Callum Hunt là một huyền thoại tại thị trấn nhỏ bé quê hương nó tại Bắc Carolina, nhưng không theo cách tốt. Nó khét tiếng vì đã đuổi các giáo viên dạy thay bằng mấy lời mỉa móc, đặc biệt giỏi chọc giận các thầy hiệu trưởng, quản sinh và cô cấp dưỡng của trường. Lần nào gặp nó, thầy hướng nghiệp cũng bắt đầu bằng câu thầy muốn giúp trò (dù sao mẹ đứa bé đáng thương ấy cũng mất rồi) và kết thúc mong muốn chẳng phải gặp nó nữa. Chẳng có việc gì xấu hổ hơn bằng việc không đấu khẩu nổi với một thằng oắt mười hai tuổi đang trong cơn giận dữ.
Mọi người trong vùng đều biết tới cái nét cau có thường trực trên khuôn mặt, mái tóc đen rối bù cùng đôi mắt xám đa nghi của Call. Nó thích trượt ván, mặc dù mất một thời gian mới cưỡi ván được ngon nghẻ. Đến nay, vài chiếc ôtô trong vùng vẫn còn mang vết lõm – ấy chính là chiến tích sau mấy lần tập đầu tiên của nó. Nó cũng thường lảng vảng bên ngoài mấy cửa hiệu bán truyện tranh, trung tâm thương mại hay tiệm bán đĩa game. Đến thị trưởng cũng biết tiếng nó. Làm sao ông ta quên nổi nó sau cái lần trong lễ diễu hành nhân ngày Quốc tế Lao động, nó qua mặt nhân viên bán hàng tại cửa hiệu thú cảnh, cuỗm mất con chuột chũi trụi lông sắp sửa thành bữa ăn cho con trăn trong tiệm đó chứ? Ấy là vì nó mủi lòng thương sinh vật mù lòa nhăn nheo không có khả năng tự vệ đó – và, nhân danh công bằng, nó thả luôn lũ chuột bạch sẽ là bữa ăn tiếp theo cho con trăn kia.
Nó đâu ngờ rằng lũ chuột ấy lại chạy ríu rít dưới chân những người tham gia lễ diễu hành, nhưng chuột không thông minh lắm. Nó cũng không ngờ những người đi xem hội sẽ chạy loạn lên khi nhìn thấy chúng, nhưng theo lời của ba Call sau khi sự vụ kết thúc thì con người cũng không lấy gì làm thông minh. Chuyện lễ diễu hành thất bại không phải lỗi của Call nhưng mọi người – đặc biệt là thị trưởng – không nghĩ vậy. Nhưng sau đó, ba Call vẫn bắt nó trả lại con chuột trũi.
Ông không đồng tình với hành vi trộm cắp.
Ông cho rằng tội trộm cắp cũng nghiêm trọng hệt như tội sử dụng pháp thuật vậy.
Callum bồn chồn nhúc nhích người trên cái ghế cứng quèo trong phòng hiệu trưởng, lòng thầm hỏi liệu ngày mai nó có trở lại trường không và liệu mọi người có nhớ nó không. Nó đã nghĩ ra hàng tá cách làm loạn kì kiểm tra chọn pháp sư – dù sao có kế hoạch cụ thể vẫn hơn. Ba nó đã lên danh sách các cách để nó bị đánh trượt hết lần này tới lần khác: Cứ ngơ ra. Hay tập trung vào điều đi ngược lại ý muốn của mấy con quỷ ấy. Hay tập trung vào bài thi của một bạn khác, thay vì của con. Call xoa cái đùi vẫn còn bị chuột rút và đau nhức từ buổi học ban sáng; thi thoảng nó cũng bị thế. Ít nhất thì phần thi thể chất trong kì thi – dù đó là gì – cũng dễ trượt thôi.
Nó nghe thấy tiếng những đứa trẻ khác đang học tiết thể dục bên ngoài, tiếng giày thể thao kêu kin kít trên nền nhà lát gỗ sáng bóng, những giọng nói vang lên khi chúng mắng nhiếc nhau. Nó ước mình được chơi bóng một lần. Có thể nó không nhanh nhẹn hay giữ thăng bằng tốt như những đứa trẻ khác, nhưng nó cũng hiếu động lắm chứ. Vì cái chân mà nó được miễn mọi môn học thể chất: Từ hồi học tiểu học, mỗi khi nó cố chạy nhảy hay leo trèo trong giờ ra chơi, một thầy quản sinh sẽ tới nhắc nó chậm lại trước khi tự làm mình bị thương. Nếu nó còn cứng đầu muốn làm tiếp, họ sẽ kéo nó vào trong lớp.
