Dodd đi bộ từ khách sạn Esplanade đến văn phòng của mình mỗi sáng, mười lăm phút đi dạo dọc theo Tiergartenstrasse, con phố hình thành ranh giới phía nam công viên. Ở phía nam là các cơ ngơi với những mảnh đất xanh ngắt và hàng rào sắt rèn, nhiều dinh thự thuộc các đại sứ quán và lãnh sự quán. Phía bắc chính là công viên, sum suê cây cối và nhiều tượng, các lối đi chìm trong bóng râm của buổi sáng. Dodd gọi nó là “công viên đẹp nhất tôi từng thấy”. Cuộc đi bộ nhanh chóng trở thành hoạt động ông ưa thích trong ngày. Văn phòng của ông nằm trong tổ hợp văn phòng đại sứ quán trên con phố ngay bên phải công viên, Bendlerstrasse, còn gọi là “Bendler Block”. Ở đây còn có một dãy các tòa nhà hình chữ nhật, nhợt nhạt, thấp lè tè được xem là trụ sở quân đội Đức chính quy, Quân Phòng vệ Đế chế.
Một bức ảnh Dodd đang làm việc tại trụ sở của ông, ngay tuần đầu tiên hoặc lâu hơn thế tại Berlin, chụp ông đang ngồi tại một chiếc bàn lớn, được chạm khắc công phu. Trên bức tường sau lưng là tấm thảm thêu, bên tay trái là chiếc điện thoại to và phức tạp cách ông khoảng tầm mét rưỡi. Có nét khôi hài nào đó ở bức ảnh này:
Dodd, dáng người mảnh khảnh, cổ cồn trắng cứng nhắc, mái tóc bôi sáp thơm và rẽ ngôi giản dị, nghiêm nghị nhìn chằm chằm vào máy ảnh, hình dáng của ông như lọt thỏm giữa bối cảnh xung quanh. Bức ảnh khiến những ai thất vọng vì vụ tuyển mộ Dodd ở Bộ Ngoại giao cười lăn lộn. Phó Ngoại trưởng Phillips trong lá thư gửi Dodd kết thúc bằng câu, “Bức ảnh chụp ngài ngồi tại bàn trước tấm thảm tuyệt đẹp ai ai cũng biết và là bức ảnh ấn tượng nhất.”
Dù làm gì, Dodd dường như cũng đều vi phạm khía cạnh nào đó của nguyên tắc đại sứ quán, ít nhất là dưới con mắt Tham tán của ông, George Gordon. Dodd khăng khăng đòi đi bộ đến dự những cuộc họp với các quan chức Chính phủ. Một lần, khi ghé thăm Đại sứ quán Tây Ban Nha gần đó, ông rủ Gordon đi bộ cùng mình, cả hai mặc áo choàng đi bộ và đội mũ lụa. Trong lá thư kể Thornton Wilder nghe về cảnh này, Martha đã viết rằng Gordon “trông rất khổ sở như bị ngập máu”. Khi Dodd lái xe đi đâu đó, ông thường lái con Chevrolet của mình, thấp kém hơn hẳn những chiếc Opel và Mercedes yêu thích của các quan chức Đế chế. Ông ăn mặc giản dị, hay có những câu đùa cợt châm biếm. Thứ Hai, ngày 24 tháng 07, ông phạm phải một lỗi tày trời. Tổng Lãnh sự Messersmith đã mời ông cùng Gordon tham dự một cuộc họp với tay dân biểu Mỹ sang thăm Đức, sẽ được tổ chức tại văn phòng của Messersmith ở tòa lãnh sự Mỹ, chiếm hai tầng dưới của một tòa nhà đối diện khách sạn Esplanade. Dodd đến văn phòng của Messersmith trước Gordon, vài phút sau thì điện thoại reo. Kết thúc cuộc gọi, Messersmtih cho biết Gordon không đến. Lí do đơn giản chỉ là thấy bực mình. Theo quan điểm của Gordon, Dodd đã “tự xem thường” chính mình và chức vụ của ông ta, khi hạ mình đến dự cuộc họp với người có chức vụ thấp hơn. Dodd nhận xét trong nhật kí, “Gordon là tay chuyên nghiệp, cần mẫn và câu nệ đến khủng khiếp.”
