SADIE
CÁC BỆNH VIỆN. CÁC LỚP HỌC. Bây giờ tôi bổ sung thêm vào danh sách các địa điểm khó ưa nhất: nhà của người già.
Nghe lạ lắm nhỉ, vì tôi đã từng sống với ông bà. Tôi nghĩ là cũng nên tính căn hộ của họ là nhà của người già. Nhưng ý tôi muốn nói ở đây là các cơ sở công cộng cơ. Những nhà dưỡng lão ấy. Đó là nơi tệ nhất. Chúng bốc mùi tổng hợp quá thể của đồ ăn căng tin, hóa chất tẩy rửa và mùi những người hưu trí. Các tù nhân (xin lỗi, các bệnh nhân) trông luôn luôn buồn thảm. Và các nhà dưỡng lão đều có những cái tên vui vẻ đến phi lý, như Cánh Đồng Mặt Trời. Làm ơn đi.
Chúng tôi đi qua cánh cổng bằng đá vôi và tiến vào một khu sảnh - cơ sở dưỡng lão kiểu Ai Cập. Những hàng cột được sơn vẽ màu mè và gắn những chiếc đế bằng gang, cắm những ngọn đuốc đang cháy. Những chậu cây cọ và chậu hoa râm bụt được đặt đây đó trong nỗ lực thất bại nhằm tạo cảm giác vui tươi ở nơi này. Những cửa sổ lớn trông ra Hồ Lửa, chắc cũng là một khung cảnh đẹp nếu như ta ưa thích đá lưu huỳnh. Bức tường được vẽ các phong cảnh ở kiếp sau sự chết theo quan niệm Ai Cập, cùng với những câu khẩu hiệu đẹp bằng chữ tượng hình ví dụ như BẤT TỬ AN TOÀN và CUỘC SỐNG BẮT ĐẦU Ở TUỔI BA NGHÌN!
Những người hầu ánh sáng và các shabti bằng đất sét trong những bộ đồng phục y tế màu trắng đi lại xung quanh, bê các khay đựng thuốc và đẩy các xe lăn. Các bệnh nhân, tuy thế, không di chuyển nhiều lắm. Khoảng một tá bóng người ủ rũ mặc những chiếc áo choàng bệnh viện bằng lanh ngồi quanh gian phòng, chăm chú nhìn vào hư không. Vài người đi loanh quanh trong phòng, đẩy những chiếc cột có bánh xe treo túi dịch truyền. Tất cả đều đeo những chiếc vòng với tên viết bằng chữ tượng hình.
Một số trông như người thường, nhưng rất nhiều trong số họ mang đầu thú vật. Một ông già đầu sếu cứ đung đưa trong chiếc ghế gấp bằng kim loại, mổ vào bàn cờ Ai Cập đặt trên chiếc bàn nước. Một bà già với cái đầu sư tử cái hoa râm tự di chuyển quanh phòng trong một chiếc xe lăn, miệng lẩm bẩm, "Meo, meo." Một người đàn ông da xanh lè, nhăn nhúm không cao hơn Bes đang ôm lấy một trong những cây cột đá vôi và khe khẽ khóc, như thể ông ta sợ rằng những cây cột có thể cố gắng rời bỏ ông ta.
Nói cách khác, toàn bộ khung cảnh trông thật nản.
"Chỗ này là chỗ nào thế?" Tôi hỏi, "Tất cả bọn họ là thần ư?"
Carter có vẻ cũng khó hiểu chẳng kém gì tôi. Bes trông rất chi là bứt rứt khó chịu.
"Chưa đến đây bao giờ," ông ấy thú nhận. "Có nghe đồn, nhưng..." Ông nuốt đánh ực như vừa mới xơi cả thìa bơ đậu phộng. "Đi nào. Đến hỏi thăm ở chỗ y tá trực thôi."
Chiếc bàn hình bán nguyệt với một dãy điện thoại (mặc dù tôi không thể tưởng tượng ra họ gọi cho ai từ Duat), một chiếc máy tính, rất nhiều kẹp giấy, và một cái đĩa bằng đá có gờ tam giác – một cái đồng hồ mặt trời, thật kỳ quặc, bởi ở đây làm gì có mặt trời.
Đằng sau quầy, một người phụ nữ thấp, béo đứng quay lưng lại phía chúng tôi, kiểm tra một tấm bảng trắng ghi tên và giờ uống thuốc. Mái tóc đen bóng của bà ta tết bím sau lưng trong như một chiếc đuôi hải ly cỡ đại, và cái đầu to tướng của bà ta nhét vừa chật căng trong chiếc mũ y tá.
Chúng tôi được nửa chừng đến chỗ chiếc bàn thì Bes khựng lại. "Đó là cô ta."
"Ai cơ?" Carter hỏi.
"Tồi tệ rồi." Mặt Bes nhợt đi. "Lẽ ra ta phải biết... Đáng nguyền rủa! Hai người sẽ phải đi một mình, không có ta rồi."
Tôi nhìn người y tá, vẫn đang đứng quay lưng lại chỗ chúng tôi, kỹ hơn. Trông bà ta có vẻ khá to lớn, với hai cánh tay to bè, lực lưỡng, cổ bà ta còn dầy hơn eo tôi, và một làn da ánh tím rất kỳ. Nhưng tôi không hiểu vì sao bà ta lại khiến Bes bực mình đến thế.
Tôi quay ra hỏi ông ấy, nhưng Bes đã chúi đầu nấp xuống sau chậu cây cảnh gần nhất. Cái chậu không đủ lớn để che khuất ông ấy, và dĩ nhiên không đủ che được chiếc áo sơ mi Hawaii của ông.
"Bes, thôi đi," tôi nói
"Suỵt! Ta vô hình!"
Carter thở dài. "Chúng ta không có thời gian làm vậy. Đi nào, Sadie."
Anh ấy dẫn tôi đến chỗ bàn y tá trực.
"Xin lỗi," anh ấy nói vọng qua bàn.
