G
ibson ngủ tới tận khi ánh mặt trời buổi sáng lan ra khắp sàn nhà và tìm tới đôi mắt anh. Anh lăn người dậy, ngồi lên ghế đệm. Billy ở trên lầu, trong một phòng ngủ nào đó. Họ đã nói chuyện với nhau nhưng không thể đưa ra kết luận nào và chấm dứt buổi tối ở đó. Điện thoại của anh cho biết đã hơn 10 giờ. Lần gần nhất anh dậy muộn như thế là khi nào? Trên một chiếc ghế đệm. Nhưng sau bốn ngày ngồi trên ghế xe hơi, một cái ghế đệm cũ cũng quá tốt rồi.
Không có gì để nghi ngờ câu chuyện của Billy. Ít ra là cho đến lúc này.
Billy đã không đùa khi anh nói căn phòng gác mái là một đền thờ của gia đình Terrance Musgrove. Anh ta đã cho Gibson xem tối qua. Những hàng dài hộp chồng chất lên nhau dựa vào tường, mỗi chiếc hộp được dán nhãn - “Ảnh trong phòng khách”, “Phòng làm việc 1”, “Phòng làm việc 2”, “Kệ đồ phòng tắm lớn”, v.v. Như thể nhà Musgrove sẽ trở lại và cần dùng lại dầu gội của họ.
Billy đã đi thẳng tới một dãy hộp dán nhãn “Phòng của Ginny”.
“Suzanne đã ở trong phòng của Ginny. Trong phòng vẫn đầy đồ đạc của cô bé, nên tôi nghĩ cô ấy sẽ cảm thấy thoải mái hơn. Tôi nghĩ cô ấy có hơi sợ một chút khi ngủ trên giường của một cô gái đã chết, nhưng cô ấy nói cô ấy không thấy phiền.”
Billy đã đào xới trong chiếc hộp, lôi ra cái ba lô Hello Kitty màu hồng và đưa nó cho anh.
“Anh đùa tôi à?” Gibson hỏi.
“Đã nói tôi có thứ cho anh xem mà.”
“Em gái của Musgrove không để ý sao?”
“Để ý một cái ba lô của con gái trong phòng ngủ của một cô gái ư? Không. Đây là nơi che giấu tốt nhất.”
“Và nó cứ nằm ở đây suốt thời gian đó?”
“Hãy nói tôi nghe xem còn chỗ nào tốt hơn cho một gã độc thân ngoài hai mươi tuổi giấu ba lô của một cô gái mười bốn tuổi?”
Họ mang nó xuống lầu. Billy đứng nhìn Gibson mở nó ra và đặt mọi thứ lên bàn uống cà phê - hộp phấn, lược chải tóc, một hộp nữ trang, một chiếc iPod82 đời cũ, tai nghe, vài cái áo phông, đồ lót và quần jean. Phiên bản bìa cứng cuốn Hiệp hội nhẫn thần mà Gibson đã đọc cho cô nghe bao năm về trước. Và một chiếc mũ bóng chày mòn vẹt của đội Philadelphia Phillies.
82 iPod: dòng máy nghe nhạc và máy tính đa chức năng bỏ túi của Apple.
Gibson phủi hết cơn buồn ngủ khỏi mặt anh và với tay lấy chiếc mũ, cầm nó lên một cách nhẹ nhàng, như thể nó là món đồ gia bảo của một thời đại khác. Còn hơn cả chiếc ba lô, chiếc mũ khiến anh rùng mình. Anh lật nó lên, và có lẽ đã là lần thứ một trăm, nhìn vào dòng chữ viết bằng thứ mực bút lông đen đã mờ. Các chữ cái viết tắt là “S. D. L.” - Suzanne Davis Lombard. Chữ L được viết với nét thanh riêng của Suzanne. Đó là chiếc mũ của cô. Chính là chiếc mũ đấy.
Nó có ý nghĩa gì?
Lúc này đây, trong ánh mặt trời chói chang buổi sáng, anh chợt nghĩ ra điều gì đấy về dòng chữ đó. Thường thì theo thời gian, mồ hôi sẽ làm phai màu dòng chữ trên mũ bóng chày, nhất là dọc theo vùng trán. Nhưng dòng chữ trên chiếc mũ của Gấu nhỏ hầu như nguyên vẹn, bất chấp phần còn lại của nó đã tả tơi. Logo của đội Phillies đã xơ xác và rách bươm. Những đường may đã rã rời xung quanh sáu lỗ xâu và cái cúc trên chóp mũ đã mất. Làm sao có thể gây ra nhiều hư hại như thế cho một chiếc mũ mà không đội nó?
