Vẫn còn một người tình khác trong cuộc đời Martha, người tình quan trọng nhất trong tất cả, một người Nga chịu số phận bi đát sẽ định hình phần còn lại của cuộc đời cô.
Lần đầu tiên cô bắt gặp anh là vào giữa tháng Chín năm 1933, tại một trong nhiều bữa tiệc Sigrid Schultz tổ chức tại căn hộ của mình, nơi cô ta sống cùng mẹ và nuôi hai chú chó. Schultz luôn luôn phục vụ bánh sandwich, đậu nướng sốt cà chua và xúc xích do mẹ cô ta chuẩn bị, dùng với rất nhiều bia, rượu và rượu vang, với dụng ý khiến ngay cả các vị khách Quốc xã cũng phải vứt hết học thuyết đi, tận hưởng cuộc vui và tán chuyện. Giữa tiếng nói chuyện ầm ĩ, Mar- tha vô tình liếc mắt sang bên kia phòng, trông thấy một anh chàng đẹp trai, dong dỏng cao ngồi giữa đám phóng viên. Anh không đẹp trai theo nghĩa thông thường nhưng rất quyến rũ - khoảng tầm ba mươi tuổi, tóc ngắn màu vàng nâu, đôi mắt sáng chói đẹp mê hồn. Martha thấy những ngón tay anh dài và mềm mại. “Anh ấy có cái miệng và môi trên khác thường,” gợi cô nhớ đến một trong những người bạn, Agnes Knickerbocker, vợ của phóng viên H. R. “Knick” Knickerbocker. “Tôi không biết mô tả nó thế nào, đành nói rằng chỉ trong một tích tắc bùng nổ, làn môi ấy có thể chuyển từ nghiêm nghị sang vui vẻ.”
Khi Martha ngắm anh, anh liền quay lại nhìn cô. Cô nhìn thẳng vào mắt anh một lúc, rồi quay sang nói chuyện với người khác. (Trong một bản miêu tả không xuất bản sau này, cô nhớ lại từng chi tiết nhỏ nhất của giây phút ấy và những thời khắc sau đó). Anh cũng quay đi - nhưng rồi khi bình minh đến và màn đêm chỉ còn rơi rớt lại những gì đẹp nhất, khoảnh khắc bốn mắt giao nhau ấy cả hai vẫn còn nhớ mãi.
Vài tuần sau, họ lại chạm trán nhau. Knick cùng vợ mời Martha với vài người bạn khác đến uống rượu và khiêu vũ ban đêm với họ tại quán Ciro’s, một hộp đêm nổi tiếng có dàn nhạc công da đen chơi nhạc Jazz. Đây là một hành động vô cùng thách thức, nếu xét đến nỗi ám ảnh của Đảng Quốc xã về chủng tộc thuần khiết và sự căm ghét của chúng đối với nhạc Jazz - ngôn ngữ đảng của chúng miệt thị Jazz là “nhạc của lũ mọi Do Thái” - một thứ nhạc suy đồi.
Knick giới thiệu Martha với anh chàng cao lớn cô đã thấy ở bữa tiệc của Sigrid Schultz. Giờ cô đã biết tên anh, Boris Winogradov (phát âm là “Vinogradov”). Một lúc sau, Boris xuất hiện trước bàn cô, mỉm cười và lúng túng. “Gnädiges Fräulein,” anh ta bắt đầu nói, gửi đến cô một lời chào theo phong tục của người Đức, nghĩa là “Quý cô thân mến”. Anh mời cô nhảy một điệu.
Ngay lập tức, cô choáng váng trước vẻ đẹp trong giọng nói của anh, được cô miêu tả là nằm đâu đó giữa giọng nam trung và giọng tenor65: “Ngọt lịm,” cô viết. Nó khiến cô cảm động, “đốn gục tim tôi và trong một lúc, tôi nghẹt thở, chẳng biết nói gì.” Anh chìa tay ra, dẫn cô rời khỏi chiếc bàn đông đúc.
