G
ibson đã đi về phía Bắc Atlanta được một giờ đồng hồ thì có tin tức trên đài phát thanh là Benjamin Lombard đã chết.
Phản ứng với một vụ nổ súng lúc 4 giờ 43 phút sáng, Đặc vụ Cảnh vệ tìm thấy Benjamin Lombard không còn phản xạ gì trong phòng của ông. Ông được chuyển tới Bệnh viện Đại học Emory, nơi các bác sĩ xác nhận ông đã chết. Một phát đạn duy nhất vào đầu. Mọi dấu vết cho thấy đây là một vụ tự sát, nhưng chưa có tuyên bố chính thức nào được đưa ra. Trong suy nghĩ của Gibson, công lí đã được thực thi.
Không có lời nào đề cập tới đôi giày của phó tổng thống, nhưng Gibson không vì thế mà bớt hoài nghi.
Thật đáng buồn, ít ra là theo bản tin, Grace Lombard đã rời nhà của họ tại Virginia. Một câu chuyện có tính che chở được nhắc lại về bà, trên hành trình của anh - một người mẹ và người vợ tận tụy mà số phận đã phải hai lần đối mặt với tai ương. Tên của Jacqueline Kennedy Onassis100 được nhắc tới khi nói về bà.
100. Vợ của Cựu Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy.
Gibson không quan tâm tới việc Lombard đã chết. Ban đầu cảm giác đó làm anh ngạc nhiên, nhưng anh thấy sự vô tình của mình thật nhẹ nhõm. Rốt cuộc, cái chết của Lombard chẳng sửa chữa được gì và cũng chẳng hàn gắn được gì.
Lái xe về Washington thường mất mười tiếng, nhưng Gibson đi mất có tám. Anh đã đạp ga nhanh, khẩu súng của Billy Casper bọc trong một tấm vải trong hộp để găng tay. Một lời nhắc nhở rằng chuyện này chưa xong. Anh mới biết Billy được vài ngày nhưng đã cảm thấy sợi dây liên hệ. Billy đã nói họ kết nối với nhau qua Suzanne, mà không biết rằng điều đó đúng tới mức nào. Sau tất cả những chuyện này, anh sẽ lái xe trở lại Pennsylvania và lùng sục cho tới khi anh tìm thấy Billy. Bỏ mặc anh ấy nằm đó không ai trông nom sau một trạm xăng bỏ hoang, khiến Gibson thấy thật không an tâm.
Anh gọi cho Nicole và nói cô có thể về nhà. Giọng anh căng thẳng, và khi anh hỏi liệu anh có thể nói chuyện với Ellie không, Nicole nói con bé đang ngủ. Im lặng. Anh muốn lấp đầy khoảng lặng đó, muốn nói với cô những gì anh biết về cha anh. Rằng ông Duke Vaughn đã không tự sát. Đã không bỏ rơi anh. Anh đã không thể rửa sạch tên cha với công luận, nhưng cha anh đã lại là người cha thần tượng của anh. Đó không phải liều thuốc tiên, không khiến anh trở nên toàn vẹn. Cuộc đời không phải kiểu thế. Nhưng nó đã cởi bớt một nút thắt ở gần trái tim anh. Trong vài ngày qua, anh đã có thể lại nghĩ về cha, và dù vẫn nhuộm màu bi thảm, những kí ức về ông lần đầu tiên khiến anh mỉm cười. Nếu không phải là được tái sinh, anh nghĩ, thì ít ra mình đã được khởi động lại.
Khoảnh khắc im lặng trôi qua và Nicole chào tạm biệt, rồi cúp máy mà không đợi anh nói gì lại. Anh tự nhủ phải chăng anh sẽ không bao giờ nói được sự thật cho bất kì ai.
Còn lại một việc phải làm. Vì Gấu nhỏ.
Giao thông đông đúc trên đường vào thủ đô. Anh qua cầu Key và lái xe vào Georgetown theo đường M. Anh mở cửa sổ xe ra. Sinh viên và du khách khiến dòng xe trôi chậm chạp, và khi anh đã băng qua đại lộ Wisconsin, anh rẽ về hướng Bắc vào một khu dân cư giàu có, đằng sau những cửa hiệu và nhà hàng.