Làm như mấy vết bầm là thứ tệ hại nhất trần đời ấy! Làm như chân nó có thể tệ hơn được nữa vậy!
Call thở dài và thẫn thờ nhìn qua ô cửa kính của nhà trường tới nơi ba nó sẽ sớm đậu xe ở đó. Ông đi chiếc xe khó ai quên nổi – chiếc Rolls-Royce Phantom đời 1937 sơn màu bạc sáng. Trong thị trấn này không có chiếc xe thứ hai như vậy. Ba Call mở một cửa tiệm bán đồ cổ ở đường Main, mang tên Now and Again; đam mê lớn nhất của ông là được thu nhận những món đồ cũ đã hỏng và biến chúng bóng đẹp như mới. Để chiếc xe chạy ngon trớn, ông bảo dưỡng nó mỗi tuần. Và ông thường xuyên bảo Call rửa xe và bôi một thứ sáp kì lạ dùng cho xe cũ, để nó không bị gỉ.
Chiếc Rolls-Royce chạy êm ru – không giống như Call. Nó nhìn xuống đôi giày thể thao khi nhịp chân xuống sàn. Khi nó mặc quần bò thế này, chẳng ai biết chân nó có vấn đề, nhưng người ta sẽ nhận ra ngay khi nó đứng dậy và bước đi. Từ hồi còn bé, nó đã trải qua hết cuộc phẫu thuật này tới cuộc phẫu thuật khác, cùng mọi liệu pháp vật lí, nhưng chẳng ăn thua gì. Nó vẫn đi cà thọt, giống như lúc nào nó cũng cố đặt chân lên một con thuyền đang xoay mòng mòng.
Hồi nhỏ hơn, đôi lúc nó vờ làm cướp biển, hay một thủy thủ gan dạ đi chân gỗ được chìm cùng thuyền sau một cuộc chiến bằng súng đại bác dài dằng dặc. Nó từng giả làm cướp biển, ninja, cao bồi và người ngoài hành tinh.
Nhưng chưa từng làm gì liên quan tới pháp thuật. Chưa từng.
Nó nghe tiếng động cơ rì rì và bắt đầu đứng dậy – nhưng lại bực bội ngồi phịch xuống ghế. Đó không phải xe của ba nó, mà chỉ là một chiếc Toyota bình thường màu đỏ. Một lát sau, Kylie Myles, nữ sinh học cùng lớp với nó rảo bước qua với một giáo viên đi bên cạnh.
“Chúc trò may mắn trong cuộc thi ba-lê,” cô Kemal nói với nhỏ rồi trở vào lớp.
“Dạ, con cảm ơn cô,” Kylie nói và rồi nhìn Call bằng ánh mắt rất kì cục, như đang đánh giá Call. Kylie chưa từng nhìn Call. Ấy cũng là một nét đặc trưng của nhỏ, cũng như mái tóc vàng óng và cặp sách in hình kì lân vậy. Khi hai đứa cùng đứng trong hành lang, nhỏ sẽ nhìn vượt qua Call như thể nó là người vô hình.
Với một cái vẫy tay nửa vời kì quặc hơn và khiến Call bất ngờ hơn, Kylie đi về phía chiếc Toyota. Call thấy ba mẹ nhỏ ngồi ở ghế trước, trông có vẻ bồn chồn lo lắng.
Kylie sẽ không đến nơi nó sẽ tới chứ? Không đời nào nhỏ cũng tham dự Kỳ Thi Sắt được. Nhưng nếu quả là vậy...
Call đứng bật dậy. Nếu Kylie đi, phải có ai đó cảnh báo nhỏ biết trước.
Rất nhiều đứa trẻ muốn là người đặc biệt, ba Call từng chán ghét nói. Ba mẹ chúng cũng vậy. Nhất là những gia đình dòng dõi pháp thuật. Ở một vài gia đình mà khả năng pháp thuật đã dần biến mất, sự xuất hiện một đứa trẻ có tài làm phép chẳng khác nào ngọn lửa nhóm lên hi vọng được trở lại thời hoàng kim. Nhưng con nên thương những đứa trẻ chẳng có bà con thân thích nào biết dùng phép, bởi chúng những tưởng cuộc đời chúng sẽ như trong phim vậy.
Nhưng chẳng có gì giống phim hết.
Đúng lúc đó, ba Call phanh xe cái kít, và giúp Call hoàn toàn quên đi Kylie. Call tập tễnh ra ngoài, nhưng khi nó tới chỗ chiếc Rolls đang đậu, chiếc Toyota của nhà Myles đã quành ở góc đường và khuất dạng.
