V
ào sáng sớm thứ Sáu, Jenn thô lỗ đánh thức Gibson bằng cách bật đèn lên và vỗ tay như chỉ huy quân đội. Anh khá chắc là mình đã khóa cửa.
“5 giờ 28 rồi.” Jenn nói.
Rõ ràng cô vào đây chỉ để nói thế. Cô đi ra và để cửa phòng mở, rồi chắc là đi tìm vịt con để trách cứ, anh đoán thế. Một phút sau, Hendricks xuất hiện và đặt một cốc cà phê lớn lên bàn của anh.
“Chào buổi sáng, người đẹp. Sáu mươi phút nữa sẽ kiểm tra thiết bị và cô ấy muốn rà lại kế hoạch.”
Hai mươi phút sau, phòng nhà nghỉ của Gibson trông như một phòng chỉ huy giá rẻ. Anh đã dựng tấm đệm lên tường và xếp một loạt máy tính xách tay, màn hình và bàn phím thành bình bán nguyệt. Những sợi dây cáp xám đen xoắn lại, giấy ghi chú màu vàng dán lên màn hình, còn bàn phím dùng để giữ thẳng giấy. Trên một số màn hình, các máy quay của Hendricks cứ ba giây lại cập nhật một lần và đang chiếu lại các hình ảnh quay chậm của những con đường xung quanh thư viện. Trên một vài màn hình khác, chương trình mà Margaret Miller đã tử tế cài đặt giúp hiển thị rất nhiều thông tin về những máy tính đăng nhập vào Wi-Fi thư viện.
Chương trình của Gibson không quá phức tạp, nhưng cực kì hiệu quả, dựa vào Wi-Fi của thư viện để làm hầu hết mọi việc cho anh.
Có vô số cổng vào một máy tính. Tất cả những cổng đó dựa vào một bức tường lửa để cho chúng biết có thể tin tưởng ai khi có người dùng muốn vào. Bức tường lửa chỉ là một tay bảo vệ hộp đêm to con, sẽ từ chối những ai không có tên trong danh sách VIP. Tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp cho tới khi chủ hộp đêm, tức người dùng, nhắc bảo vệ và như thế là cho người dùng thẻ VIP. Người dùng này yêu cầu tay bảo vệ mở dải băng nhung ra để họ vào hộp đêm, không hỏi gì thêm. Đó là những gì xảy ra bất cứ khi nào người dùng mở một trang web, nhấn vào một đường dẫn trong thư điện tử hay chạy một chương trình. Hay đăng nhập vào một mạng Wi-Fi.
Để người dùng sử dụng được Wi-Fi, tay bảo vệ phải tin tưởng và mở ra một cổng cho người đó. Ngay khi có sự tin tưởng, bất cứ thứ gì người dùng gửi qua cổng cũng được tin tưởng. Đó là bởi mạng của thư viện có tường lửa riêng và hầu hết người dùng dựa vào cài đặt mặc định và cài đặt mặc định có khuynh hướng tin tưởng quá mức trong các vấn đề liên quan đến Wi-Fi. Nói chung như vậy là tệ. Rất tệ trong trường hợp này, bởi chương trình của Gibson đã ở bên trong tường lửa của thư viện rồi.
Như vậy, chương trình của Gibson sẽ cho phép anh lang thang không bị ai kiểm soát và thu thập thông tin từ hầu hết các máy tính đăng nhập vào Wi-Fi của thư viện. Tùy thuộc vào cài đặt an ninh của từng máy tính, anh có thể thu thập được tên tuổi, địa chỉ, liên lạc, số di động, số thẻ tín dụng và các địa chỉ IP đầu ra - tất cả chỉ trong vài giây.
Ngoài ra, bằng cách khai thác các điểm kết nối Wi-Fi rải rác trong thư viện, anh có thể ít nhiều khoanh vùng vị trí người dùng. Thật không may, không có đủ điểm kết nối để lập được một bản đồ thật kĩ lưỡng, nhưng anh có thể biết có bao nhiêu người dùng ở mỗi tầng của thư viện, bao nhiêu người ở công viên phía Tây và liệu có ai đó đang ở bên kia đường trong vùng phủ sóng không.