65 Tenor: giọng nam cao, quãng giọng nằm giữa baritone và alto.
Cô nhanh chóng nhận ra sự duyên dáng tự nhiên của anh cũng có giới hạn. Anh dẫn cô vòng quanh sàn nhảy, “giẫm lên ngón chân tôi, va vào người bên cạnh, cánh tay trái của anh ấy giơ ra cứng ngắc, đầu anh ấy quay hết bên nọ sang bên kia để tránh va chạm thêm.”
Anh nói với cô, “Tôi không biết nhảy.”
Chính sự thật rõ ràng này khiến Martha phá lên cười.
Boris cũng cười. Cô thích nụ cười và “khí chất quý ông” của anh.
Vài phút sau anh nói với cô, “Tôi làm việc ở Đại sứ quán Xô Viết. Còn cô? Cô có sợ không?”
Cô lại cười. “Dĩ nhiên là không, sao tôi phải sợ chứ? Sợ cái gì?”
“Chính xác,” anh nói, “Cô là một người kín đáo và tôi cũng như vậy với cô.”
Anh kéo cô lại gần hơn. Dáng người anh mảnh mai, vai rộng, với đôi mắt cô cho là tuyệt đẹp, màu xanh lam lấp lánh ánh vàng. Anh có hàm răng không đều, nhưng bằng cách nào đó lại tôn lên nụ cười của anh. Anh rất hay cười.
“Tôi đã từng gặp em vài lần,” anh nói. Anh nhắc cô nhớ lần trước tại nhà của Schultz. “Em còn nhớ không?”
Với bản chất thích phủ nhận lời người khác, Martha dường như không muốn để lại dấu ấn quá lộ liễu như thế. Cô gắng giữ giọng “lấp lửng” nhưng thừa nhận sự thật. “Vâng,” cô đáp, “em nhớ.”
Họ khiêu vũ thêm một lúc lâu nữa. Khi anh dẫn cô về lại bàn ngồi cùng nhà Knickerbocker, anh tiến lại sát bên cô và hỏi, “Ich möchte Sie sehr wiederzusehen. Darf ich Sie anrufen?”
Ý nghĩa câu nói này quá rõ ràng, đến mức dù khả năng tiếng Đức hạn chế, Martha vẫn hiểu - Boris đang muốn hỏi anh có thể gặp lại cô không.
Cô đáp, “Vâng, anh có thể gọi cho em.”
Martha còn khiêu vũ với những người khác. Chốc chốc nhìn về bàn mình, cô thấy Boris ngồi giữa nhà Knickerbocker. Anh đang ngắm nhìn cô.
“Khi nói ra câu đó cũng thấy khó tin,” cô viết. “Sau khi anh ấy đi, tôi cảm giác không khí xung quanh tôi ngày càng bừng sáng và sôi nổi hơn.”
Vài ngày sau, quả nhiên Boris gọi điện. Anh lái xe đến nhà Dodd, tự giới thiệu bản thân với Fritz, viên quản gia, rồi nhanh chóng đi lên tầng một, mang theo một bó hoa mùa thu và một đĩa nhạc. Anh không hôn tay cô, một điều tốt, vì cái tục lệ kiểu Đức ấy luôn khiến cô khó chịu. Sau lời mào đầu ngắn ngủi, anh chìa cái đĩa ra.
“Em không biết nhạc Nga đúng không, Quý cô Thân mến? Em đã từng nghe bản ‘Cái chết của Boris’ của Mussorgsky chưa?”
Anh nói thêm, “Anh hi vọng mình không cho em nghe cái chết của chính mình.”
Anh bật cười. Nhưng cô thì không. Cô rùng mình vì điều này nghe như “điềm báo” chuyện bất hạnh sẽ đến.
Họ cùng nghe nhạc - cảnh chết chóc từ vở opera Boris Godunov của Modest Mussorgsky, qua giọng trầm của ca sĩ Nga Fyodor Chaliapin - nghe xong Martha dẫn Boris đi xem nhà, cuối cùng là đến thư viện. Ở một đầu là bàn làm việc của cha cô, to đùng và tối màu, các ngăn kéo bàn làm việc luôn đóng kín. Mặt trời cuối thu chiếu xuyên qua lớp kính màu trên cửa sổ cao, thành những nếp gấp sặc sỡ. Cô dẫn anh đến chiếc ghế dài yêu thích của mình.