Nó chẳng thể cảnh báo Kylie gì nữa rồi.
“Call.” Ba nó xuống xe và dựa vào bên cửa tài xế. Mái tóc đen của ông – cũng bù rối hệt như tóc Call – đã điểm bạc ở hai bên thái dương và dù trời khá nực, ông vẫn mặc áo khoác vải tuýt có miếng đắp ở khuỷu tay. Call thường nghĩ ba nó giống Sherlock Holmes trong loạt phim dài tập ngày trước của BBC; đôi lúc mọi người tỏ vẻ ngạc nhiên khi ông không nói giọng Anh. “Con sẵn sàng chưa?”
Call nhún vai. Sao Call có thể sẵn sàng trước một việc có thể làm đảo lộn cuộc đời nó nếu nó làm sai chứ? Hoặc là làm đúng, xét trong trường hợp này. “Chắc rồi ạ.”
Ba nó mở cửa xe. “Tốt. Vào đi.”
Bên trong chiếc Rolls cũng hoàn hảo hệt như bề ngoài của nó. Call ngạc nhiên thấy đôi nạng cũ của nó ở băng ghế sau. Sau cái lần rơi khỏi khung leo trèo trong sân chơi và trật mắt cá bên chân lành cách đây nhiều năm, nó đã không cần đến chúng nữa. Khi ba Call vào xe và khởi động máy, Call chỉ chúng và hỏi. “Cái này để làm gì vậy ba?”
“Trông con càng thảm, họ càng không muốn nhận con,” ba nó vừa trả lời thẳng thừng vừa ngoái đầu nhìn ra đằng sau để đánh xe rời khỏi bãi đậu.
“Con thấy cứ gian lận thế nào ấy,” Call phản đối.
“Call, người ta gian lận để thắng. Con không thể gian lận để thua.”
Call đảo mắt và kệ cho ba nó tin điều ông muốn. Nhưng Call biết chắc trừ khi đặng chẳng đừng, nó mới dùng tới nạng. Nhưng nó không muốn tranh luận về vấn đề này, không phải hôm nay, khi mà mới sáng ra, ba nó đã tự dưng nướng cháy bánh mì và quát Call khi nó ca cẩm về chuyện phải đến trường học có hai tiếng rồi nghỉ mất.
Giờ ba nó gò người trên vô lăng, cắn chặt răng và bàn tay phải nắm chặt cần gạt số, lên số như thể ông có hận thù gì đó với cái vật đáng thương ấy vậy.
Call cố chăm chú nhìn hàng cây bên ngoài với tán lá đã bắt đầu ngả vàng, và nhớ mọi điều nó biết về trường Magisterium. Lần đầu tiên ba nói về các giáo viên và cách họ chọn học trò, ba đã bảo Call ngồi xuống cái ghế dài lớn trong phòng làm việc của ông. Lúc đó, Call bị băng bó khuỷu tay và sứt môi sau vụ ẩu đả ở trường, và nó không có tâm trạng lắng nghe. Hơn nữa, vẻ mặt nghiêm túc của ba dọa nó sợ. Rồi cái cách ba nói cứ như ông sắp bảo Call bị mắc bệnh hiểm nghèo vậy. Và hóa ra căn bệnh nó mắc phải là bệnh biết làm phép.
Call ngồi thu lu nghe ba nói. Nó quen bị bọn trẻ trêu chọc: chúng nghĩ với cái chân tật như vậy, nó sẽ dễ bị ăn hiếp hơn. Thường thì nó có thể khiến tụi kia không làm gì được mình. Nhưng lần đó, có một nhóm con trai lớn hơn đã dồn nó vào nhà xưởng cạnh khung leo trèo trên đường nó từ trường về nhà.
Chúng đẩy nó và đay nghiến nó. Vì Callum đã biết hầu hết sẽ cúp đuôi chạy hết khi nó sùng lên, vì thế nó thử đánh thằng cao nhất. Đó là sai lầm đầu tiên của nó. Ngay sau đó, chúng đè nó xuống đất, một đứa ngồi lên đầu gối nó, để những đứa khác đấm vào mặt nó, bắt nó phải xin lỗi và nhận mình là thằng hề què.
“Lũ ngu, xin lỗi vì tao quá tuyệt nhé,” Call nói trước khi ngất đi.
Chắc nó chỉ ngất độ một phút, vì khi nó mở mắt, nó vẫn thấy những bóng dáng đang bỏ phía xa xa. Call không tin câu đốp chát của nó đem lại hiệu quả cao đến vậy.