Người y tá quay lại, và tôi ré lên. Tôi cố gắng kiểm soát cơn sốc của mình nhưng thật khó, bởi người phụ nữ là một con hà mã.
Tôi không có ý nói theo lối so sánh thiếu tế nhị. Bà ta thực sự là một con hà mã. Cái mõm của bà ta trông y hệt hình trái tim ngày tình yêu lộn ngược. Hai lỗ mũi nhỏ xíu tua tủa lông và cái miệng với hai răng dưới rõ to. Đôi mắt bà ta nhỏ như hai hạt cườm. Khuôn mặt bà ta trông khá kỳ quặc đóng khung trong mái tóc đen lộng lẫy, nhưng vẫn thua xa thân hình đặc biệt của bà ta. Bà ta khoác một chiếc áo blu của y tá không đóng khuy giống như mặc áo vest, để lộ phần trên của bộ bikini – nói thế nào cho nhã đây nhỉ - cố gắng che phần lớn thân trên bằng rất ít vải. Cái bụng màu mực tím của bà ta căng phồng lên, như thể bà ta có bầu chín tháng.
"Tôi có thể giúp gì hai người nào?" bà ta hỏi. Giọng bà ta dễ chịu và tử tế - ngoài sự trông đợi đối với một con hà mã.
"Ừm, hà – ý tôi là chào bà!" tôi lắp bắp. "Anh trai tôi và tôi đang tìm..." tôi liếc nhìn Carter và thấy anh ấy đang không nhìn vào mặt người y tá. "Carter!"
"Cái gì?" Anh ấy lắc đầu để thoát ra khỏi trạng thái như bị thôi miên. "Rồi. Xin lỗi. À, bà không phải là một nữ thần sao? Tawaret, hình như thế?"
Người đàn bà hà mã nhe hai chiếc răng khổng lồ, tôi hi vọng đó mà một nụ cười. "Sao, được nhận ra thật là tuyệt quá! Phải rồi, cậu. Ta là Tawaret. Hai người nói đang tìm ai đó? Người thân à? Hai người có phải là thần không?"
Phía sau chúng tôi, chậu cây râm bụt sột soạt bởi Bes đã bê nó lên và cố gắng di chuyển nó ra phía sau cây cột. Mắt Tawaret mở to.
"Đó là Bes phải không?" bà ta gọi. "Bes!"
Người lùn đứng phắt dậy và phủi phủi áo sơ mi. Khuôn mặt ông ấy còn đỏ hơn cả mặt Set. "Có vẻ cái cây này được tưới đủ nước đấy," ông ấy lẩm bẩm. "Ta phải kiểm tra mấy cái cây ở đằng kia."
Ông ấy bắt đầu bỏ đi, nhưng Tawaret lại gọi. "Bes! Em đây mà, Tawaret! Ở đằng này!"
Bes cứng người như vừa bị bà ta bắn vào lưng. Ông quay lại với một nụ cười như bị tra tấn.
"À... kìa. Tawaret. Ôi!"
Bà ta len ra khỏi quầy, đi đôi giày cao gót người ta thường không khuyến cáo phụ nữ có bầu sử dụng. Bà ta dang rộng đôi tay chờ một cái ôm, còn Bes chìa bàn tay ra để bắt. Rút cuộc họ nhảy một điệu vụng về, nửa ôm, nửa bắt tay, khiến tôi nhận thấy một điều hiển nhiên.
"Vậy là, hai người từng hò hẹn hả?" tôi hỏi.
Bes liếc nhìn tôi bằng đôi mắt sắc như dao. Tawaret đỏ bừng mặt, lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy hà mã ngượng ngùng.
"Đã lâu lắm rồi..." Tawaret quay qua vị thần lùn. "Bes, anh thế nào? Sau cái lần kinh khủng ở cung điện , em sợ là –"
"Tốt!" ông ấy hét tướng lên. "Phải, cảm ơn. Tốt. Em ổn chứ? Tốt! Bọn tôi tới đây có việc quan trọng, như là Sadie sắp sửa nói với em."
Ông ấy đá vào bắp chân tôi, một điều tôi nghĩ là không cần thiết.
"Vâng, đúng," tôi nói. "Chúng tôi đi tìm Ra, để đánh thức ông ấy."
Nếu Bes đã hi vọng có thể lái luồng suy nghĩ của Tawaret, thì kế hoạch của ông ấy thành công đó. Tawaret lặng thinh há hốc miệng, như thể tôi mới đề nghị điều gì đó kinh khủng, ví dụ như đi săn hà mã chẳng hạn.
"Đánh thức Ra?" bà ta nói. "Ồ, ... ồ, thật không may làm sao. Bes, anh giúp họ việc này à?"
"Ừ," ông ấy lắp ba lắp bắp. "Chỉ, em biết đấy –"
"Bes đang giúp chúng tôi một việc lớn đấy," tôi nói. "Bạn chúng tôi, Bast, đã nhờ ông ấy lo cho chúng tôi."
Tôi có thể thấy ngay mình đã khiến mọi chuyện thêm tồi tệ hơn. Nhiệt độ không khí dường như giảm tới mười độ.
"Em hiểu rồi," Tawaret đáp. "Một ân huệ cho Bast."
Tôi không biết chắc mình đã nói gì sai, nhưng tôi cố gắng hết sức để rút lại lời nói. "Làm ơn. Bà nghe này, đây là việc liên quan đến số phận của thế giới. Việc chúng tôi tìm được Ra là hết sức quan trọng."
Tawaret khoanh tay vẻ hồ nghi. "Trời, ông ấy đã mất tích hàng thiên niên kỉ. Và cố gắng đánh thức ông ấy rất là nguy hiểm. Tại sao giờ lại làm thế?"
"Nói cho cô ấy biết đi Sadie." Bes lùi lại phía sau như thể chuẩn bị núp ra sau cây râm bụt lần nữa. "Không có gì bí mật ở đây hết. Ta có thể hoàn toàn tin tưởng Tawaret."
"Bes!" Bà ta tươi tỉnh ngay lập tức và chớp chớp mi mắt. "Anh thực có ý đó à?"
