K
hi họ đi qua quảng trường McPherson, Jenn quay người lại để cho George biết họ đã trở về. Chiếc Range Rover đậu vào trong ga ra dưới lòng đất.
Khi họ đã đỗ xe và ra ngoài, Jenn ngoái lại để trông chừng Vaughn. Anh ta nhìn lại nhưng không nói gì. Anh ta cao hơn cô tưởng, nhưng ánh mắt thì đúng là rất mãnh liệt. Anh ta đã nhận ra cô trong quán ăn, điều đó đã đủ xấu hổ rồi, nhưng cách anh ta đáp lại ánh mắt cô khi họ bắt tay bên ngoài khiến cô cảm thấy mình như một bữa tối lấy ra từ lò vi sóng. Cô không thích điều đó.
Trên lầu, văn phòng của Tập đoàn Tư vấn Abe tối đen và im ắng. Đèn nhanh chóng tự động bật lên. Không gian không quá lớn nhưng sạch sẽ, hiện đại, với trần cao và nội thất da màu đen thời thượng. Vaughn có vẻ rất ấn tượng.
Hendricks đưa họ xuống một hành lang về phía tiếng nhạc xập xình, giận dữ. Ông mở cánh cửa kính lớn của phòng họp và tiếng nhạc vang lên chói tai. Cảm giác này như đang đứng trên đường băng khi một chiếc 747 hạ cánh. Jenn nhận ra bài hát nhưng không biết tên của ban nhạc. Cô chưa bao giờ biết. Cô không quan tâm lắm tới âm nhạc nên không phí thời gian ghi nhớ.
Một cái đầu hói ló ra từ đằng sau một cái máy tính xách tay như trong trò đập chuột.
“Tiếng nhạc, Mike! Trời ạ!” Hendricks hét.
Phòng họp trở nên im lặng và một người với cái đầu hói đứng lên. Tiếng nhạc phát ra từ chỗ Mike Rilling, giám đốc công nghệ thông tin của Tập đoàn Tư Vấn Abe. Ở tuổi ba mươi, gã có đôi mắt đỏ sọng và làn da vàng vọt của một người sống dựa vào cà phê và đồ ăn nhanh. Mùi căng thẳng quanh quẩn trong căn phòng.
“Xin lỗi, ngài Abe. Tôi nghĩ chiều ông mới về.”
“Chiều rồi,” Jenn nói.
“À,” Mike nói. “Tôi xin lỗi, ngài Abe.” “Không sao. Mọi việc thế nào rồi?” Abe hỏi.
Miệng Mike mở ra nhưng rồi khép lại mà không có câu trả lời, loại biểu hiện mà Jenn nhận ra là dấu hiệu điển hình của Mọi việc chẳng thế nào cả và tôi mong mọi người đừng hỏi nữa. Cô đã từng thế và thấy thông cảm với gã. Mike làm việc chăm chỉ như mọi người trong nhóm, nhưng đây không phải là lĩnh vực chuyên môn của gã. Đó không phải là lỗi của gã dù cũng là tại gã nói quá về năng lực của mình. Đó là lí do Vaughn có mặt ở đây. Nếu không phải đã quá muộn.
Bình thường đây là phòng họp chính của họ, nhưng nó đã được chuyển đổi thành một phòng chiến dịch tạm thời. Ảnh, biểu đồ, bản đồ và ghi chú được đính gọn gàng vào hàng loạt các tấm bảng có bánh lăn xếp trên một bức tường. Một bức ảnh của Suzanne Lombard được đính trên đỉnh ở giữa một tấm bảng, ảnh của những người thân nhất trong gia đình cô được dán ngay bên dưới như một cây phả hệ ngược. Mắt Vaughn hướng ngay về phía đó và một biểu cảm cô không hiểu nổi thoáng hiện trên gương mặt anh ta.
Bên dưới các thành viên trong gia đình là những nhân viên của Lombard thời còn làm thượng nghị sĩ, bao gồm Duke Vaughn. Mỗi cái tên được ghi thành một hàng riêng. Ảnh của George cũng ở đó. Còn có hai khung trống đặt cạnh nhau. Một cái ghi ‘WR8TH’ - phòng chat ẩn danh có những người mà Suzanne đã nói chuyện trên mạng trước khi biến mất. Cái kia ghi “Tom B”. Một đường nối hai khung ảnh và một dấu chấm hỏi được đặt ở giữa.
Abe ngồi xuống ở đầu bàn. Hendricks và Vaughn làm theo, còn Rilling chạy quanh như gà mái mẹ.