Dodd không thể trình quốc thư - “Ủy Nhiệm Thư” - lên Tổng thống Đức Hindenburg ngay lập tức, một yêu cầu theo nghi thức ngoại giao, vì Hindenburg thấy không khỏe nên đã rút về điền trang của ông ta tại Neudeck, Đông Phổ để dưỡng bệnh, phải đến cuối hè mới quay lại. Nên Dodd vẫn chưa chính thức được thừa nhận là đại sứ, và ông tận dụng quãng thời gian này tự làm quen với các chức năng cơ bản như xử lí các điện thoại ở Đại sứ quán, các mật mã điện tín và giờ giấc các cặp ngoại giao được gửi đi từ Đại sứ quán. Ông gặp gỡ một nhóm phóng viên người Mỹ, sau đó là gần hai mươi phóng viên Đức. Đúng như Dodd lo ngại, họ là những người đã đọc bải viết trên tờ Hamburger Israelitisches Familienblatt của Do Thái, nội dung cho rằng ông “đến Đức để hiệu chỉnh lại những sai lầm đối với dân Do Thái”. Dodd đoán được trong thái độ của họ sự “bất mãn thoáng qua”.
Ông nhanh chóng nếm đủ hương vị cuộc sống của nước Đức mới. Vào ngày đầu tiên ở Berlin, nội các của Hitler đã ban hành một luật mới, có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 1934, gọi là Luật Ngăn chặn Sinh con Mắc bệnh Di truyền - cho phép tiến hành thủ thuật làm vô sinh đối với các cá nhân có những khiếm khuyết về tinh thần và thể chất. Ông cũng biết nhân viên trong Đại sứ quán và tòa lãnh sự của Messersmith tin rằng chính quyền Đức đang chặn thư đi thư đến, rằng điều này đang buộc Messersmith phải có những biện pháp lạ thường, nhằm đảm bảo thư tín nhạy cảm gửi sang Mỹ không bị đọc lén. Tổng Lãnh sự lúc này phái các bưu tá trao tận tay thư từ cho thuyền trưởng các tàu biển sang Mỹ, ở bến cảng, nước Mỹ sẽ cử mật vụ ra nhận thư.
Một trong các nhiệm vụ hàng đầu Dodd tự đặt ra cho mình là hiểu thấu được tài năng và điểm yếu của các nhân viên Đại sứ quán, bao gồm các bí thư thứ nhất và thứ hai, cùng rất nhiều thư kí, người viết tốc kí và nhiều nhân viên khác làm việc ngoài văn phòng đại sứ. Ngay từ đầu, Dodd nhận thấy thói quen làm việc của họ rất uể oải. Các nhân viên cao cấp hơn của ông đến cơ quan mỗi ngày vào bất kì giờ nào họ muốn, rồi đều đặn lủi đi săn hoặc chơi golf ở đâu đó. Ông thấy gần như tất cả đều là thành viên của một câu lạc bộ golf ở quận Wannsee, phía tây nam trung tâm Berlin. Nhiều người rất giàu có nhờ nguồn tiền khác, tuân thủ các truyền thống của ngành Ngoại giao, tiêu tiền không cần đếm, cả tiền của riêng họ lẫn tiền của Đại sứ quán. Dodd đặc biệt khiếp hãi trước số tiền họ tiêu cho cước đường truyền quốc tế. Các tin nhắn vừa dài dòng, vừa rời rạc làm đội giá lên đến vô lí.
Trong ghi chép báo cáo nhân sự, ông có bổ sung các mô tả về những nhân vật chủ chốt. Ông nhận xét vợ Tham tán Gordon có “khoản thu nhập lớn” và rằng Gordon có thiên hướng hay thay đổi, không kiên định. “Dễ xúc động. Thù địch quá nặng nề với người Đức... những cơn cáu giận của ông ta xảy ra rất nhiều và trầm trọng”. Tóm tắt về một trong số các bí thư thứ nhất của Đại sứ quán, cũng là người giàu có, Dodd nhận xét nhanh rằng ông ta “thích đánh giá [về] màu tất của đàn ông”. Dodd lưu ý Trưởng phòng Tiếp tân Đại sứ quán, Julia Swope Lewin là người không thích hợp cho nhiệm vụ này, vì bà ta “rất kì thị người Đức” và điều này “gây ấn tượng xấu với những người Đức gọi điện đến đây”.