Rồi có bức ảnh chụp bằng phim Polaroid83. Billy đã cho anh xem nó tối hôm qua, nhưng nó nhìn vẫn không thật lắm.
83 Polaroid: một công ty nổi tiếng với dòng máy chụp ảnh và in ảnh tức thời.
Có lẽ chỉ vì anh không muốn nó là thật. Trong bức ảnh, Gấu nhỏ nằm trên chiếc ghế đệm mà Gibson đã ngủ trên đó. Cuộn mình trong một chiếc áo choàng tắm màu xanh nhàu nhĩ, một cuốn sách mở ra ngang bụng cô. Và bụng đã to lên, trong ảnh rõ ràng Gấu nhỏ đã mang bầu. Cô nhìn mệt mỏi nhưng hạnh phúc hơn trong bức ảnh mà Billy đã chụp vào tối cô tới. Gibson thấy khó mà nhìn lâu tấm hình đó. Thấy cô đã mang bầu khiến mọi chuyện trở nên quá thật với anh.
Billy lê bước trong cơn ngái ngủ xuống lầu và đi vào bếp rót một ly nước.
“Tôi sẽ ngủ tiếp.” Billy nói khi quay lại.
“Này. Cho hỏi một câu. Anh có bao giờ thấy Suzanne đội thứ này chưa?”
“Ngoài buổi tối tôi đón cô ấy hả? Không. Chưa bao giờ. Cô ấy không thật sự là kiểu con gái đội mũ bóng chày.”
“Vậy anh có nghĩ tại sao nó lại nhàu nhĩ thế này không?” “À, Suze là vậy mà. Cô ấy ngồi đó và cứ giật những đường chỉ ra như thể đó là công việc của cô ấy vậy. Anh có bao giờ thấy một con chó nhai mấy món đồ nhồi bông chưa? Suze làm thế với cái mũ đó.”
Billy để anh lại một mình với những suy nghĩ của anh.
Gibson nhíu mày. Câu chuyện là gì vậy, Gấu nhỏ? Một cô gái mà theo cha mẹ cô, ghét bóng chày, làm gì với một chiếc mũ Phillies mà cả hai người họ đều thề là không phải của cô?
Giả sử cô mua chiếc mũ trên đường để giấu mặt. Điều đó hợp lí, nếu như nhìn nó như thể chưa được đội lên bao giờ. Nhưng nếu cô chỉ đội nó có mỗi lần đó, tại sao lại bận lòng viết tắt tên mình lên vành mũ? Ta chỉ làm thế với những thứ mà ta sợ sẽ đánh mất.
Billy đã nói gì về đoạn băng an ninh ở trạm xăng? Cách Gấu nhỏ nhìn chằm chằm vào máy quay… phải chăng là một thông điệp khiêu khích gửi đi cho ai đó? Liệu chiếc mũ có là một phần của thông điệp đó? Nó đã khiến Gibson bận lòng lâu tới mức anh đã hi vọng khi nhìn thấy nó, chạm vào nó, anh sẽ nảy ra ý gì đấy. Nhưng giờ với anh vẫn chỉ là trống rỗng.
Với những câu hỏi đó tràn ngập trong đầu óc, anh khó nhọc đứng lên, cầm lấy chiếc mũ và cuốn sách, rồi lên đường tấn công nhà bếp. Không có gì nhiều để lựa chọn, nên anh buộc phải hài lòng với hai hộp quả đào đã cũ. Anh ngồi ở hiên sau nhà với cuốn sách của Gấu nhỏ, hộp trái cây và một cái dĩa. Mặt hồ sóng vỗ bập bềnh sáng hôm đó. Anh ngắm từng đợt sóng vỗ vào bờ, nghĩ tới Gấu nhỏ.
Gấu nhỏ ngồi trên chiếc ghế dài của cô và đọc sách. Cách cô uống trà giống mẹ mình, cầm chiếc cốc bằng cả hai tay, thổi nhẹ khi lơ đãng nhìn ra cửa sổ. Anh đưa cuốn sách lên mũi, hi vọng ngửi mùi giấy có thể kéo anh sâu hơn về thời thơ ấu, nhưng đó chỉ là một cuốn sách cũ. Anh lật qua nó và ăn những quả đào trong hộp.