Khi anh đứng lên để tới chỗ Jenn vào lúc 6 giờ 30 sáng, một màn hình của anh lóe lên một cảnh báo. Nó cho thấy duy nhất một truy cập từ công viên. Ngay lập tức, dữ liệu cá nhân từ thiết bị bắt đầu tràn về một màn hình khác: Lisa Davis… mã vùng 814… địa chỉ nhà… địa chỉ nơi làm việc… thư điện tử… các liên hệ… lịch sử trình duyệt. Anh mỉm cười và quay sang những máy quay trong công viên. Không có ai dùng máy tính xách tay. Người duy nhất trong công viên là một phụ nữ có thai đang đẩy xe nôi.
Có lẽ là di động của cô ta kết nối tự động với mạng của thư viện. Để chắc chắn, anh gọi cho số của cô ta. Trên màn hình, anh nhìn cô ta lấy điện thoại ra, thấy số lạ và để anh kết nối với thư thoại.
Quả nhiên, một người đi ngang qua kết nối vài giây rồi ra khỏi vùng phủ sóng. Bản đồ của anh kêu bíp một cái rồi tắt ngay.
Gibson nhíu mày. Những chiếc điện thoại thông minh sẽ khiến mọi chuyện rất phiền phức. Vấn đề đó quá rõ ràng đến mức anh tự thấy mình ngu vì đã không lường trước được. Thời đại đã thay đổi kể từ hồi anh bị bắt và anh cần phải bắt kịp thật nhanh. Anh mừng vì cả Jenn và Hendricks đều không có ở đây để cằn nhằn.
Anh nghĩ kĩ các phương án rồi chỉnh phần mềm để cho kết nối di động vào mục phụ. Mục tiêu của anh không phải là điện thoại nhưng anh vẫn thu thập dữ liệu để kiểm tra sau. Nếu đến mức phải làm thế. Những ngón tay anh lướt trên bàn phím. Anh viết chữ xấu nhưng lại có thể gõ tới tám mươi từ một phút. Anh nhấn nút “Tải lại” và nhìn tín hiệu di động trong công viên biến mất. Mọi việc sẽ rõ ràng hơn một chút.
Nhưng chỉ một chút. Người dân Somerset rõ ràng rất thích thú với thời tiết mát mẻ trái mùa này. Sau nhiều tuần những ngày hơn 26 độ, một ngày khoảng hơn 21 độ giống như món quà trời ban. Tới giờ ăn trưa, trung tâm Somerset không còn giống với thị trấn ma đã chào đón họ hôm Chủ nhật nữa. Công viên cạnh thư viện đầy các bà mẹ và con cái họ, những người đi làm đang nghỉ ăn trưa và những người ra ngoài để tận hưởng ánh nắng. Một nhóm nữ sinh cấp ba đã trải khăn ra bãi cỏ nằm phơi nắng và điều đó thu hút những chàng trai cởi trần chơi ném đĩa. Một chiếc xe bán kem dựng quầy hàng bên góc đường và bán rất đắt hàng kem que cùng ốc quế. Khi buổi chiều trôi đi, đám đông không giải tán mà còn đông đúc thêm bởi những người trốn việc và nghỉ cuối tuần sớm.
“Chúng ta làm được tới đâu rồi?” giọng Jenn hỏi qua tai nghe của anh.
Mắt anh đảo qua máy quay hướng vào công viên. Jenn đang ngồi một mình trên một chiếc ghế đá và có thể quan sát cả khu vực. Trong bức ảnh hồ sơ, cô mặc vest và thả tóc. Nhưng hôm nay, cô lại mặc quần áo tập thể dục - tóc buộc đuôi ngựa gọn gàng, mũ bóng chày và cặp kính râm quá khổ che khuôn mặt. Cô uống một ngụm từ chai nước như thể đang thư giãn sau cuộc chạy bộ. Qua những bộ vest lịch sự anh hay thấy Jenn mặc, anh nghĩ cô là một người ám ảnh với máy chạy bộ và có mục tiêu tập cho người thon gọn. Nhưng chiếc áo ba lỗ và quần đùi khiến anh nhận ra mình đã nhầm. Cô là một vận động viên và có dáng cực chuẩn. Nhưng anh biết thể hình chuẩn mực của cô có tính chất thực tế: đôi vai và bắp đùi cứng cáp của cô cho thấy sức mạnh dồi dào, đáng sợ.
“Đẹp đấy.” Anh nói.
Cô liếc về phía máy quay, nhưng anh không thể nhìn ra được biểu cảm của cô qua cặp kính râm và chiếc mũ.
“Chắc anh đang nói đến thời tiết.” Cô nói.
“Còn gì nữa?”
“À. Hendricks, tình hình sao rồi?”
Hendricks chốt trong chiếc Cherokee cách thư viện một dãy nhà, nơi ông ta có thể quan sát rõ ràng khắp con đường trước thư viện.