“Đúng đó,” nó nói và ngồi dậy. “Chúng mày nên chạy thì hơn!”
Rồi nó nhìn quanh và thấy phiến bê tông lát nền sân chơi bị bửa ra. Một vết nứt dài chạy từ cái xích đu tới tận tường nhà xưởng, chia căn nhà nhỏ ấy làm đôi.
Nó nằm chính trên đường đi của cái trông như một trận động đất nhỏ.
Nó nghĩ đó là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra. Nhưng ba không đồng tình với nó.
“Pháp thuật di truyền trong gia đình,” ba Call nói. “Không phải mọi thành viên đều có khả năng này, nhưng có vẻ con sở hữu tài làm phép. Thật không may. Ba rất tiếc, Call à.”
“Vậy vết nứt trong sân chơi... ba nói là do con á?” Call bị giằng xé giữa vui sướng với hoảng sợ cực độ, nhưng cuối cùng, vui sướng đã thắng. Khóe miệng nó nhếch lên và nó cố ghìm lại. “Pháp sư làm những việc như vậy à?”
“Pháp sư triệu hồi các nguyên tố: đất, khí, nước, lửa và cả chân không – nguồn gốc của thứ pháp thuật mạnh nhất và đáng sợ nhất, phép hỗn độn. Họ làm phép cho nhiều mục đích, chẳng hạn tách đất như con đã làm vậy.” Ba nó gục gặc đầu. “Pháp thuật được sử dụng lần đầu tiên bao giờ cũng rất mạnh. Đó là thứ pháp thuật bị cảm xúc chi phối mà bột phát... thô nguyên nhưng cân bằng. Con phải luyện tập chăm chỉ mới khống chế được nguồn pháp thuật ấy. Hầu như các pháp sư trẻ đều không biết cách kiểm soát. Nhưng Call, con phải chống lại nó. Con không được sử dụng pháp thuật nữa. Nếu không, các pháp sư sẽ đưa con xuống những đường hầm của họ.”
“Magisterium ở dưới lòng đất á?” Call hỏi.
“Chôn sâu dưới đất để không ai tìm ra nó,” ba đáp ngay tắp lự. “Dưới đó không có ánh sáng, không có cửa sổ. Nơi ấy là một mê cung. Con có thể lạc trong các hang động rồi bỏ xác mà không ai hay biết.”
Call liếm đôi môi khô nứt. “Nhưng ba là pháp sư, đúng không?”
“Ba đã không dùng pháp thuật kể từ ngày mẹ con mất. Ba chưa từng làm phép thêm lần nào.”
“Và mẹ đã tới đó? Tới các đường hầm ấy? Thật vậy ạ?” Call luôn hào hứng mỗi khi được nghe bất cứ điều gì về mẹ. Nó không biết nhiều về bà. Qua dăm ba bức hình ố vàng trong cuốn album cũ, Call biết mẹ rất xinh đẹp với mái tóc đen tuyền giống nó và đôi mắt mang màu gì đó mà nó không nhận ra được. Nó biết đừng nên hỏi ba nhiều về mẹ. Trừ trong trường hợp bất khả kháng, còn đâu ông không bao giờ nói gì về bà.
“Ừ,” ba Call nói. “Và cũng chính vì pháp thuật mà mẹ con qua đời. Khi chiến tranh xảy ra trong thế giới pháp thuật, mà chuyện khá thường xuyên, các pháp sư không quan tâm tới những kẻ tử trận. Đó là một lí do nữa để con liệu chừng mà đừng thu hút sự chú ý của họ.”
Đêm đó, Call tỉnh giấc và hét váng lên vì tin rằng mình bị kẹt dưới lòng đất, đất chồng lên người nó như thể nó bị chôn sống. Kệ cho nó quẫy đạp thế nào nó cũng không thở được. Sau đó, nó mơ thấy mình đang chạy trốn một con quỷ khói với đôi mắt vằn vện đủ thứ màu sắc độc địa... nhưng vì cái chân, nó không chạy nhanh được. Trong những giấc mơ, cái chân bị kéo lê sau nó như một vật đã chết tới khi nó quỵ xuống và hơi thở nóng hổi của con quỷ phả lên cổ nó.
Lũ trẻ đồng trang lứa với Call sợ bóng tối, lũ quái vật dưới gầm giường, thây ma, hay những tay sát nhân cầm cây rìu lớn. Call sợ pháp sư, và nó thường sợ mình là một trong số họ.