“Michael. Làm ơn đi. Để việc dọn dẹp nhà cửa lại sau.” Abe nói.
“Vâng, thưa ngài Abe. Tôi xin lỗi.”
Abe không khỏi bật cười. “Và đừng xin lỗi vì đã làm việc chăm chỉ.”
Jenn đánh giá cao nỗ lực của sếp, nhưng không lời khen ngợi nào có thể làm yên lòng Mike Rilling. Cô nghĩ ngay cả một lọ thuốc an thần cùng dây trói cũng không làm được. Rilling đã làm việc quá sức, dễ giật mình và lúc nào cũng tin rằng mình bị đánh giá quá thấp.
“Michael, đây là Gibson Vaughn.” George nói. “Cậu ấy sẽ tư vấn về vụ Lombard. Gibson, đây là Michael Rilling, giám đốc công nghệ thông tin của chúng tôi.”
Rilling bắt tay Vaughn một cách yếu ớt và nhìn anh ta như chó đánh dấu lãnh thổ. Gibson hoặc không nhận ra hoặc đã lờ đi.
“Tôi sẽ bảo Jenn cập nhật thông tin cho cậu,” Abe nói với Vaughn. “Đôi khi, việc lần theo manh mối quen thuộc cũng có ích. Cậu sẽ tìm thấy tất cả những điều đó trong hồ sơ.”
Jenn đẩy một tập hồ sơ dày qua bàn họp cho Vaughn. Dòng chữ “Suzanne Lombard” được đánh máy gọn gàng dọc theo gáy hồ sơ và trên bìa. Bên trong, có một bài tổng quan về vụ mất tích của Suzanne Lombard và cuộc điều tra sau đó. Rất nhiều trong đó là các tài liệu, hình ảnh và ghi chú của FBI, tất cả đều rất kĩ lưỡng. Abe có thể đã chia tay Benjamin Lombard, nhưng ông ta vẫn có ảnh hưởng nhất định.
Vaughn xem tập hồ sơ đầy lo lắng và xoa xoa đằng sau tai. Mỗi lần cái tên Suzanne Lombard được nhắc tới là anh ta lại có vẻ chùng và hơi thu mình lại. Là gì đây? Cảm giác tội lỗi? Ân hận? Sợ hãi? Là sợ hãi ư? Anh ta thấy cô đang nhìn mình và mỉm cười như một người cố gắng tỏ ra thân thiện với nha sĩ trước khi chữa tủy răng.
Một máy chiếu ở trên được bật lên và màn hình được kéo xuống từ chiếc khung gắn trên tường. Một tấm ảnh của Suzanne phủ kín màn hình. Không thiếu ảnh cho họ chọn. Nhà Lombard là một gia đình rất đẹp đẽ, lần nào họp mặt cũng phải chụp ảnh. Bức ảnh trên màn hình được cắt ra từ một trong những buổi tiệc Giáng sinh - Suzanne ngồi trên sàn nhà dưới chân người lớn, tươi cười trước máy ảnh. Bên cạnh Suzanne là hình ảnh một phần cánh tay của Gibson Vaughn đang giơ lên cao. Jenn đã tìm thấy vài bức hình không có mặt Vaughn - không nhiều - nhưng cô chọn tấm này để xem phản ứng của anh ta thế nào.
Giờ cô hối hận rồi. Anh ta trông như bị say sóng. “Jenn, cô trình bày đi,” Abe nói.
Cô bắt đầu đứng lên, nghĩ xem nên nói thế nào rồi lấy lưỡi chạm vào răng. “Anh biết những gì về vụ mất tích của Suzanne Lombard?”
“Ngoài những gì họ đã đưa tin mười năm qua?” Vaughn nói. “Không nhiều.”
“Anh bị thẩm vấn bao giờ chưa?” Hendricks cắt ngang. “Sau vụ bắt cóc, chúng tôi không thấy có ghi lại.”
“Chưa,” Vaughn đáp. “Lúc đó, tôi đang trong trại giam.”
“Dan có lí,” Jenn nói. “Nếu có gì đó chúng tôi biết về Suzanne mà anh thấy không chính xác, hãy lên tiếng. Anh có mối quan hệ đặc biệt với cô ấy.”
Vaughn nhíu mày. “Được, nhưng nên nhớ là tôi đã không gặp cô ấy kể từ khi cha tôi qua đời.”
“Hiểu rồi.” Abe nói. “Nhưng biết đâu được đấy.”
