Q
uán đã bớt ồn, đủ để Gibson nghe thấy suy nghĩ của mình. Anh ngoái lại và thấy những vị khách cuối cùng chuẩn bị rời đi. Khi họ đi, anh sẽ trưng dụng một cái bàn và trải qua thêm một ngày tìm việc bực mình nữa. Hôm nay là Chủ nhật, nhưng anh tìm việc không nghỉ ngày nào. Khoản trả góp cho căn nhà mà vợ cũ và con gái anh đang sống mười lăm ngày nữa là tới hạn. Chỉ còn mười lăm ngày nữa để tìm việc.
Ít ra thì đây là một nơi làm việc rất tốt. Quán Nighthawk khiến anh nhớ tới nhà mình. Cha anh tự coi mình là chuyên gia về các quán ăn và đã truyền điều đó cho anh. Với Duke Vaughn, nhắc đến quán ăn là nhắc đến những quán nhỏ, độc lập, chứ không phải là các chuỗi nhà hàng hay công ty cổ phần. Ông gọi những quán đó là tài sản công cộng. Đất thuộc sở hữu của một người nhưng cộng đồng lại có quyền sử dụng. Đó không phải lí tưởng dân túy lãng mạn mà là nơi thần thoại nước Mỹ gặp gỡ thực tế trần trụi - đại loại thế.
Cha anh có thể và sẽ nói liên miên về những quán ăn tuyệt vời trên cả nước, nhưng quán Blue Moon ở West Main tại Charlottesville, Virginia luôn là căn cứ địa của ông. Nếu Duke Vaughn là một giáo sư, lớp học của ông ắt hẳn sẽ là quầy phục vụ. Những cuộc trò chuyện giữa hai cha con lúc ăn sáng là một nghi thức thiêng liêng vào sáng Chủ nhật từ khi Gibson mới sáu tuổi. Anh đã học về chuyện giới tính khi ăn bánh anh đào - và giờ vẫn còn xấu hổ khi thừa nhận phải mất nhiều năm anh mới hiểu được câu nói đùa của cha.
Ông Duke Vaughn là khách ruột của Blue Moon. Gibson chưa bao giờ thấy cha anh phải gọi món, nhưng lần nào cũng giống hệt nhau: hai trứng ốp lòng đào, bánh khoai tây, yến mạch, thịt ba chỉ, xúc xích và bánh mì trắng nướng. Cà phê. Nước cam. Bữa sáng của một người đàn ông, cha anh gọi nó thế và đã tìm ra không biết bao nhiêu phép ẩn dụ trong đó. Gibson đã không đặt chân vào Blue Moon từ khi cha anh qua đời. Từ khi cha anh tự sát. Sự thật là thế.
Nhưng sau một thời gian, Gibson không cảm thấy như ở nhà tại một chỗ nào mới, cho đến khi anh tìm được một quán hợp với mình. Cha anh gọi nó là một mái ấm trên đường. Gibson nghĩ cha anh hẳn sẽ chấp thuận quán Nighthawk và chủ quán, Toby Kalpar.
Ánh mắt Gibson nhìn về phía người phụ nữ ở cuối quầy phục vụ. Không phải vì cô ta xinh đẹp hay vì cô ta đang mặc vest trong một quán ăn bình dân vào sáng Chủ nhật. Cũng không phải vì viền bao súng lộ ra dưới cánh tay trái - đây là Virginia mà. Người mang vũ khí cũng nhiều như chó đeo xích cổ. Thật ra là bởi việc dù cô ta không nhìn thẳng vào anh, nhưng anh vẫn có thể cảm thấy cô ta chú ý đến mình, theo kiểu không tốt đẹp gì. Anh gượng nhìn đi chỗ khác. Hai người họ có thể chơi trò đó. Hai người lạ… không nhìn nhau.
“Cậu uống nhiều cà phê còn hơn cả đám nhà thơ kém cỏi đấy,” Toby nói và rót đầy tách cho anh.
“Chú phải thấy tôi hồi đi lính. Tôi sống bằng cà phê và Ripped Fuel. Tới 6 giờ chiều, chú có thể rán trứng trên trán tôi.” “’Ripped Fuel’ là cái gì?”