"Sadie, nói đi!" Bes nài nỉ.
Và tôi nói. Tôi cho Tawaret xem Cuốn Sách của Ra. Tôi giải thích tại sao chúng tôi cần đánh thức thần mặt trời – hiểm họa Apophis, sự hỗn mang khổng lồ và sự hủy diệt, thế giới sắp sửa tận thế vào lúc mặt trời mọc, và vân vân. Khó mà đánh giá được biểu hiện của hà mã [phải, Carter, em chắc chắn là phải dùng từ đó], nhưng trong khi tôi nói, Tawaret cuộn cuộn đuôi tóc dài của mình vẻ lo lắng.
"Không tốt rồi," bà ta nói. "Không tốt tí nào."
Bà ta liếc nhìn chiếc đồng hồ mặt trời sau lưng. Mặc dù không có mặt trời, chiếc kim vẫn đổ bóng rõ rệt trên ký tự tượng hình của số năm:
(chèn chữ tượng hình trang 356)
"Các người sắp sửa hết thời gian," bà ta nói.
Carter cau mày nhin chiếc đồng hồ mặt trời. "Chẳng phải đây là Nhà Bốn sao?"
"Đúng rồi, nhóc," Tawaret đồng ý. "Nó có nhiều tên gọi khác nhau – Cánh Đồng Mặt Trời, Nhà Nghỉ Dưỡng – nhưng cũng còn được gọi là Nhà Bốn."
"Vậy thì tại sao chiếc đồng hồ mặt trời lại chỉ vào số năm?" anh ấy hỏi. "Lẽ ra chúng ta, phải đứng yên ở giờ thứ tư chứ?"
"Không tính kiểu đó đâu, nhóc," Bes chen vào. "Giờ trên trần gian không ngừng trôi chỉ vì cậu đang ở Nhà Bốn. Nếu cậu muốn đi theo hành trình của thần mặt trời, cậu phải giữ cho đồng bộ với giờ giấc của ông ấy."
Tôi cảm thấy sắp sửa có những lời giải thích hóc búa vỡ đầu. Tôi đã sẵn sàng chấp nhận sự ngu dốt sung sướng và tiếp tục đi tìm Ra, nhưng Carter, dĩ nhiên, sẽ không bỏ qua.
"Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi tụt lại đằng sau?" anh ấy hỏi.
Tawaret lại nhìn chiếc đồng hồ mặt trời, đang nhích qua số năm. "Các nhà nối với thời gian của chúng trong đêm. Cậu có thể ở mỗi nhà lâu tùy thích, nhưng cậu chỉ có thể vào hoặc ra khỏi chúng gần với giờ mà chúng tượng trưng.
"À." Tôi day day thái dương. "Ở sau quầy bà có ít thuốc đau đầu nào không?"
"Chẳng có gì rắc rối đến thế đâu," Carter nói, vẻ bực mình. "Cũng giống như cửa xoay. Em phải chờ đến khi cửa mở và nhảy vào."
"Đại loại thế," Tawaret đồng ý. "Phần lớn các Nhà đều có chút linh hoạt. Ví dụ như cậu có thể rời Nhà Bốn, gần như bất kỳ lúc nào cậu muốn. Nhưng một số cổng thì không thể qua được trừ phi cậu tính giờ chính xác. Cậu chỉ có thể vào Nhà Một vào lúc hoàng hôn. Cậu chỉ có thể rời Nhà Mười Hai lúc bình minh. Và ở cổng Nhà Tám, Nhà Thử Thách... ta chỉ có thể vào trong giờ thứ tám."
"Nhà Thử Thách?" Tôi nói. "Tôi ghét nó rồi đó."
"Ồ, hai người có Bes đi cùng mà." Tawaret mơ màng nhìn ông ấy đăm đăm. "Thử thách sẽ không là vấn đề đâu."
Bes nhìn tôi hoảng hốt, kiểu, Cứu ta!
"Nhưng nếu hai người chần chừ quá lâu," Tawaret tiếp tục, "các cổng sẽ đóng lại trước khi các người tới được đó. Các người sẽ bị nhốt ở Duat tới tận tối mai."
"Và nếu chúng ta không chặn Apophis lại," tôi nói, "sẽ chẳng có đêm mai. Phần đó thì tôi hiểu."
"Vậy bà có thể giúp chúng tôi không?’ Carter hỏi Tawaret. "Ra ở đâu?"
Nữ thần nghịch nghịch tóc. Bàn tay bà ta nửa người nửa hà mã, với những ngón tay ngắn ngủn và móng tay dày.
"Đó là vấn đề, các nhóc thân mến," bà ta nói. "Ta không biết. Nhà Bốn rất rộng lớn. Ra có thể ở đâu đó, nhưng hành lang và các cửa nhiều vô tận. Chúng ta có rất nhiều bệnh nhân."
"Chẳng nhẽ không có gì để theo dõi họ à?" Carter hỏi. "Không có sơ đồ hoặc cái gì đó sao?"
Tawaret lắc đầu buồn bã. "Ta đã làm hết sức mình, nhưng chỉ có ta, các shabti và những người hầu ánh sáng... và có hàng ngàn vị thần già."
Tim tôi lặng đi. Tôi gần như chỉ có thể nhớ được chừng mươi vị thần tôi từng gặp, nhưng hàng ngàn ư? Chỉ riêng trong phòng này, tôi đã đếm được một tá bệnh nhân, sáu dãy hành lang dẫn đi sáu hướng, hai cầu thang và ba thang máy. Có lẽ chỉ là sự tưởng tượng của tôi, nhưng dường như một số hành lang mới chỉ xuất hiện khi chúng tôi bước vào phòng.
"Tất cả những người đó là thần ư?" tôi hỏi.
Tawaret gật đầu. "Đa số là những vị thần nhỏ từ thời cổ đại. Các pháp sư thấy họ không đáng giá để giam cầm. Qua hàng thế kỉ, họ bị lãng quên, bỏ mặc và cô đơn. Rút cuộc họ cũng tới được đây. Họ chỉ đợi thôi."