Boris sung sướng. “Đây là góc của chúng ta, Quý cô Thân mến!” anh thốt lên. “Tốt hơn tất cả những nơi khác.”
Martha ngồi trên ghế dài, Boris kéo cái ghế sang ngồi. Cô rung chuông gọi Fritz, đề nghị ông ta mang bia và khẩu phần ăn như thường lệ gồm bánh quy xoắn, cà rốt thái lát và dưa chuột cùng các thanh pho mát nóng, những món ăn cô thường gọi khi đón những vị khách không chính thức.
Fritz mang đồ ăn lên, bước chân của ông rất lặng lẽ, như thể ông đang cố gắng nghe lén. Boris đoán chính xác Fritz cũng có nguồn gốc Slavic66. Hai người dành cho nhau những nhận xét dí dỏm lịch sự.
66 Người Slav: các bộ tộc sống chủ yếu ở Đông Âu. Sau này, họ di cư đến Nga và Trung Á. Ngày nay, dân cư ở các nước Đông Âu và Nga hầu hết là hậu duệ của người Slav.
Vui vẻ trước thái độ dễ chịu của Boris, Fritz nói đùa, “Có đúng cộng sản các cậu đã đốt Nhà Quốc hội không?”
Nở nụ cười tinh nghịch, Boris nháy mắt. “Tất nhiên rồi,” anh đáp, “cả ông và tôi. Ông không nhớ cái đêm chúng ta ở nhà của Göring, được cho xem hành lang bí mật dẫn đến Nhà Quốc hội à?” Đây là lời ám chỉ đến thuyết âm mưu nhiều người tin, rằng có một nhóm những kẻ chống đối Quốc xã đã lẻn vào Nhà Quốc hội từ cung điện của Göring, thông qua một đường hầm bí mật giữa hai tòa nhà. Một đường hầm như thế thực sự có tồn tại.
Cả ba cùng cười. Trò đồng lõa giả đò trong vụ cháy Nhà Quốc hội vẫn là chuyện đùa giữa Boris và Fritz, lặp lại thường xuyên với rất nhiều biến thể khiến cha của Martha rất vui sướng - cho dù Mar- tha tin rằng Fritz “gần như chắc chắn là cảnh sát mật”.
Fritz quay lại với chai vodka. Boris tự rót cho mình một ly lớn và nhanh chóng uống cạn. Martha ngồi lại xuống ghế dài. Lần này Boris ngồi bên cạnh cô. Anh uống ly vodka thứ hai, nhưng vẫn chẳng hề say.
“Ngay từ phút đầu tiên thấy em...” anh bắt đầu, ngập ngừng rồi nói tiếp, “Anh đã tự hỏi có thật thế không?”
Cô hiểu anh đang cố gắng nói gì, thực ra cô cũng cảm thấy sự hấp dẫn mạnh mẽ tức thì, nhưng cô không phải kiểu người thừa nhận điều đó ngay từ đầu. Cô nhìn anh, trống rỗng.
Anh trở lại nghiêm túc, tiến hành một cuộc thẩm vấn dài lê thê. Em đã làm gì ở Chicago? Cha mẹ em thích gì? Mai sau em muốn làm gì?
Cuộc trò chuyện trở nên ngày càng giống một cuộc phỏng vấn báo chí, hơn là một màn đối thoại trong buổi hẹn đầu. Martha thấy bực mình nhưng vẫn kiên nhẫn trả lời. Theo chỗ cô biết, đây là cách hành xử của đàn ông Xô Viết. “Tôi chưa từng gặp một nhà cộng sản thật sự, hay một người Nga thật sự nào như thế,” cô viết, “thế nên tôi hình dung chắc đây là cách để họ làm quen một ai đó.”
Nói chuyện thêm lúc lâu nữa, cả hai phải giở từ điển bỏ túi ra. Boris biết vài từ tiếng Anh, nhưng không nhiều, chủ yếu phải dùng tiếng Đức. Martha chẳng biết tiếng Nga, nên phải dùng pha trộn tiếng Đức với tiếng Anh.