Dodd cũng am tường diễn biến của bối cảnh chính trị diễn ra ngoài bốn bức tường Đại sứ quán. Thế giới trong những thông điệp gửi nhanh của Messersmith lúc này hiện lên sống động ngoài cửa sổ văn phòng ông, dưới bầu trời rạng rỡ của ngày hè. Khắp nơi đều chăng biểu ngữ phối màu rất sặc sỡ: nền đỏ, vòng tròn trắng và ở giữa luôn có “dấu thập ngoặc”, hoặc Hakenkreuz, in đậm đen ngòm. Từ “thập ngoặc” vẫn chưa phải là từ dùng nhiều trong Đại sứ quán. Khi đi dạo, Dodd hiểu ý nghĩa nhiều màu sắc trang phục của những người ông gặp phải. Quân phục nâu, có vẻ hiện diện ở khắp nơi, là của Sư đoàn Bão tố, hay là SA. Màu đen là của lực lượng nhỏ hơn, nhưng tinh nhuệ hơn tên là Schutzstaffel, hay SS. Màu xanh da trời là của cảnh sát chính quy. Dodd cũng biết sức mạnh của Gestapo đang tăng lên, và người trẻ tuổi đứng đầu lực lượng này là Rudolf Diels. Hắn ta mảnh khảnh, da ngăm đen và được xem là đẹp trai, bất chấp một vết sẹo trên mặt, hậu quả từ một màn tỉ thí dùng dao thật do các thanh niên Đức khởi xướng, để chứng tỏ bản lĩnh đàn ông, hồi hắn còn là sinh viên đại học. Cho dù mang vẻ ngoài đáng sợ như kẻ ác trong phim ảnh, nhưng theo lời Messersmith, Diels đã chứng tỏ được mình là kẻ chính trực, hữu ích và sáng suốt, những phẩm chất các cấp trên của hắn như Hitler, Göring hay Goebbels chắc chắn đều không có.
Tương tự, cái thế giới mới mẻ này, theo nhiều cách, đang chứng tỏ nó đa sắc thái và phức tạp hơn nhiều so với Dodd hình dung.
Những rạn nứt sâu sắc tràn qua chính quyền Hitler. Hắn trở thảnh Thủ tướng kể từ ngày 30 tháng 01 năm 1933, khi được Tổng thống Hindenburg bổ nhiệm vào vị trí này, như một phần thỏa thuận do các chính trị gia cấp cao phe bảo thủ đề ra. Họ tin rằng mình có thể kiểm soát được hắn, một quan niệm vào thời điểm Dodd đến đây được thực tế chứng minh là hão huyền. Hindenburg - được biết đến rộng rãi với cái tên Quý ông Già - vẫn là đối trọng cuối cùng đối với quyền lực của Hitler. Vài ngày trước khi Dodd khởi hành, ông ta đã ra tuyên bố công khai phản đối những nỗ lực đàn áp Giáo hội Tin Lành của Hitler. Tự tuyên bố mình như “Giáo đồ Cơ Đốc Phúc Âm”, trong một lá thư gửi Hitler đã được công khai, Hindenburg cảnh báo về ‘‘nỗi lo lắng cho sự tự do bên trong giáo hội” đang không ngừng tăng lên và rằng nếu những chuyện này còn tiếp tục, “nhân dân và Tổ quốc của chúng ta sẽ phải gánh chịu thiệt hại nặng nề nhất, cũng như làm tổn thương đến đoàn kết dân tộc”. Không chỉ có thẩm quyền lập hiến bổ nhiệm thủ tướng mới, trong tay Hindenburg còn nắm đội quân chính quy trung thành với mình, Lực lượng Phòng vệ Đế chế. Hitler hiểu rằng nếu đất nước lại chìm trong hỗn loạn, Hindenburg có thể cảm thấy bức bách phải thay thế Chính phủ và tuyên bố thiết quân luật. Hắn cũng nhận ra nhiều khả năng nhất nguồn cơn gây ra sự bất ổn chính là SA, do người bạn và một đồng minh lâu năm của hắn, Đại tá Ernst Röhm, chỉ huy. Hitler ngày càng nhìn nhận SA như một lực lượng cực đoan và vô kỉ luật, đi chệch khỏi mục đích ban đầu. Röhm lại nghĩ khác: hắn cùng Sư đoàn Bão tố của mình đóng vai trò nòng cốt mang lại cuộc Cách mạng Quốc xã, và giờ đây đổi lại, hắn muốn kiểm soát toàn bộ quân đội quốc gia, bao gồm cả Lực lượng Phòng vệ Đế chế. Quân đội nhận thấy đây là nguy cơ đáng ghê tởm. Béo ị, gắt gỏng, thừa nhận là người đồng tính và là kẻ chơi bời phóng đãng triệt để, Röhm chẳng hề giống một quân nhân được quân đội nể vì. Tuy nhiên, hắn lại chỉ huy quân đoàn một triệu người, với quân số đang tăng lên nhanh chóng. Quân đội chính quy chỉ đông bằng một phần mười quân của hắn, tuy nhiên được đào tạo bài bản và vũ trang tốt hơn. Tình thế đang sôi sục.