"Để chết à?" tôi hỏi.
Cái nhìn xa xăm xuất hiện trong mắt Tawaret. "Ước gì ta biết được. Đôi khi họ biến mất, nhưng ta không biết đó chỉ là vì họ bị lạc khi đi lang thang qua các gian sảnh, hay họ tìm được một phòng mới để lẩn vào đó trốn, hoặc thực sự họ đã tan biến thành hư không. Sự thật đáng buồn là dù thế nào thì cũng vậy thôi. Tên của họ đã bị quên lãng trên trần thế. Một khi người ta không còn nhắc đến tên họ nữa, cuộc sống còn có ích gì?"
Bà ta liếc nhìn Bes, như thể cố gắng nói điều gì đó với ông ấy.
Vị thần lùn nhanh chóng nhìn ra chỗ khác. "Đó là Mekhit, phải không?"Ông ấy chỉ vào bà già sư tử đang di chuyển trên chiếc xe lăn. "Bà ấy có một ngôi đền ở Abydos, ta nghĩ vậy. Một tiểu nữ thần sư tử. Luôn bị lầm với Sekhmet."
Sư tử cái gầm lên yếu ớt khi Bes nói tới tên Sekhmet. Thế rồi bà ta tiếp tục lăn chiếc ghế, lẩm bẩm, "Meo, meo"
"Câu chuyện thật buồn,"Tawaret nói. "Bà ấy tới đây cùng với chồng, thần Onuris. Họ từng là một cặp nổi tiếng ngày xưa, quá lãng mạn. Ông ấy từng có lần đi tới tận Nubia để cứu bà ấy. Họ cưới nhau. Kết thúc hạnh phúc, ai cũng nghĩ vậy. Nhưng cả hai bọn họ đều bị lãng quên. Họ cùng nhau tới đây. Thế rồi Onuris biến mất. Mekhit nhanh chóng mất trí sau đó. Bây giờ bà ấy cứ lăn cái xe đi vòng vòng vô định quanh phòng cả ngày. Bà ấy không nhớ nổi tên mình, mặc dù chúng ta cứ nhắc bà ấy suốt."
Tôi nghĩ tới Khnum, người chúng tôi đã gặp ở trên sông, và vẻ buồn bã nhường nào của ông ấy. Tôi nhìn nữ thần già Mekhit, kêu meo meo, gầm ghè và đi loanh quanh không trí nhớ về thời huy hoàng đã qua. Tôi tưởng tượng cố gắng chăm sóc cho hàng ngàn vị thần như vậy – những công dân cao tuổi không bao giờ khá lên được, và không bao giờ chết.
"Tawaret, làm sao bà chịu đựng được?" tôi hỏ ngỡ ngàng. "Tại sao bà làm việc ở đây?"
Bà ta sờ vào chiếc mũ y tá một cách ngượng ngùng. "Một câu chuyện dài, nhóc ạ. Và chúng ta có rất ít thời gian. Không phải lúc nào ta cũng ở đây. Ta đã từng có thời là nữ thần bảo hộ. Ta xua đuổi ma quỉ, mặc dù không tài ba bằng Bes."
"Em cũng đáng sợ lắm chứ," Bes nói.
Nữ thần hà mã thở dài vẻ đắm đuối. "Ngọt ngào quá. Ta cũng bảo hộ những người mẹ sinh con –"
"Bởi vì bà cũng có bầu phải không?" Carter hỏi, hất hàm chỉ cái bụng to tướng của bà ta.
Tawaret có vẻ khó hiểu. "Không. Tại sao cậu nghĩ thế chứ?"
Ừm –"
"Vậy là!" tôi chen vào. "Bà đang giải thích tại sao bà chăm sóc các vị thần cao tuổi."
Tawaret kiểm tra chiếc đồng hồ mặt trời, và tôi cảm thấy bóng râm nhích sang số sáu nhanh đến mức báo động. "Ta luôn luôn muốn giúp đỡ mọi người, nhưng ở trần gian, ờ... rõ ràng là người ta không cần tới ta nữa."
Bà ta thận trọng không nhìn Bes, nhưng vị thần lùn lại càng đỏ mặt hơn.
"Cần có ai đó chăm sóc cho các vị thần già," Tawaret nói tiếp. "Ta đoán là ta hiểu nỗi buồn của họ. Ta hiểu về chuyện phải chờ đợi mãi mãi –"
Bes che miệng ho. "Nhìn giờ đi! Ừ, về Ra. Em có nhìn thấy ông ấy lần nào từ hồi em làm ở đây không?"
Tawaret nghĩ ngợi. "Có lẽ. Em nhìn thấy một vị thần đầu chim ưng trong một căn phòng ở cánh đông nam, ồ, lâu lắm rồi. Em nghĩ đó là Nemty, nhưng có thể là Ra lắm. Đôi khi ông ấy thích đi loanh quanh dưới dạng chim ưng."
"Lối nào ạ?" tôi nài nỉ. "Nếu chúng ta tới gần, Cuốn Sách của Ra có thể chỉ dẫn cho chúng ta."
Tawaret quay sang Bes. "Anh nhờ em làm việc này hả, Bes?" Anh có thực sự tin rằng việc này quan trọng, hay anh chỉ làm điều này vì Bast bảo anh làm?"
"Không! Đúng!" Ông phồng má vẻ cáu tiết. "Ý anh là, đúng, việc này quan trọng. Đúng anh nhờ em. Anh cần em giúp."
Tawaret lấy cây đuốc từ chân đế gần nhất. "Trong trường hợp đó, hãy đi theo lối này."
Chúng tôi đi lang thang trong các hành lang của nhà dưỡng lão thần kỳ vô tận, với một y tá hà mã soi đuốc dẫn đường. Thực sự, chỉ là một đêm bình thường của những người nhà Kane thôi.