“Một loại thực phẩm chức năng. Để tập thể hình. Giờ thì không hợp pháp lắm.”
Toby gật đầu đầy vẻ triết học. Chú ấy và vợ, Sana, đã di cư từ Pakistan hai mươi sáu năm trước và mua lại quán này trong đợt suy thoái. Con gái họ tốt nghiệp Đại học Mĩ thuật và Thiết kế Corcoran ở Washington D.C. Toby đã có được tình yêu mĩ thuật hiện đại từ cô bé và đổi tên quán theo tên bức tranh của Edward Hopper. Bản sao các bức họa từ giữa thế kỷ XX của Pollock, de Kooning, Rothko được đóng khung treo khắp quán. Toby trông gầy gò với bộ râu xám được xén tỉa gọn gàng, đeo kính gọng cong, trông giống một người tuyển chọn sách hiếm hơn là phục vụ quán ăn. Nhưng ngoại trừ vẻ bề ngoài, Toby Kalpar sinh ra là để quản lí một quán ăn Mỹ.
Toby nán lại chỗ quầy phục vụ, vẻ mặt có phần bối rối. “Xin lỗi vì lại nhờ cậu lần nữa, nhưng tôi cần cậu giúp tôi xử lí mấy cái máy tính. Tôi đã mất hai đêm mày mò nhưng vẫn không hiểu.”
Sáu tháng trước, Gibson đã đề nghị giúp đỡ sau khi nghe Toby than phiền về máy tính ở Nighthawk. Chúng đầy những phần mềm độc hại, các cookie gián điệp và virus đủ loại. Hóa ra, cái Toby cần là ngừng ấn “OK” với tất cả mọi thứ xuất hiện trên màn hình.
Gibson đã mất vài tiếng sắp xếp lại hệ thống của Toby, cài lại mạng, phần mềm diệt virus và phần mềm dùng cho nhà hàng. Họ trở thành bạn như thế.
“Không vấn đề. Chú muốn tôi xem qua không?” “Không phải bây giờ. Tôi không muốn cản trở cậu tìm việc. Đó là điều quan trọng nhất.”
Gibson nhún vai. “Tôi sẽ cần nghỉ ngơi sau hai tiếng. Chú sống được tới trưa chứ?”
“Tôi nợ cậu.” Toby với tay qua quầy. Hai người bắt tay nhau. “Nicole sao rồi? Còn Ellie? Khỏe cả chứ?”
Nicole là vợ cũ của Gibson, Ellie là cô con gái sáu tuổi của anh - một cỗ máy tăng động cao 1m20 tràn đầy tình yêu, tiếng cười và bụi đất. Vẻ mặt anh sáng lên khi nghe thấy tên cô bé. Giờ đây, Ellie là điều duy nhất anh còn quan tâm.
“Họ đều ổn. Rất ổn.”
“Cậu sắp gặp Ellie à?”
“Hi vọng thế. Có lẽ là cuối tuần tới. Nếu Nicole sang nhà chị gái, tôi sẽ về thăm nhà.”
Những nơi Gibson ở sau khi li dị không phù hợp lắm với trẻ con và Nicole không thích cho Ellie ở đó. Anh cũng thế. Nên thỉnh thoảng, Nicole sẽ về thăm gia đình và anh sẽ dành cả cuối tuần về nhà chơi với Ellie. Đó là một trong những điều tử tế mà vợ cũ đã làm cho anh kể từ khi họ li hôn.
“Nhớ nhé. Các bé gái đều cần cha. Nếu không, chúng sẽ phải tham gia các chương trình thực tế đấy.”
“Truyền hình thực tế chưa sẵn sàng cho con bé đâu. Tin tôi đi.”
“Họ sẽ cần một gã quay phim rất nhanh tay đấy.”
“Chú nói đúng.”
Gibson đứng dậy và khoác túi lên vai. Người phụ nữ ở cuối quầy vẫn ngồi đó. Khi anh đi qua, cặp mắt cô ta nhìn anh trong tấm gương đằng sau quầy và theo dõi anh. Thật khó chịu khi cô ta không thèm quan tâm liệu anh có biết hay không.