Dodd cho rằng ông đã phát hiện một xu hướng ôn hòa dứt khoát và mới mẻ đâu đó trong chính phủ Đức, ít nhất là so với Hitler, Göring hay Goebbels, những kẻ được ông mô tả như “bọn trẻ mới lớn chơi trò lãnh đạo quốc tế vĩ đại”. Chính trong các bộ, bậc thang quyền lực tiếp theo, ông đã thấy lí do để hi vọng. “Họ mong muốn ngừng tất cả hành vi đàn áp dân Do Thái, hợp tác với những thành viên còn lại của Phong trào Chủ nghĩa Tự do Đức,” ông viết, “Kể từ ngày chúng ta đến đây, giữa các nhóm này đã xảy ra mâu thuẫn.”
Đánh giá của Dodd phần lớn xuất phát từ cuộc chạm trán sớm với Ngoại trưởng Đức, Konstantin Freiherr von Neurath, ít nhất cho đến lúc này, Dodd biết ông ta là thành viên của phe ôn hòa.
Thứ Bảy, ngày 15 tháng 07, Dodd ghé thăm Neurath tại nơi làm việc của ông ta ở Wilhelmstrasse, một đại lộ nằm song song với rìa phía đông của Tiergarten. Có quá nhiều văn phòng Đế chế quan trọng nằm dọc con phố, đến nỗi biến Wilhelmstrasse trở thành từ viết tắt khi muốn nói đến Chính phủ Đức.
Neurath trông đẹp trai với mái tóc màu xám bạc, đôi lông mày đen và hàng ria mép xám cạo thưa, khiến ông ta trông giống một nam diễn viên đóng vai các ông bố. Martha không lâu sau đó cũng gặp ông ta, kinh ngạc trước khả năng che giấu cảm xúc nội tâm của ông ta: cô viết, “gương mặt ông ta hoàn toàn vô cảm - như một gương mặt trên quân bài mà ai cũng biết.” Giống như Dodd, Neurath ưa thích dạo bộ, lúc nào cũng làm một vòng qua Tiergarten để bắt đầu một ngày mới.
Neurath tự xem mình như một thế lực đúng mực trong chính phủ và tin rằng mình có thể giúp kiểm soát cả Hitler lẫn đảng của hắn. Như một đồng nghiệp đã chỉ rõ, “ông ta đang cố gắng huấn luyện Quốc xã, biến chúng thành những đối tác thực sự hữu ích trong chế độ dân tộc ôn hòa.” Nhưng Neurath cũng cho rằng chính quyền của Hitler có khả năng sẽ tự làm điều đó. Một trong các phụ tá của ông ta viết, “Ông ta luôn tin rằng nếu mình cứ ở yên trong văn phòng, làm tốt bổn phận của mình và duy trì các mối liên hệ với nước ngoài, rồi một ngày đẹp trời nào đó, ông ta sẽ thức dậy và thấy Quốc xã đã biến mất.”
Dodd nghĩ ông ta là người “dễ thương nhất”, một nhận xét khẳng định quyết tâm của Dodd muốn tỏ ra càng khách quan càng tốt đối với mọi chuyện đang diễn ra tại Đức. Dodd cho rằng Hitler phải có bên mình các quan chức có cùng phẩm chất giống Neurath. Trong lá thư gửi một người bạn, ông viết, “Hitler sẽ sát cánh với những người thông minh hơn, cùng nhau xoa dịu tình hình căng thẳng.”