Những cánh cổng dẫn vào khu biệt thự Colline đã đóng. Gibson tấp xe vào chỗ loa đón người ở cổng. Giọng một người đàn ông trả lời sau một thời gian đợi khá dài và Gibson nói với anh ta anh là ai. Cánh cửa mở ra và anh lái xe lên căn nhà.
Một người quản gia mặc vest đen mở cửa và chào anh.
“Buổi tối tốt lành, thưa ngài. Tên tôi là Davis. Bà Dauplaise đang đợi ngài.” “Bà ấy đợi tôi sao?”
“Phải. Bà ấy đang đợi… một người trong số quý vị.”
“À, thế thì tôi ở đây rồi.”
“Tôi mời ngài gì đó nhé? Một món đồ uống chẳng hạn?”
Được mời vào và được một tay quản gia mời đồ uống không hẳn là điều Gibson tưởng tượng khi vào đây, nhưng do đã được mời rồi…
“Tôi muốn một chai bia.”
“Rất hay, thưa ngài.”
Davis để anh lại một mình ở sảnh vào đầy những ảnh chân dung, tượng điêu khắc và những tiếng bước chân âm vang biến mất vào hư không. Khu biệt thự Colline thật khổng lồ trong sự tĩnh lặng của nó.
Chờ đợi trên chiếc ghế bành đắt tiền gớm ghiếc, Gibson chỉnh lại khẩu súng của Billy, đang nằm chẳng thoải mái chút nào sau lưng anh. Trên bậc cao nhất của cầu thang cao ở phía cuối sảnh, Catherine Dauplaise ngồi đó theo dõi anh. Đã hơn một tháng từ khi cô bé được giới thiệu với anh ở bữa tiệc sinh nhật của cô, nhưng dường như đã qua mấy kiếp rồi. Catherine đang mặc một chiếc váy màu xanh dương xinh xắn. Tay cô bé đặt trên đầu gối, cằm chống lên nắm tay.
Anh vẫy tay, và một lúc sau, cô bé vẫy lại.
Davis trở lại với chai bia của anh quấn trong một mảnh khăn ăn màu vàng. Thật cầu kì.
“Xin ngài theo tôi, thưa ngài.”
Davis dẫn anh đi qua căn nhà và ra hiên nhà, chỗ Gibson gặp Calista lần đầu. Những cái bàn và căn lều của buổi tiệc sinh nhật đã được dọn đi từ lâu. Khu biệt thự Colline lại trở nên quý phái và mênh mông khi không có những đám lộn xộn ở đó. Đồ nội thất được mạ sắt vươn ra khỏi khu đất, những chậu đất và giàn với vô số các loại hoa. Không hiểu sao, anh thấy nhớ hồ cá chép Nhật. Ở đầu cầu thang, Davis dừng lại và chỉ vào mái vòm ở phía xa của khu vườn.
“Bà Dauplaise vừa ở đây. Tôi xin lỗi, nhưng bà chỉ thị cho tôi đưa ngài tới đây một mình. Nếu đi theo lối mòn, ngài sẽ tới chỗ hàng rào cây xanh.”
“Hãy đưa bà ấy tới đây.”
“Bà ấy sẵn sàng rồi, thưa ngài.”
Tất nhiên là bà ấy đã sẵn sàng. “Con mụ khốn kiếp này.”
“Sao cơ, thưa ngài.”
Giống như phần lớn kiến trúc thế kỷ XIX ở Washington, khu mái vòm được lấy cảm hứng từ sự ám ảnh lúc ban đầu của thành phố với kiến trúc Hy Lạp. Những cột kiến trúc kiểu Doric101 đỡ cho mái vòm cong và hai bên là những cánh cửa nặng nề bằng kim loại. Một bức tường thấp vây quanh tầng hầm ở trung tâm và vài hàng bia đá trắng giống nhau đứng đối xứng dọc theo phía trong.
101 Một phong cách kiến trúc của Hy Lạp cổ đại.
Calista Dauplaise ngồi trên một chiếc ghế kim loại màu xanh lá cây, giữa hai nấm mồ. Một nấm mồ có vẻ cũ hơn, cỏ đã mọc đầy. Một chữ thập trắng đơn giản. Một miếng bia đá cẩm thạch lớn đánh dấu nấm mồ kia, ở trên là cỏ vừa trồng.