Jenn hắng giọng. “Nếu không ai phản đối, tôi nghĩ chúng ta sẽ nói từ đầu.” Cô ngừng lại xem có ai phản đối không. “Được rồi, như các vị đều biết, tháng Bảy này là đúng mười năm vụ mất tích xảy ra. Vào buổi sáng thứ Ba, ngày 22 tháng 7, Suzanne Lombard, con gái của Thượng nghị sĩ Benjamin Lombard, ở bang Virginia, đã trốn khỏi nhà. Trốn khỏi một gia đình hoàn hảo và hạnh phúc - theo lời người ngoài. Có đúng như anh nhớ không?”
“Có.”
“Vào giai đoạn đầu của cuộc điều tra, cảnh sát và FBI đặt giả thuyết rằng Suzanne bị bắt cóc trên đường gần căn nhà bên bờ biển của gia đình bên ngoài làng Pamsrest, Virginia. Grace Lombard và con gái thường dành cả mùa hè ở đó trong khi ngài thượng nghị sĩ đi đi về về giữa Pamsrest và Washington DC.”
Pamsrest là một cộng đồng nhỏ kiểu “ai cũng quen biết nhau”. Các cửa hàng gia đình, hai tiệm kem, một lối đi bộ dọc bờ biển và một nhà hàng thịt nướng kiểu giản tiện từng được trao giải thưởng. Một kiểu hồi tưởng về cái thời giản dị mà ai cũng thương nhớ nhưng lại chẳng biết là từ bao giờ - nơi mà các gia đình thấy đủ an toàn để bớt cảnh giác.
“Đúng rồi,” Vaughn nói. “Mùa hè cuối cùng tôi ở đó, Gấu nhỏ chắc khoảng mười hai tuổi. Và cô ấy được tự do đi lại.”
“Gấu nhỏ?” Hendricks hỏi.
“Xin lỗi. Ý tôi là Suzanne. Gấu nhỏ là cách tôi gọi cô ấy.”
Hendricks ghi chú.
“Suzanne đạp xe đi khắp mọi nơi,” Jenn tiếp tục. “Mùa hè năm đó, cô nhận việc ở một hồ bơi địa phương và thường rời nhà vào buổi sáng rồi đi cả ngày. Đây là thời trước khi mọi đứa trẻ đều có di động. Không có gì lạ nếu Grace Lombard không trò chuyện gì với con gái cả ngày. Bà ấy không hề thấy lo cho đến 6 giờ tối. Mất hai cuộc gọi để xác nhận rằng Suzanne không đến chỗ làm. Cuộc gọi thứ ba của bà ấy là cho chồng ở Washington DC. Thượng nghị sĩ Lombard liền gọi cho FBI. Mọi chuyện bắt đầu như thế. Tới sáng hôm sau, thị trấn đã đầy lực lượng thực thi pháp luật - cảnh sát của địa phương, bang và liên bang. Tới trưa, câu chuyện lan đi toàn quốc và Suzanne Lombard trở thành nỗi ám ảnh mới nhất với các bản tin truyền hình.”
“Dân da trắng là thế đấy,” Hendricks nói.
Jenn gật đầu. Hiển nhiên rồi. Các nhà xã hội học gọi đó là MWWS, hay Hội chứng Phụ nữ Da trắng Mất tích (Missing White Woman Syndrome). Suzanne đã nối gót Elizabeth Smart18 và Natalee Holloway19 - nếu bị mất tích ở Mỹ, thì sẽ có lợi hơn hẳn nếu bạn là một phụ nữ da trắng xinh đẹp. Thêm cả việc là con gái của một thượng nghị sĩ Mỹ, vậy là bạn đủ điều kiện để trở thành nỗi ám ảnh tiếp theo của đất nước. Báo chí ùa về Pamsrest như dịch bệnh ở Ai Cập. Các xe tải truyền hình tạo thành một thị trấn tạm bợ ở ngoại thành. Bất cứ cư dân nào chịu đứng im trong vài giây đảm bảo sẽ xuất hiện trên ti vi. Câu chuyện được phát suốt ngày trong nhiều tháng và trên mọi hãng tin.
18. Một nhà hoạt động vì an toàn của trẻ em. Năm 14 tuổi, cô được cả nước biết đến khi bị bắt cóc tại nhà và được giải cứu chín tháng sau đó.
