“Meiji.”
Jenn bật đoạn hộp thư thoại của George cho Hendricks nghe. Họ nhìn nhau. Cô bật lại đoạn hội thoại, lắng nghe những sắc thái trong giọng nói mà cô tưởng mình không nghe thấy năm lần trước đó. Không có biểu cảm nào khác cả, nhưng ý nghĩa của tin nhắn là không thể rõ ràng hơn. Nó có nghĩa là George đang gặp rắc rối, tức là họ cũng thế. Nó có nghĩa là tìm một vị trí an toàn và nằm yên. Đừng cố làm người hùng. Đừng đi tìm ông ấy và đừng tìm cách liên lạc. Hãy đợi cho mọi chuyện ở phía ông ấy êm xuôi.
“Ông nghĩ sao?” Cô hỏi.
“Tôi nghĩ là tôi ghét Pennsylvania.”
“Còn George thì sao?”
“Có lẽ thích nơi này.”
“Hendricks. Chúng ta làm gì đây?”
“Rời khỏi đây thì có gì không hay?”
Ông ta có lí.
Mất cả một ngày và một đêm để họ rửa sạch nhà kho Grafton. Hendricks tẩy và chà rửa căn nhà kho mà họ đã giam Tate. Jenn kiểm tra lại thiết bị của họ, đề phòng vị khách không mời mà tới đã lấy đi không chỉ một khẩu súng.
Những căn nhà kho bỏ trống hiếm khi bị hỏa hoạn, nên họ cần dựng một hiện trường đáng tin. Hiện trường sẽ bị điều tra rất kĩ, trừ khi Sở Cứu hỏa thấy có lí do thích đáng cho vụ cháy. Hendricks lập hiện trường như thể một người vô gia cư đã trú ngụ ở đó và ngu ngốc tìm cách đốt lửa bên trong nhà kho. Khi đã hài lòng, Hendricks đánh lửa que diêm và chứng kiến dự án phóng hỏa kiểu Rube Goldberg77 của ông bốc cháy.
77 Nhà phát minh và vẽ tranh hoạt hình người Mỹ nổi tiếng với các cỗ máy cơ học chính xác, cùng hàng loạt thiết bị rối rắm, chỉ để làm một công việc đơn giản.
Jenn đã ở trong chiếc SUV khi ông ta ngồi vào sau tay lái.
“Tôi đã từng thích những ngày thứ Sáu.” Ông ta nói.
Phải mất một phút cô mới nghĩ ra. “Hôm nay là thứ Sáu à? Một tuần lễ khốn kiếp.”
“Có gì thêm từ George không?”
Cô lắc đầu.
“Khốn nạn.”
“Còn chuyện này nữa. Ông sẽ không thích đâu.”
“Chuyện gì?”
“Điện thoại ở ACG đều đã mất kết nối.” Cô nói.
“Jenn… Trên nguyên tắc, điều đó là không thể.”
“Tôi biết.”
“Đợi đã. Tất cả các điện thoại sao?”
“Tất cả.”
“Cả đường dây trực tiếp của chúng ta?”
“Tất cả.”
“Tôi không thích chuyện này.”
“Tôi đã nói với ông rồi mà.”
Hendricks ngồi im lặng, cố tiêu hóa những ẩn ý của chuyện này. Jenn theo dõi ông ta suốt quá trình đó. Họ đã bắt cóc một người đàn ông từ nhà anh ta, tra hỏi anh ta một cách dữ tợn trong một căn nhà kho bỏ hoang, và giờ người đàn ông đó đã chết. Kẻ nổ súng có đủ thời gian để gài bẫy Hendricks bằng chính khẩu súng của ông ta. George Abe đang gặp rắc rối đến mức phải kích hoạt nút hoảng loạn. Ôi! Và lúc nào đấy trong hai mươi bốn giờ qua, tất cả các điện thoại của ACG đều đã mất kết nối.
Họ đang ở trong vùng đất chẳng lành.