Gibson không thấy có chút gì kiêu kì hay ngạo nghễ nơi Calista. Bà ta nhìn mệt mỏi và giận dữ. Mái tóc chỉnh tề hoàn hảo của bà ta giờ bị cột lên vội vã, và những món tóc rối rắm, rủ xuống lộn xộn. Trên mặt bà ta là cái nhìn xa xăm của một người đang đợi chuyến xe buýt không chắc là sẽ tới. Bà ta nắm chặt chiếc khăn tay và không nhìn lên khi anh tới gần.
“Một chuyến đi an toàn chứ hả?” Bà ta hỏi.
“Benjamin Lombard chết rồi.”
“Phải, ta có nghe. Thật đáng tiếc rằng một số người thiếu sự quả cảm để xua tan những khó khăn trong cuộc đời.”
“Tôi có nên cảm ơn bà không?”
“Ta chắc là điều đó không cần thiết.” Bà ta nói. “Cậu ngồi chứ?”
Có một cái ghế thứ hai, nhưng anh không muốn ở gần bà ta như thế. Thay vì vậy, anh đi vòng quanh và dựa vào tấm bia đá của nấm mồ mới. Trên đó viết, “Evelyn Furst”. Bà ta nhìn anh và sự giận dữ ánh lên trong mắt, nhưng bà ta không đủ năng lượng để tiếp tục đốt cháy nó.
“Làm ơn tôn trọng một chút. Đó là em gái tôi.”
“Bà đùa tôi hả?”
“Làm ơn.”
Anh rút khẩu súng ra và đặt nó trên tấm bia đá. “Suzanne đâu?”
Sự ngạc nhiên thoáng qua trên khuôn mặt Calista.
“Anh không biết thật sao?”
“Cô ấy đâu?”
“Con bé ở ngay đó. Nó đã luôn ở đó.”
Anh dõi theo ánh mắt bà ta, nhìn vào nấm mồ bên cạnh anh với một cây thập giá trắng đơn giản. Không có bia khắc gì cả. Ở Somerset, Hendricks đã nói với anh rằng Suzanne hẳn đã chết. Anh như vẫn có thể nhìn thấy Hendricks đang lắc đầu với anh. Hi vọng giống như ung thư vậy. Hoặc bạn không bao giờ học được cách nhận ra sự thật, hoặc bạn nhận ra và lao qua kính chắn gió với tốc độ 140 cây số một giờ, vì hi vọng nói với bạn rằng, ngồi xe không cần thắt dây an toàn cũng chẳng sao.
Anh đang lao qua cái kính chắn gió vào lúc này, sự bế tắc giáng xuống anh một đòn tàn nhẫn.
Ôi, Gấu nhỏ. Anh xin lỗi. Anh xin lỗi.
Gibson chụp lấy khẩu súng.
“Khi sinh nở.” Calista nói. “Con bé đã đợi quá lâu trước khi liên lạc với ta. Nó đã sinh rồi khi chúng ta đến. Đó là một ca biến chứng - một cuộc đỡ đẻ sai lầm. Nó mất quá nhiều máu. Evelyn đã làm tất cả những gì có thể, nhưng tổn hại là quá lớn. Chúng ta chẳng thể làm gì cho nó nữa.”
“Vậy là bà mang cô ấy tới đây và chôn cô ấy? Tôi nghĩ nơi này chỉ là cho ‘gia đình Dauplaise’.”
“Lần này ngoại lệ. Con bé là con đỡ đầu của ta. Ta không muốn vứt bỏ thi thể nó ngoài rừng như một con vật. Con gái đáng thương của ta.”
“Con gái đáng thương của bà hả?” Gibson nói. Anh đã cầm khẩu súng lên, cò súng lạnh ngắt ở ngón tay anh. “Thôi đi. Thật đáng ghê tởm. Toàn bộ sự phi lí này, rằng bà đã báo thù cho cô ấy ư? Cha tôi đã tới gặp bà, phải không?”
“Phải.”
“Đã nói với bà những nghi ngờ của ông ấy về Lombard. Về Suzanne. Bà lẽ ra đã có thể ngăn mọi chuyện lại khi đó. Nhưng bà đã không làm. Thay vì thế bà cử người tới giết cha tôi. Bà cứ để mọi chuyện tiếp tục. Bà đã giết Suzanne.”