Chúng tôi đi qua biết bao phòng ngủ đến mức tôi không đếm xuể. Phần lớn các cửa đóng kín, nhưng một số cửa cũng mở, để lộ những vị thần già nua yếu ớt trên gường, nhìn ánh đèn xanh lam nhấp nháy của những chiếc vô tuyến, hoặc chỉ nằm khóc trong bóng tối. Sau hai hoặc ba mươi phòng như thế, tôi thôi không nhìn nữa. Quá là buồn.
Tôi cầm Cuốn Sách của Ra, hi vọng nó sẽ ấm lên khi chúng tôi tới gần thần mặt trời, nhưng chẳng có cơ may nào. Tawaret lưỡng lự ở mỗi ngã tư. Tôi có thể cảm thấy bà ta không chắc chắn là đang dẫn chúng tôi đi đâu.
Thêm một vài hành lang nữa và vẫn chẳng thấy cuộn giấy thay đổi gì, Tôi bắt đầu cảm thấy phát cuồng. Carter hẳn đã chú ý đến điều đó.
"Không sao đâu," anh ấy hứa. "Chúng ta sẽ tìm thấy ông ấy."
Tôi nhớ lại chiếc đồng hồ mặt trời chạy nhanh như thế nào ở quầy trực của y tá. Và tôi nghĩ về Vlad Menshikov. Tôi muốn tin rằng ông ta đã biến thành một người - Nga - chiên – giòn khi ông ta rơi xuống Hồ Lửa, nhưng có lẽ hi vọng như thế là quá nhiều. Nếu ông ta vẫn đang săn đuổi chúng tôi, chắc là ông ta không cách xa chúng tôi nhiều.
Chúng tôi rẽ vào một hành lang khác và Tawaret đứng khựng lại. "Ồ, trời ơi."
Trước mặt chúng tôi, một bà già với cái đầu của một con ếch đang nhảy nhót xung quanh – và khi tôi nó là nhảy nhót, tôi muốn nói là bà ta nhảy cao tới mười bộ, kêu ộp ộp vài lần, rồi lại nhảy bật lên tường, dính vào đó trước khi nhảy sang tường đối diện. Thân hình và chân tay bà ta trông giống người, mặc chiếc áo choàng xanh lục của bệnh viện, nhưng đầu là của một động vật lưỡng cư – màu nâu, ẩm ướt và lấm tấm mụn. Đôi mắt lồi của bà ta nhìn khắp các hướng, nhưng qua tiếng kêu ộp ộp mệt lả của bà ta, tôi đoán là bà ta bị lạc.
"Heket lại trốn ra ngoài rồi," Tawaret nói. "Thứ lỗi cho ta một lát."
Bà ta vội vàng tiến về phía bà già ếch.
Bes lấy chiếc khăn tay trong túi chiếc áo sơ mi kiểu Hawaii ra. Ông chấm chấm lên trán vẻ căng thẳng. "Ta tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Heket. Bà ấy là một nữ thần ếch, hai người biết đấy."
"Cháu không bao giờ có thể đoán là vậy," Carter nói.
Tôi quan sát Tawaret cố gắng làm nữ thần già bình tĩnh lại. Bà ra nói với giọng dỗ dành, hứa hẹn sẽ giúp Heket tìm lại phòng của mình nếu nữ thần thôi không nhảy lên các tường nữa.
"Bà ấy thật tuyệt," Tôi nói. "ý cháu là, Tawaret ấy mà."
"Ừ," Bes đáp. "Ừ, cô ấy cũng được."
"Được ấy ạ?" tôi nói. "Rõ ràng là, bà ta thích ông. Tại sao ông lại..."
Thế rồi sự thật hiện ra đột ngột như một cái tát vào mặt tôi. Tôi cảm thấy mình cũng ngốc chẳng kém gì Carter.
"Ồ, cháu hiểu rồi. Bà ấy có nhắc tới một thời kỳ khủng khiếp ở cung điện, phải không nào? Bà ấy là người đã giải thoát cho ông ở nước Nga."
Bes lau cổ với chiếc khăn tay. Ông ấy thực sự toát nhiều mồ hôi quá. "C – cái gì đã khiến cháu nói thế?"
"Bởi vì ông quá ngượng ngập bên bà ấy! Giống như ..." Tôi sắp sửa nói "giống như bà ấy đã nhìn thấy ông mặc quần lót," nhưng tôi ngờ rằng điều đó quá có ý nghĩa với Thần Speedos. "Giống như bà ấy đã nhìn thấy ông trong thời khắc tồi tệ nhất, và ông muốn quên đi điều đó."
Bes chăm chú nhìn Tawaret với vẻ mặt đau đớn, y như vẻ mặt của ông khi ngắm nhìn cung điện của Hoàng Tử Menshikov ở St. Petersburg.
"Cô ấy luôn cứu ta," vị thần nói vẻ cay đắng. "Cô ấy luôn luôn tuyệt vời, tử tế, tốt bụng. Thời cổ xưa, ai cũng cũng nghĩ là chúng ta hẹn hò nhau. Họ luôn nói rằng chúng ta là một cặp dễ thương – hai vị thần xua đuổi ma quỉ, một cặp bất xứng, đại loại là thế. Chúng ta có đi chơi với nhau vài bận, nhưng Tawaret quá – quá tử tế. Và ta thì gần như bị ám ảnh bởi một người khác."
"Là Bast rồi," Carter đoán.
Đôi vai vị thần lùn trĩu xuống. "Hiển nhiên quá, hả? Đúng vậy, là Bast. Cô ấy là nữ thần được dân thường yêu mến nhất. Ta là nam thần được yêu mến nhất. Vậy là, hai người thấy đấy, chúng ta gặp nhau ở các lễ hội và các dịp tương tự. Cô ấy....ờ, xinh đẹp."
Đúng là điển hình của đàn ông, tôi nghĩ. Chỉ nhìn vẻ bên ngoài. Nhưng tôi không nói gì.