“Có vài người đi bộ vào thư viện và công viên, nhưng không nhiều. Tôi đếm được năm, có thể là sáu người, khớp với các đặc điểm trong hồ sơ, đang ở trong thư viện. Bảy người nữa thì không.”
“Tôi thấy sáu người trong công viên. Gibson, chúng ta có bỏ sót ai không?”
“Không, cũng khớp với những gì tôi thấy. Lượng truy cập máy tính ổn định và tôi không thấy có gì đáng ngờ từ máy theo dõi.”
“Ở ACG vẫn bình yên chứ?” Cô hỏi.
Thật không may, quá bình yên. Màn hình biểu thị lưu lượng đi và đến trên mạng của ACG không cho thấy điều gì khác thường. Dù anh có lườm nó bao nhiêu thì xem ra nó vẫn quyết tâm hoạt động bình thường. Điều đó khiến anh lo lắng rằng có thể họ đã bị lộ mà không biết.
Liệu họ có đang đợi một người sẽ không bao giờ xuất hiện và thật ra đang cách cả ngàn dặm, chạy trối chết? Hay sẽ ra sao nếu hắn chỉ đang nghỉ xả hơi một tuần? Gibson cố gắng tưởng tượng việc đợi tới tận thứ Sáu tuần sau mới biết được. Rồi thứ Sáu tuần sau nữa và tuần sau nữa nữa. Kí ức về Suzanne đè nặng lên anh mỗi ngày, và bắt đầu làm anh mệt mỏi. Hendricks đã nói rằng đợt theo dõi dài nhất của ông ta kéo dài bảy tuần. Gibson cầu trời họ không phải làm lâu đến thế.
“Gibson. Ở ACG vẫn bình yên chứ?” Jenn hỏi lại.
“Cho tới giờ vẫn chưa có gì.” Anh nói.
“Được rồi, nước tiếp theo là của hắn.”
Dù họ tập trung vào những người đàn ông khớp với hồ sơ của FBI, các máy quay của họ đã chụp ảnh của tất cả mọi người, cả nam lẫn nữ, trong phạm vi một trăm mét. Jenn đã giải thích cách tiếp cận với anh trong cuộc gặp buổi sáng. Cô nàng quả là rất thích họp hành.
“Khả năng rất cao rằng hồ sơ đúng. Hồ sơ không phải là linh cảm. Đó là thống kê và những con số cho biết kẻ bắt cóc Suzanne có khả năng là nam giới da trắng hiện khoảng bốn mươi, năm mươi tuổi.”
“Nhưng…” Anh nói.
“Nhưng luôn có những ngoại lệ. Có thể đó là một phụ nữ đang muốn thay thế cho đứa con đã mất, hay ai đó già hơn hoặc trẻ hơn chúng ta thường thấy ở những vụ thế này.
Một người da màu săn lùng những người khác chủng tộc với mình. Một tên khủng bố hay một kẻ bắt cóc có động cơ chính trị. Sự thật là FBI không có cách nào để loại bỏ những khả năng đó và chúng ta cũng thế.”
“Trông đợi một kết quả cụ thể nhưng vẫn xem xét mọi khả năng?”
“Trông đợi một kết quả cụ thể. Xem xét mọi khả năng?”
Anh ở cả buổi chiều trong phòng, xem lại các đoạn băng để cắt ra các bức ảnh chụp mặt rõ ràng và khi thấy hợp, anh so sánh chúng với thông tin cá nhân tổng hợp từ các máy tính đăng nhập vào mạng Wi-Fi thư viện. Mỗi giờ, anh lại chuyển tất cả các bức ảnh mới và dữ liệu cá nhân cho ACG - nhưng không trực tiếp.
Sợ rằng WR8TH đã xâm nhập vào máy chủ của ACG, Gibson và Mike Rilling đã lập máy chủ độc lập để nhận tất cả các thông tin liên lạc và dữ liệu liên quan tới vụ này. Rilling đang cho các bức ảnh vào phần mềm nhận diện khuôn mặt được kết nối với bộ dữ liệu của nhà nước, nhận diện các bức ảnh và hi vọng may mắn có được một hồ sơ tội phạm. Nếu có được một đầu mối trong Hồ sơ Tội phạm Tình dục Quốc gia thì sẽ là trúng số.