Giờ thì mọi chuyện nghiêm trọng hơn rất nhiều, không chỉ là công việc nữa. Hendricks sẽ phải tự mình quyết định và cô sẽ để ông ta làm thế. Cô đã có quyết định của mình.
“Tiếp tục hay bỏ chạy.” Ông ta nói. “Câu hỏi là thế.”
“Phải, đúng vậy.”
“Bỏ chạy có lí đấy.”
“Đồng ý.”
“Tôi hơi già để bỏ chạy rồi.” Ông ta nói. “Tôi sẽ phải mua những đôi giày xấu xí và những chiếc quần soóc mỏng nhỏ xíu. Tôi không phải là loại người thích những thứ vớ vẩn đó.”
“Ông có cặp giò khá thon.”
Họ cùng nhìn ra ngoài cửa sổ.
“Vậy. Giờ đi đâu?” Ông ta hỏi.
“Tới chỗ Gibson Vaughn.”
“Phải, tôi cũng có ý đi tìm anh ta.” Hendricks nói. “Anh ta ở đâu?”
Jenn chỉ cho Hendricks trên bản đồ của cô.
“Sao tôi biết đúng là địa chỉ đó?”
“Ông sẽ không tin tôi nếu tôi nói với ông.”
“Hiện giờ, tôi sẽ tin nếu cô nói với tôi rằng đó là hầm trú ẩn của Hitler78.”
78 Adolf Hitler (1889 - 1945): Quốc trưởng của nước Đức và cũng là người khơi ngòi Chiến tranh thế giới thứ hai.
“Đó là căn nhà cũ bên bờ hồ của Terrance Musgrove.” “Hoàn hảo.” Hendricks nói. “Nhưng để bảo lưu ý kiến,
tôi thích phán đoán của mình hơn.”
“Phải, tôi cũng thế.” Jenn nói.
***
George tỉnh dậy trên một chiếc ghế gỗ, đầu cúi xuống chiếc bàn kim loại thô. Cổ tay ông bị còng vào một thanh kim loại chắc chắn ở giữa bàn. Mặt bàn áp vào mặt ông lạnh ngắt, nhưng ông miễn cưỡng ngồi thẳng lên, và chiếc ghế rung chuyển như thể có người đã vặn ốc nó ra, cố tình làm cho chân ghế lung lay.
Không có gì nhiều trong phòng. Đây là một phòng thẩm vấn tiêu chuẩn khoảng hơn bảy mét vuông, sàn làm bằng bê tông xỉ than. Ánh đèn huỳnh quang lấp lóa khiến đầu George đau nhức, như thể một tay nha sĩ độc ác đang nhổ răng nanh của ông. Cổ họng ông ngạt và khô, còn lưng ông đau nhức và bầm dập. Dựa trên cơn đói hiện giờ, ông biết mình đã ngất đi ít nhất mười hai tiếng, tức là hiện giờ, coi nào? Sáng thứ Sáu rồi?
George nhìn chính mình trong chiếc gương lớn gắn trên tường. Ông vẫn ăn mặc khá chỉnh tề. Xương sườn ông đã không bị gãy khi tới đây. Xin cảm ơn, những vị chủ nhà hào hiệp. Cà vạt của ông nhăn nhúm và ông khó chịu vì không thể vuốt cho nó phẳng ra.
Một cánh cửa mở ra bên trái ông. Một người đàn ông bước vào và ngồi đối diện với George. Anh ta đặt một cái cốc và một bình nước lên bàn. Nước lạnh và hơi nước tỏa ra ở bên cạnh bình.
George nhìn nhanh người đàn ông. Anh ta là kiểu tay chân, gọn ghẽ trong bộ vest may sẵn. Họ nhìn nhau chằm chằm như hai người từng là bạn vô tình gặp lại nhau ở một góc đường. Đây là đoạn mà George lẽ ra phải hét lên căm phẫn, đòi luật sư, đưa ra những đe dọa khoa trương như “các người có biết tôi là ai không?”. Ông khát, nhưng ông không đòi được uống. Ông có nhiều câu hỏi, nhưng gã mặc bộ vest quá rẻ tiền này không thể trả lời những câu hỏi của ông.