Phía sau quán ăn, không có ai trừ một người đang ngồi ở cái bàn quen thuộc của Gibson. Người này ngồi quay lưng lại với Gibson và đang viết gì đó lên một cuốn sổ giấy vàng. Ông ta trông quen quen, dù là nhìn từ phía sau.
Người đàn ông này cảm thấy có người ở sau lưng mình và đứng lên. Ông ta không to con, nhưng có dáng vẻ khỏe mạnh của một vận động viên điền kinh. Ông ta trông khoảng ba mươi lăm tới năm mươi tuổi. Tóc ở thái dương hơi điểm bạc, khuôn mặt trẻ trung, chỉ có chút nếp nhăn ở cằm. Ngoài ra, chẳng có cách nào đoán tuổi ông ta cả. Ông ta trông rất chỉn chu. Quần bò xanh cùng chiếc áo sơ mi sạch đẹp, trắng đến mức trông như lấy ra từ quảng cáo thuốc tẩy. Đến cái quần bò cũng được là phẳng, còn đôi ủng cao bồi bằng da thì được đánh xi đen sáng loáng.
Gibson cảm thấy trái tim mình nhói lên. Anh biết tên khốn này. Biết rõ. Ông ta là George Abe bằng xương bằng thịt. Và ông ta đang mỉm cười với anh. Gibson nhăn mặt như có người giơ tay tát anh, rồi đột nhiên dừng lại khi chỉ còn cách mặt anh một chút. Tại sao Abe lại cười? Ông ta nên thôi ngay đi. Nụ cười có vẻ thành thật, nhưng cảm giác như đang chế giễu. Gibson tiến một bước về phía ông ta, không rõ mình sẽ làm gì ngoài chuẩn bị sẵn sàng sau khi anh quyết định.
Anh chỉn chu lại ngoại hình khi người phụ nữ kia lọt vào tầm nhìn. Cô ta di chuyển nhanh nhẹn và duyên dáng, giữ khoảng cách đủ để anh nhận biết sự hiện diện của mình. Người ta nói gì về Ginger Rogers nhỉ? Cô ấy làm được mọi thứ giống như Fred Astaire13, chỉ có điều kém hơn đôi chút và mang giày cao gót? Áo vest của cô ta không cài khuy. Cô ta quay người để anh thấy một bên mặt, phòng khi phải lại gần anh. Mặt cô ta vẫn thoải mái và không hề biểu cảm, nhưng Gibson chắc chắn điều đó sẽ thay đổi nếu anh tiến thêm một bước nữa.
13. Ginger Rogers và Fred Astaire là cặp đôi vũ công huyền thoại của thế kỷ XX.
George Abe vẫn không nhúc nhích.
“Tôi thực sự mong có một cuộc nói chuyện thân tình, Gibson ạ.”
“Cô ta tham gia mọi cuộc trò chuyện thân tình của ông hả?”
“Hi vọng chứ không kì vọng. Sao cậu trách tôi được chứ?”
“Vậy ông có thể trách tôi sao?”
“Không,” Abe nói. “Tôi không thể.”
Hai người nhìn nhau chằm chằm trong khi Gibson cân nhắc câu trả lời của Abe, sự thù địch ban đầu của anh được thay thế bằng sự tò mò sâu sắc.
“Ông tới đây có việc gì? Tôi còn chưa có thời gian trấn tĩnh lại từ khi sếp ông làm tôi mất việc tháng trước.”
“Tôi biết. Nhưng tôi đã không làm việc cho Benjamin Lombard được một thời gian rồi. Tôi được… thả tự do. Một tuần sau khi cậu bắt đầu khóa huấn luyện cơ bản.”
“Vậy sao?” Gibson nói. “Ông làm những việc bẩn thỉu cho ông ta rồi bị tiễn ra cửa? Nghe cũng nên thơ đấy chứ?”
“Nếu cậu thích thơ.”
“Nếu không tới đây vì ông ta, thì ông muốn gì?”