Gibson tắt tiếng ti vi và sau khi đã xem các điểm tin trong chương trình thể thao ba lần, anh chuyển qua kênh tin tức. Chiến dịch của Benjamin Lombard vẫn đang đối đầu với Thống đốc Fleming. Lombard đã tuyển một người điều hành chiến dịch mới và có thành tích đáng ngạc nhiên ở California, sân nhà của Fleming. Các chuyên gia thảo luận những điểm mạnh và yếu của chiến lược mới, hiếu chiến hơn này của ông ta. Ngài phó tổng thống sẽ tới New England rồi phát biểu tại Boston sáng nay. Dự đoán là sẽ rất nhiều người tới.
Gibson tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ thực sự tìm thấy Suzanne. Sẽ có biến động gì với chiến dịch của Lombard? Dân Mỹ đều khoái một câu chuyện hay và cảnh tượng một gia đình đoàn tụ sẽ hấp dẫn họ. Liệu điều đó có giúp Lombard chiến thắng? Anh không chắc mình có thể chịu nổi sự trớ trêu khi trở thành cứu tinh của Benjamin Lombard.
“Tôi cần một tách cà phê.” Hendricks lầm bầm khó chịu. “Đừng ai nói gì với tôi trừ khi nhìn thấy một gã mặc áo phông với dòng chữ ‘Ta đã bắt cóc Suzanne Lombard’.”
Năm phút sau, may mắn đã xuất hiện trong hình dạng một người đàn ông cao gầy, gù lưng và có một làn da trông như sáp nến chảy. Gã Người Sáp ngồi xuống một chiếc bàn làm việc, cởi ba lô ra và đặt nó lên bàn. Rồi gã bắt đầu nhìn chằm chằm lũ nhóc đang chơi gần đài phun nước như một du khách đang chọn tôm hùm trong bể. Trông gã có gì đó sai sai.
“Cô nhìn thấy gã đó chứ?” Gibson hỏi.
“Có, tôi đã để ý tới gã. Gã khiến tôi nổi da gà từ xa kìa. Gã có máy tính xách tay không?” Jenn hỏi.
“Không. Hắn chỉ ngồi đó như thể đang tạo dáng cho áp phích quảng cáo tuyển dụng của NAMBLA50.”
50 North American Man/Boy Love Association: tổ chức tư vấn về ấu dâm và loạn dâm ở Mỹ.
Chẳng hiểu sao, gã Người Sáp mở khóa ba lô và lấy ra một cái máy tính xách tay màu bạc.
“Hình như hắn làm theo yêu cầu của chúng ta.” Gibson nói. “Có ngay máy tính xách tay. Để xem gã có biết bài nào của nhóm Radiohead51 không.”
51 Radiohead là một ban nhạc rock Anh quốc, nổi tiếng từ cuối thập niên 1980.
Người sáp bắt đầu gõ và Gibson thấy một thiết bị kết nối vào Wi-Fi. Lát sau, chương trình của anh bắt đầu đưa về những thông tin tương ứng từ cái máy tính xách tay.
“Anh có gì rồi, Gibson?” Jenn hỏi.
“Hãy gặp James MacArthur Bradley đi. Tôi có địa chỉ nhà và số di động của gã.”
“Tốt. Chuyển tất cả về Washington. Để xem Ngài Bradley có tiền án không.” Cô nói.
Họ theo dõi Bradley trong mười phút căng thẳng, ngầm giục gã làm gì đó. Thỉnh thoảng, Người Sáp ngừng gõ và nhìn lên qua chiếc máy tính về phía những đứa trẻ trên bãi cỏ rồi liếm môi.
“Gã đang làm gì vậy?” Hendricks hỏi.
“Ngoài chuyện khiến tôi nổi da gà ư? Không có gì nhiều,” Jenn nói.
“Tôi đồng tình.”
“Chuyện gã là một kẻ quái dị sẽ không quan trọng nếu gã không truy cập vào ACG.” Hendricks nói.
“Tôi ước mình có tin tốt, nhưng chẳng có gì vui cả.” Gibson nói.
Người sáp bỗng đóng chiếc máy tính xách tay lại, nhét nó vào ba lô và vội vã bước ra đường.
“Gã đi đâu vậy?” Jenn hỏi. “Chúng ta có làm gã sợ à?”
“Tôi không nghĩ thế.” Cô nói. “Hendricks, gã sẽ đi qua góc đường tới chỗ anh trong ba, hai, một…”
Hendricks xác nhận. “Thấy rồi. A, tôi hiểu ý cô rồi. Gã đó có vẻ không bình thường. Gã đang vào một chiếc Ford đời mới. Khởi động. Và gã đi rồi.”