Đúng vào ngày kế tiếp, khoảng 13 giờ 30 phút tại Leipzig, thành phố nơi Dodd lấy bằng tiến sĩ, một thanh niên trẻ người Mỹ tên là Philip Zuckerman có buổi đi dạo ngày Chủ nhật cùng vợ, em vợ và ông bố vợ người Đức. Xét đến chuyện họ là dân Do Thái, có lẽ đây là sơ suất lớn nhất của họ vào ngày cuối tuần đặc biệt này, khi mà có gần 140.000 lính Sư đoàn Bão tố càn quét thành phố - một trong những thú vui điên loạn thường xuyên của chúng, ngoài diễu hành, huấn luyện và đặc biệt là rượu chè. Chiều Chủ nhật hôm đó, một cuộc diễu hành lớn bắt đầu tràn qua trung tâm thành phố, dưới các tấm băng rôn Quốc xã ba màu đỏ, trắng và đen dường như đang phấp phới trên mọi tòa nhà. Một rưỡi chiều, một nhóm thanh niên SA tách khỏi đội hình chính, ngoặt vào một đại lộ giao nhau, Nikolaistrasse, nơi gia đình Zuckerman vô tình đang đi dạo.
Khi nhóm SA tách đội hình đi ngang qua, mấy thanh niên đi cuối hàng cho rằng gia đình Zuckerman và họ hàng là dân Do Thái, nên không một lời cảnh báo chúng bao vây họ, đánh họ gục xuống đất, tha hồ đấm đá không thương tiếc xuống người họ. Đánh chán chê rồi chúng bỏ đi.
Zuckerman cùng vợ bị thương nặng đến mức cả hai phải nhập viện cấp cứu, đầu tiên là ở Leipzig, sau đó được điều trị lần nữa tại Berlin, nơi đặt Đại sứ quán Mỹ. “Có khả năng [Zuckerman] đã bị các chấn thương nội tạng nghiêm trọng không bao giờ phục hồi được,” Tổng Lãnh sự Messersmith viết một thông điệp nhanh về vụ tấn công gửi Washington. Ông cảnh báo Mỹ có thể bị ép phải cố đạt được thỏa thuận đền bù thiệt hại cho Zuckerman bằng tiền, nhưng chính thức nêu rõ rằng họ không thể đại diện cho vợ anh ta, vì cô ta không phải là công dân Mỹ. Messersmith nói thêm, “vì cô ta cũng bị tấn công cùng lúc đó, nên có chuyện đáng lưu tâm là cô ta phải nhập viện và buộc phải bỏ cái thai mới vài tháng tuổi”. Ông cho biết do hậu quả của ca phẫu thuật, cô Zuckerman không bao giờ mang thai được nữa.
Những vụ tấn công như thế này cần phải chấm dứt, các nghị định của Chính phủ Đức cũng thúc giục sự kiềm chế. Nhưng có vẻ Sư đoàn Bão tố không buồn để tâm.
Trong một thông điệp gửi nhanh khác về vụ này, Messersmith viết, “Tấn công người Do Thái là thú vui ưa thích khi rảnh rỗi của SA, và người ta không thể không nói thẳng tuột ra rằng chúng là bầy thú săn mồi.”
Chính vì thấu hiểu chuyện này và nhiều hiện tượng khác của nước Đức mới với tư cách người trong cuộc, nên ông tức giận khi nhiều du khách không thể nhận ra được bản chất thật sự của chế độ Hitler. Nhiều du khách Mỹ khi về nước bối rối vì mâu thuẫn giữa những cảnh kinh hoàng mà báo chí trong nước đăng tải - như những vụ đánh đập, bắt bớ hồi mùa xuân năm ngoái, các vụ đốt sách và các trại tập trung - với những khoảng thời gian dễ chịu họ thực sự đã trải qua khi du lịch Đức. Một vị khách như thế là bình luận viên đài phát thanh H.V. Kaltenborn - không lâu sau khi Dodd đặt chân lên đất Đức, anh ta cùng vợ, con gái và con trai đến Berlin. Được biết đến là “trưởng nhóm bình luận viên”, Kaltenborn làm việc cho Công ty Truyền thông và Phát thanh Hoa Kỳ, anh ta trở nên nổi tiếng khắp nước Mỹ, đến nỗi nhiều năm sau, anh ta xuất hiện vài giây trong phim Ngài Smith đến Washington và phim viễn tưởng li kì Ngày Trái Đất ngừng quay, diễn vai của chính mình. Trước khi lên đường sang Đức, Kaltenborn có ghé qua Bộ Ngoại giao và được phép đọc một số thông điệp gửi nhanh của Tổng Lãnh sự Messersmith. Lúc đó, anh ta cho rằng các thông điệp này quá cường điệu. Giờ đây sau bốn, năm ngày ở Berlin, anh ta nói với Messersmith rằng mình vẫn giữ nguyên kết luận ban đầu, rằng các thông điệp gửi nhanh là “không chính xác và phóng đại”. Anh ta cho rằng Messersmith chắc đã dựa vào các nguồn dữ liệu sai lầm.
