ đây ông ấy đã ở trong Duat, ông ấy tỏa sáng với quyền năng. Tóc ông ấy sẫm màu hơn và xoăn hơn, còn khuôn mặt ông ấy thì trẻ ra hàng thập kỉ.
"Bes!" tôi nói. "Ông làm gì mà lâu thế? Walt và Zia –"
"Họ ổn cả," ông ấy đáp. "Và tôi đã nói với hai người là ta sẽ gặp lại nhau ở Nhà Bốn." Ông ấy chỉ ngón tay cái vào tấm biển khắc vào cổng vòm đá vôi. "Trước đây được gọi là Nhà Nghỉ. Có vẻ như họ đã đổi tên."
Tấm biển bằng chữ tượng hình, nhưng tôi đọc nói chẳng khó khăn gì.
"Cộng Đồng Hỗ Trợ Đời Sống Cánh Đồng Mặt Trời," tôi đọc to. "Nhà Nghỉ Cũ. Ban Quản Lý Mới" Chính xác là cái gì –"
"Chúng ta nên đi thôi," Bes nói. "Trước khi kẻ cản đường của hai người đến."
"Kẻ Cản Đường ư?" Carter hỏi.
Bes chỉ vào đỉnh ngọn thác đang cuồn cuộn đổ, cách chúng tôi chừng nửa dặm. Ban đầu tôi chẳng nhìn thấy gì. Thế rồi xuất hiện một vệt màu trắng trên nền lửa đỏ - như thể người đàn ông mặc bộ đồ bán kem vừa lao xuống hồ. Dường như tôi đã không tưởng tượng ra cái hình thù màu trắng trong bóng tối. Chúng tôi đã bị bám đuôi.
"Menshikov à?" Tôi nói. "Điều đó – điều đó –"
"Là tin xấu," Bes đáp. "Giờ thì, đi thôi. Chúng ta phải tìm thần mặt trời."