"Dù sao," Bes thở dài, "Bast đối xử với ta như với một đứa em trai. Giờ cô ấy vẫn làm thế. Chẳng quan tâm gì đến ta cả, nhưng phải rất lâu ta mới nhận ra điều đó. Ta bị ám ảnh, ta đã không đối xử tốt với Tawaret trong bao nhiêu năm trời."
"Nhưng bà ấy đã đến giải thoát cho ông ở nước Nga," tôi nói.
Ông gật đầu. "Ta đã gửi đi những lời kêu gọi thống khổ. Ta nghĩ là Bast sẽ đến giúp ta. Hoặc Horus. Hoặc ai đó. Ta không biết bọn họ ở đâu cả, hai người hiểu rồi đấy, nhưng ngày trước ta có rất nhiều bạn bè. Ta nghĩ là sẽ có ai đó đến. Người duy nhất làm thế là Tawaret. Cô ấy đã mạo hiểm cuộc sống của mình để lẻn vào cung điện trong lúc diễn ra đám cưới của người lùn. Cô ấy nhìn thấy mọi chuyện – thấy ta bị hạ nhục trước mặt đám đông người. Trong đêm, cô ấy đã phá lồng của ta và thả ta ra. Ta nợ cô ấy mọi điều. Nhưng một khi ta tự do rồi... ta chuồn mất. Ta quá xấu hổ, ta không thể nhìn vào cô ấy. Mỗi lần ta nghĩ đến cô ấy, ta nghĩ đến đêm ấy, và ta nghe thấy những tiếng cười khoái trá."
Nỗi đau trong giọng nói của ông ấy thật tươi mới, như thể ông đang mô tả điều gì vừa xảy ra hôm qua, chứ không phải cách đây ba thế kỉ.
"Bes, đó có phải là lỗi của bà ấy đâu," tôi nói nhẹ nhàng. "Bà ấy quan tâm đến ông. Rõ là như thế."
"Quá muộn rồi," ông ấy đáp. "Ta đã làm tổn thương cô ấy quá nhiều. Ta ước gì ta có thể quay ngược lại thời gian, nhưng..."
Ông ấy ấp úng. Tawaret đang đi về phía chúng tôi, nắm tay nữ thần ếch.
"Bây giờ nhé," Tawaret nói. "đi cùng với chúng tôi, và chúng tôi sẽ tìm ra phòng của bà. Không cần phải nhảy lên như vậy."
"Nhưng đó là bước nhảy của lòng tin," Heket ộp ộp . (Ý tôi muốn nói là bà ta phát ra âm thanh đó; bà ta không chết trước mặt chúng tôi, ơn trời đất.) "Ngôi đền của ta ở đâu đó gần đây thôi. Nó nằm ở Qus. Một thành phố dễ thương."
"Đúng vậy đó," Tawaret đáp. "Nhưng ngôi đền của bà giờ đã biến mất. Tất cả các ngôi đền đều biến hết rồi. Tuy nhiên, bà có một phòng ngủ đẹp –"
"Không," Heket thì thầm. "Các giáo sĩ sẽ có đồ hiến tế dâng cho ta. Ta cần phải..."
Bà ta chiếu đôi mắt vàng to tướng vào tôi, và tôi hiểu cảm giác của một con ruồi ngay trước khi bị ếch thè lưỡi ra đớp.
"Đó là nữ giáo sĩ của ta! Heket nói. "Cô ấy đến thăm ta."
"Không đâu," Tawaret đáp. "Đó là Sadie Kane."
"Nữ giáo sĩ của ta." Heket vỗ vào vai tôi với bàn tay ẩm ướt có màng của mình, và tôi cố gắng hết sức để không né tránh. "Bảo người trong đền cứ bắt đầu trong khi ta vắng mặt, nhé? Ta sẽ đến sau. Ngươi sẽ nói với họ chứ?"
"Ừm, vâng," tôi nói. "Dĩ nhiên rồi ạ, thưa Lệnh bà Heket."
"Tốt, tốt." Đôi mắt bà ta bỗng dưng lạc đi. "Giờ ta buồn ngủ lắm rồi. Công việc nặng nhọc, hãy nhớ rằng..."
"Vâng," Tawaret đáp. "Sao bây giờ bà không nằm nghỉ ở một trong các phòng này nhỉ?"
Bà ta lùa Heket vào gian phòng trống gần nhất.
Bes nhìn theo bà với đôi mắt buồn rầu. "Ta là một người lùn kinh khủng."
Lẽ ra tôi phải an ủi ông ấy, nhưng tâm trí tôi đang tích cực làm việc khác. Hãy bắt đầu trong khi ta vắng mặt, Heket đã nói. Bước nhảy của lòng tin.
Bỗng dưng tôi thấy khó thở.
"Sadie? Carter hỏi. "Có chuyện gì vậy?"
"Em biết vì sao cuộn giấy không dẫn lối cho chúng ta rồi," tôi đáp. "Em phải bắt đầu phần hai của bùa phép."
"Nhưng chúng ta đã tới đó đâu," Carter nói.
"Và chúng ta sẽ không tới được đó trừ phi chúng ta bắt đầu với bùa phép. Đó là một phần của cuộc tìm kiếm Ra."
"Cái gì thế?" Tawaret xuất hiện bên cạnh Bes và suýt nữa làm người lùn hoảng sợ đến mức vọt ra khỏi chiếc áo kiểu Hawaii.
"Bùa phép," tôi nói. "Tôi phải nhảy bước nhảy của lòng tin."
"Tôi nghĩ là con bé bị lây bệnh của nữ thần ếch rồi," Carter cáu kỉnh.
"Không đâu, đồ ngốc!" Tôi nói. "Đây là cách duy nhất để tìm Ra. Em chắc chắn là như thế."
"Này nhóc," Bes nói. "nếu cô bắt đầu với bùa phép, và chúng ta vẫn không tìm được Ra khi cô đọc xong –"
"Cháu biết. Lúc đó sẽ bị cháy bùa." Khi tôi nói cháy bùa26, tôi muốn nói theo đúng nghĩa đen. Nếu bùa phép không tìm được đúng mục tiêu, quyền năng Cuốn Sách của Ra sẽ bùng nổ vào mặt tôi.