“Khốn nạn.” Jenn nói.
“Tôi đã có đời xe và biển số.” Hendricks nói. “Nhưng nếu đó là gã chúng ta đang tìm, thì chúng ta vừa mới bị nhận ra.”
“Và nếu không phải?” Gibson hỏi.
“Vậy thì tôi đoán là gã phải đi đâu đấy.”
“Chúng ta có đi theo không?”
“Không.” Jenn chen vào. “Chúng ta chẳng thể làm gì. Chúng ta tiếp tục theo dõi và giả định rằng gã không phải là người mình cần. Chúng ta có đủ dữ liệu để tiếp tục nếu muốn.”
Sau đó, ba người bọn họ tiếp tục công việc chờ đợi chuyên nghiệp, hay nói cách khác là chán đến cực độ. Tới 4 giờ, công viên vẫn đông đúc nhưng khá tĩnh lặng. Không có ai sử dụng thiết bị có Wi-Fi đến và đi trong ba mươi phút. Gibson đang theo dõi mười bốn người dùng đăng nhập vào Wi-Fi thư viện. Chín người bên ngoài và năm người bên trong. Bên ngoài, anh có bốn máy tính bảng hoặc e-reader52. Hai người phụ nữ da trắng, một người đàn ông da trắng ngoài hai mươi tuổi và một người đàn ông Mỹ gốc Phi tóc bạc ít nhất đã phải tám mươi tuổi. Điều đó đồng nghĩa bên ngoài còn lại năm người có máy tính xách tay, có giới tính và chủng tộc khác nhau, trong đó có ba người đặc biệt đáng quan tâm.
52 Thiết bị đọc sách điện tử.
Đầu tiên là một đàn ông da trắng hơi thấp nhưng lực lưỡng gần bốn mươi tuổi. Máy tính xác định anh ta là Kirby Tate. Khuôn mặt không có điểm gì nổi bật của anh ta hoàn toàn không hợp với đôi vai và khuôn ngực rộng. Anh ta trông như một người bị photoshop ghép mặt một đứa trẻ lên thân hình người lớn. Trông không được đẹp mắt lắm, nhưng anh ta có vẻ thích thế vì anh ta đang mặc quần đùi bó và một cái áo ba lỗ chật ních. Gibson biết kiểu người này - đã từng phục vụ quân ngũ với kiểu người này - những kẻ mặc áo ba lỗ trong bão tuyết.
Tate ngồi ở một bàn dã ngoại gần đài phun nước và vừa nhìn màn hình máy tính, vừa nhìn các cô gái tắm nắng. Chiếc kính râm không thể che đậy ánh mắt ngưỡng mộ của anh ta với từng chuyển động của các cô gái.
Thứ hai là một người đàn ông Mỹ - Latin ngoài bốn mươi tuổi tên là Daniel Espinosa. Hói đầu, tóc bên thái dương đã điểm bạc. Ông ta phù hợp với độ tuổi của nghi phạm nhưng những kẻ ấu dâm thường có khuynh hướng săn lùng nạn nhân cùng chủng tộc với mình. Điều đó không khiến ông ta bị loại bỏ, nhưng cũng không khiến ông ta trở thành đối tượng tình nghi số một. Ông ta có khuôn mặt thân thiện, cởi mở và đang trò chuyện với cặp đôi ngồi chung bàn với mình.
Người thứ ba là Lawrence Kenney. Gã ngoài năm mươi, mặc chiếc quần ka ki thẳng thớm và cái áo len không tay. Tóc gã vuốt ngược ra giữa, bộ đồ và kiểu tóc của gã quá trau chuốt. Trông gã như một kế toán viên bình thường đang dùng máy tính xách tay, nhưng gã làm Gibson thấy khó chịu. Anh không thể hiểu tại sao. Có lẽ bởi gã kế toán ngồi giữa đám đông nhưng lại có cảm giác xa cách rõ ràng. Một người phụ nữ đẩy xe nôi đi ngang qua gã kế toán và gã sững người. Gã dán mắt vào lưng cô ấy khiến Gibson nổi da gà. Liệu nổi da gà có được coi là điểm nghi vấn53 ở Pennsylvania không?
53 Probable cause: một quy trình, trong đó, lực lượng cảnh sát có lí do để xin lệnh bắt giữ đối với đối tượng tình nghi.
Hi vọng là Rilling có thể tìm ra tên rồi kiểm tra lí lịch của những người này. Cho tới lúc đó, họ sẽ phải dựa vào các ngón nghề cảnh sát và linh tính kiểu cũ.