“Liệu chúng ta có thể bỏ qua màn dạo đầu không? Titus có đây không?” George hất đầu về phía tấm gương trên tường.
Lần này, cặp lông mày của người đàn ông hơi nhíu lại. George nhìn lên tấm gương.
“Titus. Tất cả những trò dàn cảnh này có cần không?”
Cặp mắt người đàn ông chuyển xuống chiếc bàn, lắng nghe chỉ thị trong tai nghe. Anh ta đứng lên và rời phòng không nói một lời.
George chờ đợi.
Cánh cửa mở ra. Một người đàn ông thấp và vạm vỡ bước vào. Ông ta chỉ hơn George vài tuổi, nhưng những năm tháng đó đã là khoảng thời gian lăn lộn ở những nơi nhọc nhằn nhất trên Trái Đất. Mặt trời và hóa chất đã làm da ông ta sạm đen. Người đàn ông có khuôn mặt như một cuộn dây thép, những đường rãnh ăn sâu vào khuôn mặt đó dưới một mái đầu lưa thưa tóc màu tro. Một vết sẹo hằn rõ, chạy từ tai trái xuống hàm và biến mất dưới cổ áo ông ta. Một kỉ niệm từ Tikrit79. Tay trái ông ta đã mất ngón út và ngón đeo nhẫn. Người ta kể những câu chuyện khác nhau về việc ông ta đã bị bắn bao nhiêu lần, và George tin rằng Titus thích nghe kể như vậy. Đại tá Titus Stonewall Eskridge Jr., người sáng lập và giám đốc điều hành của Cold Harbor, vốn làm trong ngành kinh doanh tạo ra huyền thoại đây mà.
79 Tikrit: một thành phố ở Iraq.
“George.” Titus ngồi xuống một cái ghế trống gần đó.
“Titus.”
Họ tôn trọng nhau. Những mối liên hệ của Eskridge với Lombard là từ nhiều thập niên trước. George từ đó đã không thích ông ta, và những điều ông nghe được sau đó không khiến ông đổi ý.
Cold Harbor là một nhà thầu quân sự tư nhân quy mô trung bình, đóng ở phía đông Mechanicsville, Virginia. Chỗ đó nổi tiếng bởi một trận chiến một chiều đặc biệt bẩn thỉu thời Nội chiến đã gây ra thương vong khủng khiếp cho lực lượng của Ulysses S. Grant80. Không bao giờ có thể cạnh tranh với những tay chơi lớn trong các hợp đồng quan trọng, nhưng Cold Harbor vẫn làm ăn tốt nhờ gây dựng danh tiếng là một hãng sẽ làm được việc - bất cứ việc gì.
80 Ulysses S. Grant (1822 - 1885): Tổng thống Hoa Kỳ. Ông từng là vị tướng chủ chốt của Quân đội Liên bang Miền Bắc trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.
Đôi khi sự tàn nhẫn chiến thắng quy mô.
Titus mỉm cười. “Được rồi, tôi phải biết. Làm sao anh biết tôi đã trở lại đây? Anh làm người của tôi hoảng sợ, Obi-Wan81. Có phải là một trong những cậu bé của tôi không? Phải chăng bọn nó đã nói khi lẽ ra phải lắng nghe?”
81 Một nhân vật trong bộ phim Chiến tranh Giữa Các vị sao. Nhân vật này được xây dựng dựa trên hình tượng một tướng quân Nhật Bản. George Abe lại là người Mỹ gốc Nhật.
“Không.” George đáp. “Chỉ là may mà đoán trúng thôi.”
“Phép lịch sự của tôi đâu rồi? Anh hẳn phải khát lắm.” Titus nói và rót một cốc nước. Ông ta đẩy nó tới gần ngón tay George. “Có phải là một trong những cậu nhóc của tôi không?”