Cho dù phải khá vất vả, cô cũng cho Boris biết rằng cha mẹ mình đều có xuất thân từ các gia đình địa chủ miền nam cũ, “tổ tiên của mỗi người đều có vị thế như nhau và hầu hết là người Anh thuần khiết: gốc Scotland, Ireland, Anh quốc và Xứ Wales.”67
67 Vương quốc Anh (The United Kingdom): là quốc gia gồm bốn vùng: Anh quốc (England), Scotland, Xứ Wales và Bắc Ireland.
Boris cười. “Có vẻ không thuần khiết lắm nhỉ?”
Với giọng kiêu ngạo không chủ tâm, cô nói thêm rằng cả hai gia đình từng chiếm hữu nô lệ - “Mẹ em có khoảng mười hai người hoặc hơn. Cha em có khoảng năm, sáu người.”
Boris im lặng. Nét mặt của anh đột ngột chuyển sang u sầu. “Martha,” anh nói, “chắc chắn em không tự hào vì tổ tiên em chiếm hữu mạng sống người khác chứ.”
Anh nắm tay cô và nhìn cô. Cho đến lúc này, sự thật chiếm hữu nô lệ của tổ tiên cha mẹ cô dường như luôn là một phần hấp dẫn trong trang sử của riêng họ, chứng minh rằng gia đình cô bắt nguồn từ nước Mỹ. Nhưng giờ đây, cô chợt nhận ra mặt trái của sự thật ấy - một chương buồn cô sẽ phải hối tiếc.
“Em không cố ý khoe khoang,” cô nói. “Em cho rằng anh nghĩ như thế.” Cô xin lỗi và ngay lập tức căm ghét bản thân vì điều đó. Cô thú nhận, mình là “một con nhóc hiếu chiến”.
“Nhưng gia đình em có truyền thống lâu đời ở Mỹ,” cô nói với anh. “Nhà em không phải là dân mới đến.”
Thấy thái độ bênh vực gia đình của cô thật vui nhộn, Boris phá lên cười thực sự thoải mái.
Ngay sau đó, cô nhớ lại nét mặt và giọng nói của anh chợt thay đổi, chuyển sang “cực kì nghiêm nghị”.
“Xin chúc mừng Martha bé bỏng, cao quý, duyên dáng của ta! Ta cũng có xuất thân từ lâu đời, thậm chí còn lâu hơn em. Ta là hậu duệ trực tiếp của người Neanderthal68. Và có thuần khiết không ư? Có, giống người thuần khiết.”
68 Neanderthal: một giống người cổ đại, rất giống loài người hiện đại, được xem như đã tuyệt chủng vào khoảng 40.000 năm trước đây.
Cả hai ngã vào nhau, cười rung nhà.
Họ trở thành bạn đồng hành đi đâu cũng có nhau, cho dù họ cố gắng giữ kín mối quan hệ càng lâu càng tốt. Nước Mỹ vẫn chưa thừa nhận Liên bang Xô Viết (cho đến ngày 16 tháng 11 năm 1933). Chuyện con gái một đại sứ Mỹ công khai quan hệ với bí thư thứ nhất Đại sứ quán Xô Viết tại những buổi họp mặt chính thức, hẳn sẽ là sự vi phạm nghi thức ngoại giao, khiến cả cha cô lẫn Boris có nguy cơ hứng chỉ trích từ cả trong lẫn ngoài chính phủ của hai quốc gia. Cô và Boris rời khỏi những buổi tiếp tân ngoại giao rất sớm, sau đó gặp nhau trong những bữa ăn bí mật tại các nhà hàng đẹp như Horcher ’s, Pelzer, Habel và Kempinski. Để tiết kiệm chút chi phí, Boris xây dựng quan hệ với các đầu bếp của các nhà hàng nhỏ, rẻ tiền và hướng dẫn họ cách chuẩn bị những món ăn anh yêu thích. Sau bữa tối, anh cùng Martha sẽ đi khiêu vũ tại Ciro’s hay tại hộp đêm trên tầng thượng khách sạn Eden, hoặc trong các chương trình múa hát chính trị, như Sân khấu nhỏ Komiker.