"Đó là cách duy nhất," tôi khăng khăng. "Chúng ta không có thời gian để đi lang thang mãi trong các hành lang. Và Ra sẽ chỉ xuất hiện nếu chúng ta viện đến ông ấy. Chúng ta phải chứng tỏ mình bằng cách chấp nhận rủi ro. Mọi người sẽ phải dẫn cháu đi. Cháu không thể đọc vấp từ."
"Cháu thật là dũng cảm, cô bé." Tawaret giơ cao ngọn đuốc. "Đừng lo, ta sẽ dẫn cháu. Cứ đọc đi."
Tôi mở đoạn thứ hai của cuộn giấy. Những hàng chữ tượng hình, đã từng có lúc giống như những câu chữ rời rạc, bỏ đi, giờ hiện ra với đầy đủ ý nghĩa.
"Tôi viện dẫn tên của Ra," tôi đọc to. "Đức vua ngủ, chúa tể của mặt trời giữa buổi ban trưa, người ngồi trên ngai vàng lửa..."
Đấy, chắc các bạn đã hiểu. Tôi mô tả Ra đã trỗi dậy từ biển cả của Sự Hỗn Mang. Tôi nhắc lại ánh sáng của ông ấy chiếu rọi trên vùng đất Ai Cập nguyên sơ, đem sự sống đến Thung Lũng Sông Nile. Trong lúc tôi đọc, tôi cảm thấy ấm hơn.
"Sadie," Carter nói, "Em đang bốc khói."
Khó mà không hoảng sợ khi ai đó nhận xét như vậy, nhưng tôi nhận ra là Carter đã đúng. Khói cuộn lên từ cơ thể tôi, tạo ra một cột màu xám chảy về phía hành lang.
"Anh tưởng tượng," Carter hỏi, "hay là khói đang dẫn đường cho chúng ta? Ôi!"
Anh ấy nói từ cuối cùng bởi vì tôi dẫm vào chân anh ấy, tôi làm điều đó khá tốt mà không làm gián đoạn sự tập trung của mình. Anh ấy đã hiểu ý tôi: Im nào và bắt đầu đi thôi.
Tawaret nắm tay tôi và dẫn tôi tiến về phía trước. Bes và Carter đi hai bên chúng tôi như nhân viên an ninh. Chúng tôi đi theo vệt khói thêm hai hành lang nữa và lên cầu thang. Cuốn Sách của Ra trở nên ấm đến mức khó chịu trong hai tay tôi. Khói bốc lên từ cơ thể tôi bắt đầu che khuất các ký tự.
"Cháu làm tốt lắm, Sadie," Tawaret nói. "Hành lang này trông quen quá."
Tôi không biết làm sao bà ấy có thể nói thế được, nhưng tôi tiếp tục tập trung vào cuộn giấy. Tôi mô tả con thuyền mặt trời của Ra bơi qua bầu trời. Tôi nói về sự thông thái vương giả của ông ấy và về những trận thắng Apophis của ông.
Một giọt mồ hôi chảy xuống mặt tôi. Mắt tôi bắt đầu cay xè. Tôi hi vọng chúng sẽ không bốc cháy thực sự.
Khi tôi đọc tới dòng, "Ra, tuyệt đỉnh mặt trời..." tôi nhận thấy chúng tôi dừng lại trước một cái cửa.
Trông nó chẳng khác gì những cánh cửa khác, nhưng tôi đẩy cửa mở ra và bước vào bên trong. Tôi tiếp tục đọc, mặc dù tôi nhanh chóng đọc tới phần cuối của bùa phép.
Bên trong, căn phòng tối om. Trong ánh sách chập chờn của ngọn đuốc trên tay Tawaret, tôi nhìn thấy người đàn ông già nhất trên thế giới nằm ngủ trong giường – khuôn mặt ông ta nhăn nhúm, tay gầy như cái que, làn da trong suốt, tôi có thể nhìn thấy từng mạch máu. Một số xác ướp ở Habariya trông còn sống động hơn cái vỏ hạt cũ kỹ này.
"Ánh sáng của Ra đã quay trở lại," tôi đọc. Tôi hất đầu về phía rèm che cửa nặng nề, và may sao Bes và Carter hiểu ý tôi. Họ giật mạnh tấm rèm, và ánh sáng đỏ từ Hồ Lửa tràn ngập gian phòng. Ông già không hề động đậy. Miệng ông ta bĩu ra như thể hai môi ông bị khâu vào với nhau.
Tôi đến bên giường của ông và tiếp tục đọc. Tôi mô tả Ra tỉnh giấc lúc bình minh, ngồi trên ngai vàng của ông trong khi con thuyền trèo lên bầu trời, cỏ cây hướng cả về hơi ấm của mặt trời.
"Không hiệu nghiệm rồi," Bes lẩm bẩm.
Tôi bắt đầu hoảng sợ. Chỉ còn có hai dòng nữa, Tôi có thể cảm thấy quyền năng của bùa chú đang ứ lại, bắt đầu khiến cho cơ thể tôi bị quá nóng. Tôi vẫn còn đang bốc khói, và tôi không thích mùi Sadie bị nướng trong lửa. Tôi phải đánh thức Ra hoặc tôi sẽ bị thiêu sống.
Cái miệng của vị thần... Dĩ nhiên rồi.
Tôi đặt cuộn giấy lên giường của Ra và cố gắng hết sức để giữ nó mở ra bằng một tay. "Tôi hát những lời ngợi ca thần mặt trời."
Tôi vươn bàn tay còn tự do của mình về phía Carter và búng ngón tay.
Ơn trời, Carter đã hiểu.
Anh ấy lục lọi trong túi của tôi và đưa cho tôi lưỡi dao netjeri bằng đá vỏ chai của Anubis. Nếu từng có phút giây để Mở Miệng, thì chính là lúc này đây.
Tôi chạm lưỡi dao vào đôi môi ông già và đọc câu cuối cùng của bùa phép: "‘Thức dậy, đức vua của thần, với một ngày mới.’"