Giờ nó sắp gặp họ. Chính những pháp sư là nguyên do dẫn đến chuyện mẹ nó qua đời, ba nó chẳng mấy khi cười và chẳng có bạn, suốt ngày ngồi trong phòng làm việc tại garage để sửa chữa ba món đồ đồng nát. Call không nghĩ thiên tài mới hiểu nổi vì sao ba nó bị ám ảnh với chuyện gắn các thứ gãy hỏng lại như cũ.
Họ phóng qua một tấm biển chào mừng họ tới Virginia. Mọi thứ vẫn vậy. Nó không biết mình chờ đợi cái gì, nhưng từ trước tới nay nó chẳng mấy khi rời Bắc Carolina. Chuyến đi chơi tới Asheville dạo trước là dịp vô cùng hiếm hoi, nhưng hai ba con chủ yếu cũng chỉ đến các buổi họp chợ bán phụ tùng ô tô hay đồ cổ. Tới đó, trong khi Call đi lang thang giữa hàng núi những món đồ bạc đã xỉn màu, những bộ sưu tập thẻ bài cầu thủ bóng rổ được bảo quản trong các túi bóng, và những cái đầu bò yak được nhồi bông trông cũ kĩ và kì dị, ba nó cò kè để mua một món đồ chán ốm nào đó.
Đột nhiên Call nghĩ nếu nó không phá bĩnh kì thi này, có lẽ nó sẽ không bao giờ được tới các buổi họp chợ nữa. Bụng dạ nó nhộn nhạo và người nó lạnh ngắt tới tận xương. Nó buộc mình phải nghĩ tới kế hoạch ba đã nhồi nhét vào đầu nó: Cứ ngơ ra. Hay tập trung vào điều đi ngược lại ý muốn của mấy con quỷ ấy. Hay tập trung vào bài thi của một bạn khác, thay vì của con.
Nó thở hắt một hơi. Sự căng thẳng của ba đã lây sang nó. Mọi chuyện sẽ ổn thôi. Thi trượt dễ ấy mà.
Chiếc xe rời đường cao tốc đi vào một con đường nhỏ. Nó thấy một tấm biển hiệu duy nhất có in hình máy bay cùng dòng chữ PHI TRƯỜNG ĐÓNG CỬA TÂN TRANG bên dưới.
“Chúng ta đi đâu đây?” Call hỏi. “Chúng ta bay tới đâu à?”
“Mong là không,” ba nó lầm bầm.
Con đường đột ngột chuyển từ đường nhựa sang đường đất. Khi hai ba con phi qua con đường lổn nhổn ổ gà ổ voi, Call bám vào phần khung cửa để không bị thốc lên và đập đầu vào trần. Chiếc Rolls-Royce không được thiết kế để đi đường đất.
Đột nhiên cây cối rẽ lối cho đường rộng ra. Chiếc Rolls giờ đang lướt đi trên một vùng thênh thang đẹp đẽ. Ở giữa đó là một nhà chứa máy bay rộng rãi làm bằng thép dạng lượn sóng. Đậu quanh đó là khoảng một trăm chiếc ô tô, từ loại xe bán tải cà tàng tới xe mui kín sang trọng như Phantom cùng nhiều dòng xe hiện đại hơn. Call thấy các cặp phụ huynh đang cùng con em mình rảo bước vào nhà chứa máy bay.
“Hình như chúng ta đến muộn,” Call nói.
“Tốt.” Ba nó có vẻ cực kì hài lòng. Ông đậu xe, bước xuống và ra hiệu cho Call đi theo. Call mừng khi ba nó hình như đã quên mất cặp nạng. Thời tiết hôm nay khá nóng, mặt trời như đổ lửa xuống cái lưng áo màu xám của Call. Lúc hai ba con bước qua bãi đậu xe và tới lối vào được sơn đen dẫn tới nhà chứa máy bay, Call quệt bàn tay ướt nhẹp mồ hôi vào quần.
Mọi chuyện trong đó thật điên rồ. Lũ trẻ đi vơ vẩn vòng quanh, giọng chúng vang vọng trong không gian rộng lớn. Dọc một bên tường các hàng ghế của khán đài; dù số người trong phòng này chả ngồi chật được cái khán đài ấy, nhưng nó chả thấm tháp bao nhiêu so với độ lớn của căn phòng. Một tấm thảm màu xanh nước biển thêu một loạt dấu x trải vòng quanh sàn nhà bêtông.
Phía bên kia phòng, đứng trước cửa nhà chứa máy bay từng có thời mở ra để máy bay trượt vào đường băng, là các pháp sư.