“Không. Thật đáng ngạc nhiên, chỉ là tôi không có nhiều kẻ thù lắm.”
“Tôi không phải kẻ thù của anh.” Titus nói.
“Từng không phải.” George sửa lại.
“Từng không phải.”
“Ai là người đóng góp lớn nhất cho các chiến dịch của Lombard ở Thượng viện?”
Titus không trả lời.
“Ai đã trao cho Cold Harbor những hợp đồng quốc phòng thay vì các nhà thầu quốc phòng tư nhân lớn như Blackwater và KBR? Có phải chuyện gì khó hiểu đâu. Nếu Lombard cần người làm chuyện chân tay, thì ông ta còn có thể gọi ai?”
“Ông đoán rằng vì thế tôi có mặt ở đây sao.” Titus nở nụ cười nhã nhặn kiểu bạn bè cũ. Chỉ như những người bạn cũ chuyện vãn với nhau. “Không tồi, George. Anh đã luôn là người sắc sảo. Không thực tế lắm, nhưng sắc sảo. Anh đã khiến một cậu nhóc của tôi phải vào viện.”
“Tôi tưởng mình đã đánh trượt.”
“Không, cậu ấy sẽ phải nói chuyện nghe rất buồn cười một thời gian dài. Anh đã không để mất phong độ dù ngồi sau bàn giấy.”
“Anh rộng lượng đấy, nhưng bởi chỉ một người của anh phải nhập viện và tôi đang bị khóa chặt vào cái bàn này, tôi hẳn phải cho rằng phong độ của tôi là đáng ngờ.”
“Tôi ngưỡng mộ một người đàn ông biết thừa nhận thất bại của mình.”
Titus đẩy cốc nước lại gần hơn. George không yêu cầu gỡ còng tay để ông uống nước. Ông cũng không liếm cốc nước như một con chó.
“Anh có nghĩ tới việc Lombard gọi cho anh thay vì FBI có nghĩa gì không?”
“Không quan tâm.” Titus nhún vai. “Gã đó sẽ thành tổng thống.”
“Trong trường hợp đó, anh sẽ kiếm được cả một tài sản lớn.” “Một tài sản lớn nữa.” Titus nói với nụ cười nham nhở. “Khối tài sản lớn đầu tiên đang thấy cô đơn.”
“Ông ta có ở đây không?”
“Phó Tổng thống hả? Với Đặc vụ Cảnh vệ vây quanh sao? Thôi nào.”
“Làm công bộc đôi khi cũng bất tiện.” George nói. “Tôi chưa bao giờ thấy thích.”
“Ông ta muốn gì?”
“Ông ta muốn làm tổng thống. Nhưng ngay lúc này ông ta rất muốn biết ông với Tập đoàn Tư vấn Abe đã làm gì.”
“Ý anh là sao?”
“Đừng.” Titus nói vẻ mệt mỏi. “Đừng chơi trò đó với tôi, George. Ý tôi là chuyện đó tới đâu rồi?”
***
Mike Rilling đã thất nghiệp được mười hai tiếng. Anh, cùng với mọi người ở ACG, đã bị cho thôi việc qua thư điện tử vào lúc 11 giờ tối thứ Năm. Không cảnh báo trước. Không trao đổi trước thôi việc. Không gì cả. Một cuộc thảm sát - cả công ty bị cho nghỉ không báo trước. Các đồng nghiệp của anh đều đã nhận được cùng một thư điện tử có nội dung như nhau, giải thích rằng những khó khăn tài chính không thể lường trước đã buộc ACG phải đóng cửa vĩnh viễn.
Đó là một sự phản bội. Không phải là với công ty - Mike chẳng quan tâm gì tới họ - nhưng là với cá nhân anh. Còn những cuộc nói chuyện như đàn ông với nhau về sự chính trực, về việc làm điều đúng đắn thì sao? Để rồi bị đá đít như thế này sao? Điều đó chỉ chứng tỏ rằng George Abe cũng là một kẻ đạo đức giả tồi tệ như mọi kẻ đạo đức giả.