“Như tôi đã nói, một cuộc chuyện trò thân tình.”
George Abe đưa cho anh một tấm danh thiếp. Trên đó có địa chỉ ở trung tâm Washington D.C. và số điện thoại. Dưới tên ông ta là dòng chữ “Giám đốc, Tập đoàn Tư vấn Abe (ACG)”.
Khi anh còn nhỏ, Gibson đã đọc sai tên của George Abe, cho tới khi cha anh sửa lại: “Ah-bay. Giống tên người Nhật, chứ không phải như Lincoln.” Là trưởng bộ phận an ninh của Benjamin Lombard, George thường xuyên xuất hiện trong tuổi thơ của Gibson. Người sau cánh gà. Lịch thiệp, nhã nhặn, nhưng vô hình một cách chuyên nghiệp. Phải mãi tới phiên xét xử của mình, Gibson mới chú ý tới ông ta, nhưng đến lúc đó, George Abe đã không còn lịch sự hay nhã nhặn nữa rồi.
“Nghe kêu đấy,” Gibson nói. “Tôi có việc cho cậu làm đây.”
Gibson tìm một câu thật thích đáng để đáp lại, chuyển từ tò mò sang hoài nghi. “Tôi phải công nhận là ông giỏi, George. Công ty của ông thật lớn.”
“Nghe tôi nói đã.”
“Tôi không hứng thú.” Gibson đưa lại tấm danh thiếp. “Chuyện tìm việc thế nào rồi?”
Gibson khựng lại và lạnh lùng nói với Abe. “Cẩn thận đấy.”
“Hiểu rồi. Nhưng tôi không có ý gì ngoài tóm lược tình hình,” Abe nói. “Cậu đang thất nghiệp và lí lịch khiến cậu khó tìm được một công việc thích hợp với những kĩ năng của mình. Cậu cần việc làm. Tôi có công việc. Công việc có mức lương lớn hơn bất kì việc gì cậu tìm được. Đấy là nếu cậu tìm được.”
“Vẫn không hứng thú.” Gibson quay đi và tiến bốn bước về phía cửa cho đến khi Abe ngăn anh lại.
“Ông ta sẽ không bao giờ bỏ qua. Cậu biết mà, đúng không?”
Sự thẳng thừng của câu nói làm Gibson giật mình. Nó tổng hòa tất cả nỗi sợ trú ngụ trong tâm trí anh.
“Tại sao?” Anh không thể kìm lại vẻ van nài trong giọng nói.
Abe nhìn anh thương cảm. “Vì cậu là Gibson Vaughn. Vì ông ta coi cậu như con.”
“Không phải ông ta khiến tôi bị sa thải sao?”
“Tôi không biết. Có lẽ thế? Chắc vậy. Không quan trọng. Nếu tôi là cậu, tôi sẽ lo nghĩ việc ông ta sẽ làm gì nếu trở thành tổng thống. Cậu kiếm được việc ở Siberia đã là may.”
“Tôi trả giá chưa đủ sao?”
“Sẽ không bao giờ đủ. Không có chuyện bỏ qua ở đây. Là kẻ thù của ông ta? Sẽ mãi mãi là kẻ thù. Và kẻ thù của ông ta phải trả giá cả đời. Đó là luật chơi của Benjamin Lombard.”
“Tôi tiêu rồi.”
“Trừ khi cậu cho ông ta một lí do để bỏ qua.”
“Lí do gì?”
Abe ngồi xuống và ra hiệu cho Gibson làm theo.
“Phần trò chuyện thân tình đây à?”
“Tôi nghĩ lắng nghe tôi sẽ có lợi cho cậu.”
Gibson cân nhắc những lựa chọn: Bảo George cút xéo, chắc chắn cảm giác rất tuyệt, hoặc nghe ông ta nói hết rồi bảo ông ta cút xéo.
“Ông muốn trò chuyện thân mật, thì hãy bảo bạn ông lùi lại.”
Abe ra hiệu cho người phụ nữ. Cô ta cài lại áo và lùi ra xa.
“Chúng ta bắt đầu nhé?” Abe hỏi.