Jenn và Hendricks chuẩn bị tranh luận và phân loại nhóm đối tượng của họ. Lắng nghe họ, Gibson thấy rõ hai điều. Một, họ biết mình đang nói gì. Hai, anh thì không và anh nhanh chóng không nghe tiếp nữa. Kiến thức của anh về những kẻ phạm tội nhiều lần chủ yếu là từ phim Sự im lặng của bầy cừu54 và tiểu thuyết của Patricia Cornwell55. Điều anh biết là máy tính và người sử dụng chúng. Anh tự hỏi liệu các kĩ thuật được sử dụng để lập hồ sơ những kẻ giết người và hiếp dâm có thể được áp dụng cho những tin tặc hay không. Nếu anh ngoại suy ngược lại từ đặc điểm của vụ tấn công ACG - thì nó sẽ dẫn tới ai?
54 The Silence of the Lambs: một bộ phim hình sự/giật gân của Mỹ, sản xuất năm 1991 dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Thomas Harris.
55 Patricia Cornwell: nhà văn viết truyện trinh thám nổi tiếng ở Mỹ.
Anh nghĩ anh sẽ đặt tiền vào cửa gã kế toán. Đoạn mã của con virus rất gọn gàng, chính xác và đòi hỏi sự tỉ mỉ. Ít ra về mặt quần áo, gã kế toán là khớp nhất. Tuy nhiên, nhận định này không xác đáng. Anh biết nhiều lập trình viên rất nhếch nhác. Anh nhận ra đấy không phải lĩnh vực của mình, từ bỏ giả thuyết đó và tiếp tục với việc lọc những bằng lái mà Mike Rilling đã gửi cho anh từ Washington DC. Trong một tiếng sau đó, anh đã vẽ bản đồ vị trí của những người này theo cách tốt nhất có thể.
Lúc 4 giờ 45, Gibson không buồn ngủ, nhưng cũng không hoàn toàn tỉnh táo. Ngồi xếp bằng trong phòng, anh tựa cằm vào nắm tay và nhìn chằm chằm vào màn hình đang hiển thị dữ liệu máy chủ của ACG. Anh cảm giác như người đợi một chuyến bay đã bị hoãn vĩnh viễn. Vì thế anh phản ứng chậm chạp khi điện thoại rung lên dưới sàn giữa hai đầu gối. Sau tiếng rung thứ ba, anh nhìn xuống điện thoại, thấy tin nhắn và ngay lập tức nhìn lại màn hình. Adrenaline56 chạy rần rật qua người anh. Một thanh màu đỏ xuất hiện với một thông báo. Con virus trong máy chủ của ACG đang nhận những chỉ thị mới.
“Hai người có nhận được tin nhắn không?” Hendricks hỏi.
“Có. Gibson, có chuyện gì vậy?” Giọng Jenn là sự pha trộn giữa phấn khích với bản năng của thú săn mồi.
56 Adrenaline: một chất trong cơ thể người, tiết ra khi ta cảm thấy giận dữ hay lo lắng.
“Con virus đang hoạt động. WR8TH đang nói chuyện với nó.”
“Từ thư viện hả?” Jenn hỏi.
“Chờ chút.” Anh nói, lướt qua lưu lượng Internet của thư viện. Nào, bé cưng. Anh di ngón tay xuống dưới màn hình. Đây rồi. Rõ ràng và đầy tội lỗi. Có người đang dùng Wi-Fi thư viện liên lạc với cái quảng cáo vốn là trạm điều chuyển nặc danh của con virus. Nó không thể nào là trùng hợp và chỉ có một ý nghĩa.
“Tên khốn đó đang ở đây.” Anh nói. Chủ yếu là để anh nghe nhưng anh đang mở mic nên ngay lập tức có tiếng trả lời.
“Ở đâu?” Jenn hỏi.
“Bên ngoài. Trong công viên.” Gibson nói.
Anh nhìn đoạn video quay từ công viên. Gã họ đang tìm ở đó. Kẻ bắt cóc Suzanne Lombard và nhiều khả năng là một kẻ sát nhân, đang ngồi giữa thanh thiên bạch nhật.
“Gã nào?” Jenn đòi câu trả lời.
Anh khớp địa chỉ IP với một máy và đọc qua những ghi chú cho tới khi tìm ra tấm ảnh bằng lái xe. Anh dò cái tên trên màn hình cho tới khi phát hiện ra hắn.
“Tóm được mày rồi.” Gibson mỉm cười.