Từ đầu tới cuối, bên lề sách chật kín những ghi chú đã được viết ra từ khi anh đọc xong cuốn sách đó cho cô nghe. Billy đã cho anh xem những ghi chú bên lề sách đó tối hôm qua. Anh thừa nhận có một tối anh đã say, thề sẽ đọc cuốn sách và những ghi chú của cô từ đầu đến cuối, với hi vọng tìm ra manh mối nào đó về chuyện đã xảy ra với cô. Anh đã bỏ cuộc ở trang năm mươi. Anh đã nói đó chỉ là những ghi chú của trẻ con.
“Vài chỗ gửi cho người ngoài hành tinh và những thứ vớ vẩn. Tôi không hiểu nữa. Quá sâu sắc với tôi.”
Gibson lật lại từ đầu và bắt đầu đọc.
Những ghi chú của Suzanne được viết một cách chính xác, chữ nhỏ xíu, được sắp xếp không theo trật tự nào cả và không có thứ tự thời gian rõ ràng. Theo những gì anh thấy, chúng có thể đã được viết ra trong vài năm - bằng những màu mực khác nhau, với một số đề mục mờ nhạt hơn những đề mục khác. Một vài chỗ thực ra là về câu chuyện Hiệp hội nhẫn thần, nhưng những chỗ đấy cực kì ít ỏi. Phần lớn là những đoạn ngắn lời bài hát, trích dẫn từ trong phim ảnh, danh sách những thứ cô thích và không thích, cùng những nhận xét tản mạn. Đấy là sự mơ màng rạng rỡ sắc màu của một cô bé ở tuổi mới lớn. Anh có thể tưởng tượng được Ellie sẽ làm điều tương tự trong vài năm tới, dù với chữ viết của con bé, nó sẽ cần lề sách lớn hơn nhiều.
Anh đọc chậm rãi một vài trang, rồi trở nên nóng ruột, bắt đầu lật nhanh qua các trang, dõi mắt tìm xem có thứ gì quan trọng không. Anh lật mười trang một, rồi hai mươi. Cho tới khi nó chỉ còn là một vùng mờ nhạt màu mực: xanh, hồng, xanh lá, đỏ. Anh dừng lại.
Màu cam.
Nó khiến anh nhớ lại một điều làm anh giật thót. Điều mà Gấu nhỏ đã yêu cầu anh từ lâu lắm rồi. Anh đang trong nhà bếp ở Pamsrest. Bà Lombard đang làm bánh mì kẹp phô mai nướng cho anh, còn anh đang đọc một quyển truyện tranh. Gấu nhỏ xuất hiện bên cạnh anh, thở không ra hơi.
“Gib-Son. Gib-Son.”
“Ừ hử.” Anh nói lơ đãng.
“Son! Em phải nhờ anh chuyện này.”
Anh thôi đọc và nhìn cô.
“Chuyện gì?”
“Màu anh thích nhất là màu gì?”
Anh nói với cô là màu cam - vì đội Orioles84.
84 The Baltimore Orioles: đội bóng chày của thành phố Baltimore, bang Maryland, Mỹ.
“Được rồi.” Cô nói, mặt nghiêm trọng. “Cam là màu của anh, đúng không?”
Như thể anh lẽ ra phải biết chuyện đó có ý nghĩa gì.
“Phải, được rồi, cam là màu của anh.”
“Đừng quên đấy.” Cô nói như thì thầm.
Lúc đó họ bao nhiêu tuổi? Anh không nhớ nổi. Anh lật trở lại vài trang, cho tới khi anh thấy mực màu cam.
“Sun”. Son. Cam là màu của anh. Anh thấy cảm xúc dâng tràn. Tiếc nuối. Tội lỗi. Nhớ thương. Anh cúi đầu xuống gối và khóc. Chúa ơi, anh nhớ cô.
Trong một tiếng đồng hồ tiếp theo, anh quay lại với cuốn tiểu thuyết và đọc tất cả những đề mục anh tìm thấy được viết bằng mực màu cam. Hầu hết là những suy tư của một cô gái nhỏ.
Sun, anh có thích nước ép nho không? Em thì thích.
Sun, em ước mọi người về nhà hết nhưng anh thì ở lại.
Sun, dạy em ợ đi.