Messersmith bị sốc. Ông không nghi ngờ Kaltenborn là người thật thà, nhưng ông gán quan điểm của tay bình luận viên với thực tế rằng “anh ta là người gốc Đức, nhưng lại không thể tin rằng người Đức có thể làm những chuyện đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ tại Berlin và trên khắp đất nước này.”
Đó là một vấn đề Messersmith rất thường xuyên nhận ra. Những ai sống tại Đức và những ai để ý đều hiểu rằng một điều quan trọng đã thay đổi, rằng bóng tối đã bao trùm khắp nơi. Chỉ các du khách là không nhìn ra được. Trong một thông điệp gửi nhanh, ông cho rằng một phần là do chính quyền Đức khởi xướng chiến dịch “dụ người Mỹ du lịch sang Đức lên tiếng ủng hộ các diễn biến trong nước”. Ông đã thấy bằng chứng của chiến dịch này trong hành vi đáng ngờ của Samuel Bossard, một người Mỹ bị các thành viên Đoàn Thanh niên Hitler tấn công vào ngày 31 tháng 08. Bossard nhanh chóng trình bản khai có tuyên thệ lên Đại sứ quán Mỹ, giận dữ trình bày về biến cố này với một số phóng viên tại Berlin. Nhưng rồi ông ta bất ngờ im lặng. Messersmith đến thăm ông ta ngay trước khi ông ta về nước để hỏi thăm, nhưng ông ta tránh thảo luận về biến cố này. Nghi ngờ, Messersmith liền dò hỏi và biết rằng Bộ Tuyên truyền của Đức đã đưa Bossard đi tham quan khắp Berlin và Potsdam, đồng thời đối xử với ông ta hòa nhã, ân cần hẳn lên. Messersmith nhận thấy nỗ lực bỏ ra có vẻ được đền đáp. Theo bản tin thời sự, quay về New York, Bossard đã tuyên bố rằng “nếu người Mỹ tại Đức phải chịu bất kì cuộc tấn công nào, chẳng qua chỉ là do hiểu nhầm... Nhiều người Mỹ có vẻ không hiểu những thay đổi diễn ra tại Đức, và chính vì không hiểu biết nên [đã] hành xử không đúng, dẫn đến bị tấn công.” Ông ta thề sẽ quay lại Đức vào năm sau.
Messersmith cảm nhận được một bàn tay giật dây đằng sau quyết định của Chính phủ hủy bỏ lệnh cấm các tổ chức từ thiện, gọi là câu lạc bộ Rotary tại Đức. Các câu lạc bộ này không những có thể tiếp tục hoạt động, mà quan trọng hơn, họ còn được phép giữ lại các thành viên Do Thái của mình. Bản thân Messersmith cũng là thành viên của câu lạc bộ tại Berlin. “Thực tế việc dân Do Thái được phép tiếp tục ở lại Rotary được sử dụng như vũ khí tuyên truyền giữa các câu lạc bộ Rotary trên toàn thế giới,” ông viết. Sự thật bị che giấu đó là nhiều thành viên Do Thái đã mất việc, hoặc thấy khả năng hành nghề theo chuyên môn của mình bị hạn chế nghiêm trọng. Trong các thông điệp gửi nhanh, Messersmith lặp đi lặp lại một chủ đề: các du khách thông thường không thể hiểu được chuyện gì đang thực sự diễn ra tại nước Đức mới. “Người Mỹ sang Đức sẽ thấy bao quanh họ là những tác động của Chính phủ, rồi sự quyến rũ của thú giải trí hấp dẫn, gần như họ không còn cơ hội tìm hiểu tình hình thực sự thế nào.”
Messersmith thúc giục Kaltenborn liên hệ với một số phóng viên Mỹ tại Berlin, những người sẽ cung cấp vô số lời xác nhận các thông điệp gửi nhanh của ông.
Kaltenborn bác bỏ ý kiến này. Anh ta quen biết hầu hết các phóng viên đó, tuyên bố rằng họ đầy định kiến và Messersmith cũng thế.
Anh ta vẫn tiếp tục nghĩ theo hướng đó, cho dù rất nhanh chóng, bằng cách thuyết phục nhất, anh ta sẽ buộc phải xem xét lại những quan điểm của mình.