19. Một học sinh bị bắt cóc khi đi dã ngoại cùng nhà trường, đến nay vẫn chưa tìm thấy.
“Vào buổi chiều ngày hôm sau, chiếc xe đạp của Suzanne được tìm thấy cách đó hai thị trấn trong một lùm cỏ cao ngang hông người sau một cửa hàng tạp hóa. Khu vực này đã được lùng sục nhiều lần, nhưng không ai nhớ có thấy Suzanne Lombard. Lực lượng thực thi pháp luật địa phương lần theo những kẻ phạm tội tình dục trong vùng trong lúc FBI tìm hiểu khả năng đó là một vụ bắt cóc có động cơ chính trị. Tất nhiên, không ai gọi đòi tiền chuộc.”
Cả Abe và Hendricks đều xoay người trên ghế. Cô nói tiếp trước khi họ có thể cắt ngang. Cô muốn nói cho xong chuyện cũ trước khi chuyển sang chuyện mới.
“Đột phá đầu tiên trong vụ án tới vào ngày thứ sáu. Một sinh viên đại học tên là Beatrice Arnold gọi cho đường dây nóng của FBI báo cô ấy đã bán đồ ăn vặt cho Suzanne Lombard ở trạm xăng mà mình làm việc tại Breezewood, Pennsylvania.”
“Đoạn băng ở Breezewood chuyển hướng hoàn toàn cuộc điều tra và bác bỏ toàn bộ các giả thuyết của lực lượng thực thi pháp luật. Suzanne Lombard không bị bắt cóc mà là bỏ nhà đi. Bằng cách nào đó, cô ấy đã đi 560 cây số, từ bờ biển Virginia tới Pennsylvania mà không bị chú ý. Từ đoạn băng an ninh, ba dữ kiện rõ ràng xuất hiện: Thứ nhất, Suzanne chủ động che giấu danh tính của mình. Thứ hai, cô ấy đang đợi ai đó. Và thứ ba, ít ra theo quan điểm của Suzanne, người đó là bạn.
“Khi giả định đó là một vụ bắt cóc, không ai chú ý nhiều tới Suzanne Lombard. Cô ấy chỉ là một người vô tội ở nhầm chỗ, nhầm thời điểm. Nhưng khi đoạn băng Breezewood xuất hiện, FBI gợi mở về những góc riêng tư trong cuộc sống của Suzanne Lombard. Môi trường, đồ đạc và các mối liên hệ của cô ấy đều được lưu trữ và phân tích.” Jenn ngừng lại. “Tôi cho rằng anh vẫn theo kịp?”
Vaughn gật đầu.
“Được rồi, từ đây chúng ta sẽ tới phần không được chia sẻ với truyền thông. Vì thế hãy cắt ngang tôi nếu anh có câu hỏi.”
Vaughn lại gật đầu.
“Vậy ai là ‘người bạn’ mà cô ấy đã gặp ở Breezewood và làm sao cô ấy biết người này? Những cuộc phỏng vấn ban đầu với bạn bè của Suzanne ở hồ bơi dẫn đến bạn trai của cô ấy - một tay ‘Tom B’.” Jenn chỉ vào bức ảnh trống trên bảng.
“Cô ấy có bạn trai?”
“Điều đó làm anh ngạc nhiên sao?”
“Một chút, tôi nghĩ vậy. Chúng ta biết gì về cậu ta?”
“Không nhiều. Bạn bè cô ấy thừa nhận đã nhiều lần bao che để cô ấy có thể rời chỗ làm sớm và gặp cậu ta. Cha mẹ của Suzanne quả quyết là người bạn trai này không tồn tại, nhưng tìm kiếm phòng của Suzanne cho thấy một xấp thư tình từ cậu này giấu dưới một kệ sách.”
“Và?”
“Và chỉ có thế. Lực lượng thực thi pháp luật đã tìm kiếm nhưng không thấy ai tên là Tom B. trong bán kính năm mươi dặm. Họ đã mở rộng cuộc tìm kiếm sang nhiều biến thể khác của cái tên như Tom A., Tom C., Tom D., v.v, nhưng chỉ đi vào ngõ cụt.”
“Và cậu ta không bao giờ ra mặt?”
Jenn lắc đầu. “Nhưng một đầu mối mới xuất hiện khi tìm kiếm trong máy tính xách tay của Suzanne. Đĩa cứng đã bị xóa sạch bằng Heavy Scrub - một ứng dụng dùng để xóa dữ liệu vĩnh viễn.”
“Gibson, cậu có thể giải thích nó hoạt động ra sao không?” George hỏi.