Họ cứ nói chuyện mãi như thế. Có chuyện lí thú. Có chuyện buồn bã. Nhưng rồi, chìm đắm vào trong cuốn sách, anh tìm thấy một ghi chú khác từ những chỗ khác cho anh - dài hơn và với thứ chữ viết cứng cáp hơn.
Sun, hôm nay là đám tang. Em rất buồn. Em mong là anh ổn. Họ không cho em đi. Em muốn ở đó với anh. Chúng ta vẫn là bạn chứ. Em hiểu nếu chúng ta không thể là bạn nữa nhưng em nhớ anh. (389)
Gần như kinh sợ, anh lật tới trang 389. Lề sách trống trơn trừ một dòng ghi chú được viết bằng hai màu mực cam, và nếu anh không lầm, cách nhau phải vài năm. Dòng thứ nhất viết:
Sun, xin lỗi vì em đã làm hỏng trận đấu. Anh có giận em không?
Rồi, bằng màu mực khác, được viết sau đó bao lâu thì chỉ Chúa mới biết:
Em lẽ ra phải nói với anh sau trận đấu. Em lẽ ra phải nói với anh cả trăm lần. Em thật giận anh quá vì anh không thấy. Em xin lỗi. Em ước em có thể nói điều đó với anh bây giờ. Ở đây có một hồ nước. Không đẹp như ở Pamsrest, nhưng ta vẫn có thể tới ngồi bên bờ nước và em có thể kể cho anh mọi chuyện. Em còn muốn nhiều hơn mọi chuyện. Em ước gì anh đã không đi xa. Em hi vọng anh không trách em.
Anh gấp cuốn sách lại. Trách cô ấy chuyện gì chứ? Kí ức tràn về từ trong sâu thẳm, cái xương sống ngoằn ngoèo, gớm ghiếc của nó tràn ra trên bề mặt trước khi nó nhấn chìm anh. Anh khép mắt lại, sợ sẽ lại phải lôi kéo nó trở về, nhưng anh biết mình phải làm thế.
Trận đấu. Có chuyện gì nhỉ? Cha anh đã dẫn anh đi xem hàng trăm trận đấu. Gấu nhỏ có lần nào đi với họ không? Có lẽ? Trí nhớ của anh thật chập chờn. Điều duy nhất anh nhớ là Gấu nhỏ đã rất quấy suốt cả ngày hôm đó, không giống cô chút nào. Không, còn hơn thế nữa. Kí ức lại tràn về, những đôi mắt không thương xót và mở trừng. Chúng nhìn anh chằm chằm, thách anh dám chớp mắt.
Đó là một ngày đi xem đội Orioles. Anh không nhớ nổi họ gặp đối thủ nào. Đội Red Sox? Có vẻ đúng thế. Ban đầu chỉ có anh và cha anh, nhưng ngài thượng nghị sĩ cao hứng, đòi đi theo cùng Gấu nhỏ. Vợ của Lombard không có nhà, nên chỉ có hai ông bố và hai đứa nhóc của họ tới xem trận bóng chày… với một vệ sĩ đi theo, giữ khoảng cách kín đáo. Nửa là vui chơi gia đình, nửa là sân khấu chính trị. Nhưng rồi Gấu nhỏ rất quấy trên sân bóng và họ bỏ lỡ phần lớn trận đấu.
Không, không phải thế. Mọi chuyện đã bắt đầu sớm hơn.
Khi Gibson thực sự nghĩ tới điều đó, Gấu nhỏ đã tỏ ra khó ở một thời gian. Rất quấy. Và cô là một cơn ác mộng khi họ trên đường về lại Baltimore. Bực tức với tất cả bọn họ. Đá vào lưng ghế hành khách phía trên. Nhìn đầy giận dữ bất cứ ai quay mặt về hướng cô. Không hề giống chút nào với cô gái vui tính mà anh đã lớn lên cùng. Cô không trả lời anh khi anh hỏi cô có chuyện gì không như ý vậy. Điều đó chưa bao giờ xảy ra. Cha anh, người luôn mang tới nụ cười trên khuôn mặt cô, đã chìm vào im lặng âu sầu.
Gibson nhớ sự thất vọng và quyết tâm cứng đầu của Lombard muốn có một ngày vui vẻ. Cha anh đã đề nghị họ trở về khi đang trên đường, nhưng ngài thượng nghị sĩ không chịu. Chuyến đi trở thành một vở kịch câm của những người giả vờ vui vẻ, và tất cả họ đều cảm thấy sự căng thẳng cực độ, sai trái của việc cố tỏ ra tươi tỉnh.