Calista lắc đầu. “Duke không chịu nghe lí lẽ. Ông ấy không hiểu rằng canh bạc lớn thế nào. Benjamin vẫn có thể chịu tuân lời. Nếu cha anh chịu nghe, thì những chuyện này đã không cần đến.”
“Câm miệng.” Anh nói và nâng khẩu súng lên. “Đừng nói lời nào nữa.”
Calista đã mất bao nhiêu năm tháng vặn vẹo những điều độc ác của bà ta, theo một logic tự nó lí giải cho nó. Anh còn có thể nói gì nữa? Bà ta đã nghĩ chuyện sai trái không thể tha thứ được là đúng và sẽ không nghe theo bất cứ lí lẽ nào. Nhưng anh sẽ giết bà ta nếu bà ta nói thêm dù chỉ một từ nữa.
“Tại sao lại cử chúng tôi theo đuổi kẻ bắt cóc cô ấy? Tại sao bà còn bận tâm? Bà cần sự báo thù tới mức đó sao?”
Calista nhìn lên. “Anh thực sự cần một câu trả lời sao?”
“Phải.”
“Được thôi. Anh có biết giá trị của một bí mật là gì không? Ý ta không phải là những chuyện vặt vãnh, lí thú của một vài kẻ cùng chia sẻ với nhau và tán láo bên những ly rượu, mà là một bí mật thực sự có thể hủy hoại tất cả nếu bị tiết lộ. Anh có biết giá trị của nó không? Là người duy nhất biết điều đó. Chỉ anh và người nào sợ hãi bí mật đó. Một bí mật đặt mạng sống của người đó vào trong tay anh. Họ sẽ làm bất cứ điều gì để anh giữ bí mật đó thêm một lúc nữa. Bất cứ điều gì.” Bà ta kéo dài từ đó để nhấn mạnh những ngụ ý của nó. “Nó trao cho một người quyền lực tuyệt đối với sinh mạng kẻ khác. Nhưng chỉ khi anh, và chỉ mình anh, biết bí mật đó.”
“Vậy là bà đã đợi suốt bấy lâu. Giữ bí mật của ông ta. Chỉ để hủy hoại ông ta?”
“Trí tưởng tượng của anh có thế thôi sao, anh Vaughn? Rằng tôi chờ đợi mười năm để bóp nghẹt tham vọng của cuộc đời hắn? Anh tưởng đó là những gì anh thấy ở Atlanta hả? Ôi, anh là một chú bé đầu óc thật nhỏ mọn. Điều mà Benjamin luôn quá kiêu căng để thừa nhận rằng hắn cần. Ta bảo vệ hắn.”
“Bảo vệ ông ta sao?”
“Anh nghĩ một bí mật như thế bị tiết lộ sẽ gây ra những gì cho tổng thống Hoa Kỳ? Đó sẽ là chấm dứt với hắn ta, chấm dứt nhiệm kì tổng thống của hắn. Và anh nghĩ hắn sẽ làm gì để đảm bảo ta giữ bí mật đó? Bất cứ chuyện gì. Ta không giữ bí mật đó để hủy hoại hắn ta. Làm ơn đi. Ta giữ bí mật của Benjamin để hắn có thể vươn tới định mệnh của hắn.”
“Và nhiệm kì tổng thống của ông ta sẽ thuộc về bà.”
“Thuộc về gia đình ta.” Calista sửa lại. “Anh đã hỏi tại sao ta lại cử các anh săn lùng kẻ đã chụp tấm hình Suzanne. Ta nghĩ Terrance Musgrove đã đóng cánh cửa đó từ rất lâu rồi, nhưng ta đã sai. Tấm hình có nghĩa là vẫn có người khác biết bí mật đó. Nếu nó bị lộ, việc ta nắm giữ Benjamin sẽ bị xóa sạch. Và ta đã hi sinh quá nhiều để cho phép điều đó xảy ra.”
“Cha tôi.”
“Phải.”
“Kirby Tate. Terrance Musgrove. Billy Casper.”
“Jenn Charles, Daniel Hendricks và Gibson Vaughn, nếu mọi chuyện đúng như kế hoạch.”
George Abe, Michael Rilling, Gibson lặng im thêm vào danh sách đó.
“Catherine có biết nó thật ra là ai không? Rằng nó mười tuổi, chứ không phải tám?”