Điều đó biện minh cho quyết định của Mike, tuồn thông tin cho ngài phó tổng thống. Rốt cuộc, đó là con gái ông ấy. Trong suy nghĩ của Mike, Benjamin Lombard có quyền được biết. Anh không thấy có gì phải bí mật. Tìm ra gã khốn đã bắt con gái ông ấy là chuyện tốt. Ngài phó tổng thống sẽ thấy biết ơn.
Jenn Charles sẽ nổi cáu. Cô ta sẽ phải đợi tới lượt của mình. Anh có đôi điều mà tự anh muốn nói với George Abe.
Sự dữ tợn trong cảm xúc của mình cũng khiến anh ngạc nhiên. Mike sẽ không thừa nhận điều đó, ngay cả với chính anh, nhưng anh vẫn cảm thấy sự biết ơn và trung thành nhất định với George. Anh ngưỡng mộ George. Nên sau bảy tám ly bia, anh đã vượt qua nỗi sợ và gọi cho George, định tâm sự. George đã không trả lời lần đó hay bất cứ lần nào Mike gọi sau đó nữa.
Hèn nhát.
George sẽ không thể thoát dễ dàng như thế. Mike đánh giá cao khoản tiền đền bù, thật hào phóng, nhưng chuyện này không phải là về tiền bạc. Đó là vấn đề nguyên tắc. Anh đã ở đây từ đầu, và người ta không sa thải một người sau bảy năm làm việc như thế, mà không có một lời giải thích nào.
Mike đi thang máy lên tầng của công ty, quyết tâm của anh đang lung lay. Tối hôm qua, anh còn có một bài thuyết giảng như lửa địa ngục được chuẩn bị cho Thánh George Abe, nhưng giờ ý tưởng đối mặt với sếp cũ làm anh lo lắng. George có sự trầm tĩnh không thể lay chuyển gần như mang tính khoa học, điều thường khiến Mike nhanh chóng nao núng.
Mike bước ra khỏi thang máy, vào sảnh của Tập đoàn Tư vấn Abe. Những cánh cửa mở ra và được chẹn lại, điều này thật khác thường.
Quầy lễ tân vắng tanh. Mike dừng lại giữa đường. Không phải vắng tanh vì không có người. Vắng tanh còn vì trống trơn. Mọi thứ đã biến mất: ghế đệm, bàn ghế, đèn, tranh ảnh… mọi thứ. Ngay cả những cây đinh cố định thảm và bảng tên cũng biến mất. Mike đi qua từng phòng nhưng thấy mọi thứ giống hệt nhau. Ngay cả văn phòng của George cũng trơ trụi. Thật không thể tin được. Anh ra về tối hôm qua lúc 7 giờ tối và mọi thứ còn bình thường. Và giờ Tập đoàn Tư vấn Abe, như thể một đoàn du mục, đã nhổ trại và rời đi trong đêm, không để lại dấu vết gì cho thấy họ từng ở đó.
Điện thoại di động của Mike reo lên. Anh kiểm tra số nhưng không có số hiện ra. Không phải là số bị chặn, mà đơn giản là màn hình trống trơn. Những cuộc gọi này khiến anh hơi sợ. Như thể chúng chẳng tới từ đâu. Một giọng quen thuộc ở bên kia đầu dây, cứng rắn và lạnh lẽo.
“Tôi không biết.” Mike nói. “Tôi không biết. Đi mất rồi… Phải, tôi đang đứng ngay đây. Nơi này hoàn toàn trống vắng… Tôi không biết! Tôi có thể nói gì đây? Ông ấy có tâm sự với tôi đâu.”
Đầu dây bên kia im lặng. Khi giọng nói đó trở lại, nó rổn rảng những chỉ thị. Mike gác máy và nhận ra anh đang đổ mồ hôi. Anh sợ không dám nói không và không chắc điều gì sẽ xảy ra nếu anh từ chối.
Anh ước gì George ở đây để nói cho anh biết phải làm gì.