Tới lúc họ đến sân bóng, không ai còn tâm trạng cho bóng chày nữa. Sân Camden Yards thật nhộn nhịp, nên mãi tới khi họ đã vào chỗ ngồi anh mới nhận ra Gấu nhỏ đang khóc. Lúc đó, anh chỉ thấy cô là một cô bé nhõng nhẽo không nghe lời, nhưng giờ anh thấy rằng cô không chỉ buồn, mà còn sợ hãi nữa.
Em thật bực mình với anh vì anh không thấy.
Anh đã không thấy gì?
Khi họ ngồi vào chỗ, một pha bóng trên sân làm đám đông đứng cả dậy. Gibson, ngồi ở gần lối đi, đã quay sang nhìn, và vào lúc anh nhìn lại, Gấu nhỏ đang thút thít. Cha anh quỳ xuống dỗ dành cô bé, nhưng Gấu nhỏ tránh xa ông, nức nở không nguôi.
Gibson thấy nhộn nhạo khi anh cố nhớ lại điều gì xảy ra tiếp đó.
Lombard chụp lấy con gái ông và lôi cô bé lên chỗ ngã ba khán đài. Ông Duke chỉ đứng đó, nhìn theo họ, mặt ông đanh lại và đầy khó chịu. Điều gì đã xảy ra ở sân bóng chày hôm đó? Anh đã bỏ lỡ điều gì? Tất cả những năm tháng sau đó, Gibson tin rằng cha anh đã tự sát vì bị bắt gặp biển thủ của Lombard. Anh thấy thật nhẹ nhõm khi Calista Dauplaise nói với anh rằng chính Lombard mới làm chuyện đó. Nhưng điều đó nêu ra một câu hỏi khó chịu: Điều gì đã khiến cha anh, ông Duke Vaughn tự sát?
Điện thoại anh rung lên. Anh chụp lấy nó, vui mừng vì tạm quên đi những suy nghĩ lúc này. Anh kiểm tra số trước khi trả lời.
“Xin chào, Jenn.”
“Gibson. Virginia sao rồi?”
“Đẹp lắm. Tuyệt vời! Cô phải tới đây chơi mới được.”
“Tôi cũng nghĩ vậy đấy.”
“A, nhớ tôi rồi hả?”
“Anh hẳn phải bận lắm.”
“Cô cũng thế mà.” Anh nói.
“Chúng ta cần nói chuyện. Anh đã đẩy chúng tôi vào thế khó.”
“Tôi hả? Tôi có làm các vị trở thành đồng phạm trong một vụ bắt cóc và tra tấn một công dân Mỹ không? Vì nếu không, thì các vị đi chết với thế khó của các vị đi.”
“Tate chết rồi, Gibson. Có người đã giết hắn.”
Gibson đặt điện thoại xuống đùi và chửi thề. Tai anh rung lên. Tate đã chết. Đó là tội giết người. Họ có tuyên án tử hình ở Pennsylvania không nhỉ? Anh đưa điện thoại lên tai trở lại.
“Có người giết hắn sao?”
“Phải. Nên như tôi đã nói, chúng ta cần trao đổi.”
“Cô đang nghĩ tới một nhà kho hả?”
“Coi nào, sẽ có thời gian cho chuyện đó. Có lẽ anh đúng. Nhưng không phải lúc này. Bây giờ, chúng ta cần chia sẻ thông tin vì có chuyện gì đó đang xảy ra. Và dù chuyện đó là gì, chúng ta đang ở trong hố sâu rồi.”
“Tôi không biết, Jenn. Một phần trong tôi muốn mặc kệ cô và Hendricks tự tìm hiểu lấy. Để xem cảm giác thế nào.”
“Tôi hiểu điều đó, nhưng chúng tôi đã ở đây rồi. Anh sẽ phải nói chuyện với chúng tôi. Tôi thích một cuộc nói chuyện hòa hoãn hơn.”
“Cô nói ‘ở đây’ là ý gì?”
“Chúng tôi đang ở chỗ của Musgrove. Cuối lối vào nhà. Tôi muốn báo trước cho anh. Chúng tôi không phục kích anh, chúng tôi chỉ muốn nói chuyện.”
Gibson đứng lên. “Tôi không nghĩ đó là ý hay.”
“Ý hay hay không thì chúng tôi cũng vào. Đừng bỏ trốn đấy.” Cô nói rồi gác máy.