Ông già há hốc miệng. Khói cuốn vào miệng ông như thể ông ta đã trở thành một cái máy hút bụi, và sự màu nhiệm của bùa phép tuôn vào trong ông. Nhiệt độ của tôi trở lại bình thường. Tôi suýt nữa thì đổ sụp vì nhẹ nhõm.
Đôi mắt Ra chớp chớp mở ra. Với sự phấn khích kinh khủng, tôi quan sát trong khi máu lại bắt đầu chảy qua mạch máu của vị thần, chậm rãi tràn vào ông như một quả bóng bơm khí nóng.
Ông quay về phía tôi, mắt ông không lạc thần và thủy tinh thể trắng đục. "Ơ?"
"Trông ông ấy vẫn già," Carter thốt lên lo lắng. "Ông ấy phải trẻ ra mới phải chứ?"
Tawaret, nhún chân chào thần mặt trời (bạn không nên thử làm điều đó ở nhà nếu bạn là hà mã mang bầu và đi giày cao gót nhé) và sờ tay lên trán Ra. "Ông ấy chưa hoàn toàn hồi phục đâu," bà nói. "Chúng ta cần phải hoàn thành hành trình của đêm."
"Và phần thứ ba của bùa phép," Carter đoán. "Còn một bản ngã nữa của ông ấy mà, phải không? Bọ hung ấy?"
Bes gật đầu, mặc dù trông ông ấy không có vẻ quá lạc quan. "Khepri, con bọ hung. Có lẽ nếu chúng ta tìm được phần cuối cùng của tâm hồn ông ấy, ông ấy sẽ tái sinh thực sự."
Ra nở nụ cười móm mém. "Ta thích ngựa vằn!"
Tôi quá mệt mỏi, tôi tự hỏi không biết mình có nghe đúng không nữa. "Xin lỗi, ông vừa nói là ngựa vằn?"
Ông ấy rạng rỡ nhìn chúng tôi như một đứa trẻ vừa mới phát hiện ra điều gì đó tuyệt diệu. "Những con chồn đang bị ốm."
"Được...rồi," Carter nói. "Có lẽ ông ấy cần mấy thứ..."
Carter lấy cây móc và cây côn xích gắn cầu gai kim loại từ thắt lưng ra. Anh ấy chìa chúng cho Ra. Vị thần già giằng lấy cây móc đưa lên miệng và bắt đầu ngậm nó như ngậm cái ti cao su của em bé.
Tôi bắt đầu cảm thấy không thoải mái, và không chỉ bởi vì tình trạng của Ra. Bao nhiêu thời gian đã trôi qua, và Vlad Menshikov ở đâu rồi?
"Hãy đưa ông ấy về thuyền," tôi nói. "Bes, ông có thể -"
"Được. Xin thứ lỗi cho thần, Chúa Tể Ra. Thần sẽ phải cõng bệ hạ." Ông nhấc vị thần ra khỏi giường và chúng tôi lao ra khỏi phòng. Ra không thể nặng lắm, và Bes đi theo chúng tôi chẳng khó khăn gì dù có đôi chân ngắn. Chúng tôi chạy dọc theo hành lang, cố gắng tìm lại dấu chân mình, trong khi Ra cứ líu lo, "Wheeee! Wheeee! Wheeee!"
Có lẽ ông ấy đang vui sướng, nhưng tôi thì mệt rũ người. Chúng tôi đã trải qua biết bao khó khăn, và đây là loại thần mà chúng tôi phải đánh thức ư? Carter trông cũng rầu chẳng kém gì tôi.
Chúng tôi vội vã chạy qua những vị thần lụ khụ khác, tất cả đều có vẻ hưng phấn. Một vài người chỉ trỏ và phát ra những âm thanh líu ríu. Một vị thần già đầu chó rừng lắc lắc cây cột treo chai dịch truyền của mình và hét lên, "Mặt trời đến! Mặt trời đi!"
Chúng tôi ùa vào sảnh, và Ra nói. "Ừ - ồ. Ừ - ồ trên sàn."
Đầu thần mặt trời quay quay. Tôi nghĩ là ông ấy muốn đứng xuống. Thế rồi tôi nhận thấy ông ấy đang nhìn cái gì đó. Trên sàn bên cạnh chân tôi có một chiếc vòng bạc óng ánh: một cái bùa quen thuộc hình rắn.
Đối với một người vừa nóng bốc khói cách đây vài phút, tôi bỗng cảm thấy ớn lạnh kinh khủng. "Menshikov," tôi nói. "Ông ta đã ở đây."
Carter rút cây đũa thần ra và nhìn khắp quanh phòng. "Nhưng ông ta đâu rồi? Tại sao ông ta chỉ đánh rơi vật này rồi bỏ đi?"
"Ông ta cố tình để nó lại," Tôi đoán. "Ông ta muốn dọa chúng ta."
Vừa nói vậy, tôi đã biết ngay rằng đó là sự thật. Tôi gần như có thể nghe thấy Menshikov đang cười trong khi ông ta tiếp tục hành trình trên dòng sông, để chúng tôi lại phía sau.
"Chúng ta phải lên thuyền!" Tôi nói. "Nhanh lên, trước khi –"
"Sadie." Bes chỉ vào chỗ quầy trực của y tá. Vẻ mặt ông ấy thật rầu rĩ.
"Ồ, không," Tawaret nói. "Không, không, không..."
Trên chiếc đồng hồ mặt trời, bóng cây kim đã chỉ vào số tám. Có nghĩa là thậm chí nếu chúng tôi có rời Nhà Bốn, thậm chí nếu chúng tôi có thể đi qua Nhà Năm, Sáu và Bảy, cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa. Theo những gì Tawaret nói với chúng tôi, cánh cổng Nhà Tám đã đóng lại rồi.
Chẳng trách gì Menshikov đã bỏ chúng tôi lại đó mà không buồn chiến đấu với chúng tôi.
Chúng tôi đã thua cuộc.