Jenn bối rối nhìn sếp. George biết rõ Heavy Scrub hoạt động ra sao. Ông ta là người đã giải thích nó cho cô. Chắc chắn là ông ta có lí do mới hỏi. Làm việc với George giống như chơi cờ với một đại kiện tướng. Ông ta khiến cô hoang tưởng về chứng hoang tưởng của mình.
“À, chắc rồi.” Vaughn nói. “Trái với quan niệm thông thường, xóa dữ liệu trong ‘thùng rác’ của một máy tính chỉ đổi vị trí dữ liệu. Nó vẫn tồn tại trong ổ cứng, nhưng giờ máy tính được phép ghi chồng lên file nếu thiếu chỗ trống. Tuy nhiên, một tập tin ‘đã xóa’ có thể tồn tại nhiều năm trời tùy vào thói quen của người dùng. Phục hồi những dữ liệu ‘đã xóa’ này rất đơn giản. Đó luôn là điểm thất bại của những kẻ suýt trở thành siêu tội phạm. Do đó, cần những chương trình như Heavy Scrub để ghi đè lên ổ đĩa cứng nhiều lần cho đến khi những dữ liệu kia không thể khôi phục được nữa. Đó không phải là thứ mà một cô bé mười bốn tuổi biết.”
“Và chắc chắn một thiếu niên được cha mẹ tả là ‘mù công nghệ’ không biết.” Jenn nói.
“Cô bé đúng là thế đấy.” Hendricks xen vào. “Vì khi cài đặt rồi chạy phần mềm để che đi dấu vết của mình, cô bé đã đóng máy tính xách tay lại trước khi nó chạy xong…”
Vaughn quay phắt sang Hendricks. “Điều đó khiến cái máy tính rơi vào trạng thái nghỉ và khiến Heavy Scrub ngừng giữa chừng.” Anh nói nốt câu của Hendricks. “Gấu nhỏ đã làm hỏng việc, đúng không?”
“Đúng.” Jenn nói. “Cái máy tính xách tay được đưa tới Fort Meade. Họ đã khôi phục được nhiều dữ liệu nhất có thể - thật ra là chẳng được bao nhiêu. Phần lớn đều là những thứ thông thường của thiếu niên: những đoạn bài tập về nhà, tiểu luận, e-mail, v.v… Nhưng một phần mềm trò chuyện chuyển tiếp trên Internet20 được tìm thấy trên máy. Cha mẹ cô ấy không hề hay biết về phần mềm đó và bạn bè cô ấy không sử dụng.”
20 Internet relay chat (IRC): một dạng liên lạc cấp tốc qua mạng Internet. Nó được thiết kế với mục đích chính là cho phép các nhóm người trong một phòng thảo luận (channel) liên lạc với nhau. Tuy nhiên, nó cũng cho phép hai người dùng liên lạc riêng nếu họ thích.
“Tôi nhớ FBI đã săn lùng ráo riết WR8TH. Phải chăng đây là cách FBI biết về nó?” Vaughn giờ đã ngồi thẳng người lên.
“Phải. Một người dùng tên WR8TH đã kết bạn với Suzanne trong phòng trò chuyện. WR8TH tự giới thiệu là một cậu bé mười sáu tuổi và trở thành bạn tâm giao của cô ấy. Hóa ra hắn đã khuyến khích cô ấy bỏ nhà và giúp cô ấy che giấu hành tung.”
“FBI có tiến triển gì không?”
“Không, WR8TH lại đi vào ngõ cụt. FBI đã công khai chuyện đó, như anh biết, nhưng không đạt được gì.”
“Tôi không ngạc nhiên.” Vaughn nói. “Trò chuyện chuyển tiếp Internet có mục đích là để nặc danh. Không có lịch sử trò chuyện. Một người có thể lựa chọn một tên mới cho mỗi lần đăng nhập. Khi tôi bắt đầu tìm hiểu máy tính, trò chuyện chuyển tiếp là thứ tôi dùng để trao đổi những mẹo, chiến thuật và code. Ai cũng hoang tưởng rằng FBI cài người trong phòng trò chuyện.” “Có đấy.” Abe nói.
“Tôi có khoảng hai mươi cái tên dùng luân phiên. Nếu WR8TH cẩn trọng, thì lần ra hắn gần như là không thể.”
“Và đó chính là điều đã xảy ra. Dù đã có rất nhiều tin chỉ điểm.” Jenn nói. “Không một tin nào dẫn tới người hay những người đứng đằng sau WR8TH. Thật trớ trêu, không phải là FBI không tìm ra được WR8TH trên Internet. Hoàn toàn ngược lại. Hóa ra đó là một cái tên rất phổ biến trên mạng. Có cả trăm biến thể của cái tên này chỉ tính riêng trong trò chơi trực tuyến.”