“Nó cũng nghi ngờ, nhưng ta để chuyện đó cho anh.”
“Bà đã nói gì với cô bé?”
“Chỉ là thời gian của nó ở Colline đã kết thúc.”
Anh lắc đầu. “Bà nói về sự suy sụp của gia đình bà. Thưa bà, bà chính là sự suy sụp của gia đình bà.” Anh giơ khẩu súng lên. “Khẩu súng này là của Billy Casper. Anh ấy sẽ muốn bà có nó.”
“A. Khi ta gặp, anh không cho ta thấy anh là một người sắt đá.”
“Khi bà được cử đi tìm kiếm một cô gái mất tích thật ra không hề mất tích… bà sẽ học được nhanh thôi.”
“Anh định giết ta sao?”
“Không, tôi định để bà theo gương Benjamin.”
“Tại sao ta lại làm thế?”
“Hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra với gia đình quý giá của bà khi tất cả những chuyện này bị công khai.”
“Làm ơn đi. Anh hẳn đã tới gặp cảnh sát rồi nếu anh có đủ bằng chứng để truy tố ta.”
“Bà đã nói gì với tôi khi chúng ta gặp nhau lần trước nhỉ? Tòa án duy nhất quan trọng là tòa án công luận.”
“Ôi, vậy là ta phải chọn hoặc sinh mệnh ta hoặc danh tiếng gia đình ta sao?”
“Phải.”
“Thật rộng lượng, nhưng ta phải từ chối đề nghị của anh.”
“Tôi không dọa suông.”
“Đó là một lời dọa suông. Đừng vô lí như thế. Ta hiểu quyết tâm báo thù của anh, nhưng anh không đủ cứng rắn để gieo rắc đau khổ cho Catherine đâu.”
“Catherine? Con bé liên quan gì tới chuyện này chứ?” “Do anh nhớ những gì ta đã nói rõ ràng thế, ta chắc rằng anh còn nhớ những gì ta nói về các bí mật. Sức mạnh hủy diệt của chúng. Anh có thể nắm giữ bí mật của ta, nhưng đó cũng là bí mật của Catherine, đúng không? Anh không thể bóc mẽ ta mà không làm lộ ra nó. Và khi làm lộ nhân thân của nó, anh sẽ biến nó thành một kẻ bị ruồng bỏ. Một sự tò mò thảm hại. Không bao giờ được sống cuộc đời bình thường.”
Anh nhìn bà ta chằm chằm, đầy ghê tởm.
“Mỗi người đi quân cờ mà mình có trên bàn cờ, anh Vaughn ạ. Nếu anh muốn tôi chết, thì anh phải làm điều đó. Tuy nhiên, thời gian phản ứng của cảnh sát là cực kì nhanh ở khu này của thành phố, nên ta hi vọng anh có thể thu xếp được mọi chuyện.”
Anh nới lỏng ngón tay khỏi cò súng.
“Một quyết định khôn ngoan.”
“Tôi ước gì tôi có thể.” Anh nói.
“Thế đấy.” Bà ta nói. “Có lẽ là để lần khác.”
“Hãy tránh xa Catherine ra. Tránh xa tất cả chúng tôi ra.”
“Tạm biệt, anh Vaughn.”
Gibson quay lại căn nhà. Những suy nghĩ của anh trở lại với Suzanne và cha anh. Anh lại cảm thấy mình như lao qua kính chắn gió lần nữa. Cảm giác trôi dạt vô định trở lại và anh đứng nguyên đó cho tới khi sự ghê tởm trong anh qua đi. Rồi nó sẽ trở lại. Hiệu ứng kính chắn gió này chưa kết thúc với anh đâu.
Catherine ngồi ở cửa trước. Khi tới gần cô bé, anh có thể thấy mắt cô đỏ mọng vì nước mắt.
“Tới lúc đi rồi ạ?” Cô bé hỏi, giọng mềm như lụa. “Phải. Con có muốn đi với ta không?” Cô bé gật đầu. “Bác C. có tới đây để nói lời tạm biệt không?” Anh lắc đầu. Trong khoảnh khắc, anh nghĩ Catherine sẽ lại khóc, nhưng cô bé trấn tĩnh lại và đứng lên.
“Bác giúp con mang va li nhé? Nó nặng lắm.”
Quả là nặng. Cả một đời người gói ghém trong đó.