Jenn nói tiếp về những dự đoán và hồ sơ chung chung của kẻ bắt cóc Suzanne Lombard. Chỉ là dự đoán bởi vì ngoài những cuộc trò chuyện khôi phục được từ máy tính của Suzanne, họ chẳng còn gì ngoài bối cảnh vụ án.
“Họ giả định rằng nghi phạm rất cẩn thận và khoảng từ ba mươi đến năm mươi tuổi. Hắn quá khéo léo, tự tin và kĩ càng nên không thể là tay mơ. Những tội phạm trẻ tuổi thì bốc đồng và ngu xuẩn. Tên này thì kiên nhẫn và ranh ma. Khả năng cao hắn là một tay săn mồi nhiều kinh nghiệm - Suzanne hẳn không phải là con mồi đầu tiên của hắn.”
“Làm sao họ đi tới kết luận đó?”
“Kẻ thủ ác có thể giả dạng một thiếu niên theo cách thuyết phục. Điều đó cho thấy hắn ta cực kì am hiểu và khéo léo trong các tình huống xã hội. Không dễ để lừa một thiếu niên. FBI không nghĩ hắn từng bị bắt bởi vì tội phạm ấu dâm hiếm khi thay đổi phương pháp nếu đã tìm ra một cách có hiệu quả. Để cho chắc, họ đã rà lại những vụ chưa phá để tìm thói quen của hắn, nhưng không thấy gì cả.”
“WR8TH cũng biết cách xử lí máy tính và tránh để lại dấu vết. Nhà hắn nhiều khả năng là một căn nhà biệt lập, cho phép hắn có sự riêng tư. Điều này cho thấy hắn có thể có việc làm và sống một cách bình thường mà không bị nghi ngờ.
“Khi cuộc điều tra bế tắc hai năm sau đó, giả thuyết lớn nhất là kẻ thủ ác không biết Suzanne Lombard thực ra là ai. Không có gì cho thấy cô ấy đã tiết lộ danh tính của mình cho hắn trên mạng và FBI tin rằng hắn đã hoảng loạn khi nhận ra mình đã bắt cóc ai. Rất có khả năng hắn đã giết cô ấy, phi tang thi thể và tìm một đối tượng ít rủi ro hơn.”
Vaughn nhìn cô chằm chằm. Đôi mắt màu xanh lá như thiêu đốt cô.
“Nhà vệ sinh ở đâu?” Anh ta hỏi, đứng lên và rời đi trước khi có người trả lời. Cánh cửa phòng họp đóng lại.
“Cô giỏi thật, Charles.” Hendricks nói và thả cây bút xuống bàn để nhấn mạnh.
“Đi chết đi, Dan. Tôi không biết anh ta lại ủy mị thế.”
Rilling đang bận gõ gì đó trên máy tính. George hắng giọng và họ im lặng. Hendricks bật cười. Cô nhìn sếp, chờ bị khiển trách. Nhưng sếp lại mỉm cười.
“Anh ta quan tâm tới Suzanne còn nhiều hơn là tôi tưởng. Thế là tốt.”
“Vâng, thưa sếp.”
“Nhưng từ giờ hãy nhẹ nhàng thôi.”
Vaughn trở lại nhưng không vào hẳn phòng. Anh đứng ở ngưỡng cửa, chân trong, chân ngoài. Anh vừa vã nước lên mặt và ngực áo bị ướt.
“Nghe này, George.” Anh nói. “Tôi đánh giá cao công việc này, nhưng nếu ông kì vọng tôi thấy gì đó và bảo ông WR8TH là ai thì tôi xin lỗi. Tôi đã không gặp Suzanne một thời gian dài. Tôi ước mình có thể giúp. Tin tôi đi. Nhưng tôi sẽ không thấy được những gì mà FBI đã bỏ qua đâu. Tôi rất tiếc.” Anh nói và trông có vẻ tiếc thật. “Ông có thể lấy lại tiền. Xin lỗi vì đã làm phí thời gian của ông.”
Abe mỉm cười. “Không, Gibson. Chúng tôi không mong đợi điều gì như thế.”
“Vậy thì là gì?”
“Jenn?” Abe nói.
Ánh mắt Vaughn chuyển sang cô.
“WR8TH đã liên lạc.” Cô nói.