Có vài đêm, Martha và Boris cùng các phóng viên khác tụ tập ở Die Taverne, nơi Boris luôn luôn được đón chào. Các phóng viên yêu thích anh. Edgar Mowrer hiện đang bị lưu đày xem Boris như một sự thay đổi tươi mới so với các quan chức khác trong Đại sứ quán Xô Viết. Anh ta nhớ lại, Boris nói lên tâm tư của mình nhưng không trung thành mù quáng với học thuyết Đảng, và “dường như thứ quyền lực kiểm duyệt từng làm câm lặng các thành viên Đại sứ quán không đủ khiến anh ta sợ hãi.”
Như những kẻ khác cầu hôn Martha, Boris cố gắng thoát khỏi sự đeo bám của Quốc xã, bằng cách lái xe đường dài đưa cô về nông thôn. Anh lái chiếc Ford mui trần mà anh rất yêu thích. Agnes Knickerbocker nhớ lại Boris “cẩn thận đến thế nào khi đi đôi găng tay da rất đẹp trước khi cầm vô lăng”. Anh ấy “là một nhà vô sản kiên định,” cô viết, nhưng “anh ấy cũng thích những gì được gọi là tốt đẹp trong cuộc đời.”
Anh gần như luôn luôn mở mui xe, chỉ đóng lại vào những đêm trời lạnh nhất. Khi quan hệ với Martha ngày càng sâu đậm, anh nhất mực đòi vòng tay qua người cô khi lái xe. Dường như anh cần được chạm vào cô mọi lúc. Anh sẽ đặt bàn tay cô lên đầu gối mình, hay xỏ những ngón tay của cô vào găng tay mình. Có lần lái xe về muộn trong đêm, đôi khi họ ở ngoài trời cho đến tận khi bình minh lên. Martha viết, “để cùng đón mặt trời mọc trong những khu rừng tối, tràn ngập sắc thu vàng”.
Cho dù tiếng Anh hạn chế, anh vẫn học và ngưỡng mộ từ “darling”, sử dụng nó bất kì lúc nào có thể. Ngoài ra, anh cũng dùng những từ tiếng Nga thể hiện sự yêu mến, nhưng không chịu dịch, bảo rằng nếu dịch ra sẽ làm mất vẻ đẹp của từ đó. Bằng tiếng Đức, anh gọi cô là “cô gái bé bỏng của anh”, hay “đứa trẻ ngọt ngào của anh”, hay “người tình bé nhỏ của anh”. Cô cho rằng anh nói vậy một phần vì chiều cao của cô, một phần vì toàn bộ nhận thức của anh về tư cách và sự trưởng thành của cô. “Anh ấy từng bảo rằng tôi ngây thơ và có chủ nghĩa lí tưởng mà anh không dễ dàng hiểu được,” cô viết. Cô cảm nhận được anh thấy cô quá “đồng bóng”, đến mức không tài nào truyền thụ nguyên lí chủ nghĩa Cộng sản cho cô. Cô nhận ra, đây chắc chắn là giai đoạn “tôi xuất hiện như một thiếu nữ Mỹ trẻ trung, ngây thơ và bướng bỉnh nhất, một nỗi khó chịu đối với tất cả những người nhạy cảm mà tôi biết.”
Cô thấy rằng Boris cũng xem nhẹ thế gian, ít nhất là ở bề ngoài. Cô viết “Ở tuổi ba mươi mốt, Boris giữ một niềm tin và sự hồn nhiên như trẻ thơ, một khiếu hài hước bốc đồng và sự quyến rũ không thường thấy ở đàn ông trưởng thành.” Tuy nhiên, thi thoảng thực tế vẫn len lỏi vào không gian Martha gọi là “thế giới mộng mơ của họ với những bữa tối, buổi hòa nhạc, những nhà hát và những hội hè đầy niềm vui”. Cô cảm nhận được trong anh sự căng thẳng. Anh đặc biệt hoang mang khi thấy thế giới dễ dàng chấp nhận những tuyên bố về hòa bình của Hitler ra sao, ngay cả khi rõ ràng hắn đã chuẩn bị cho đất nước bước vào chiến tranh. Liên bang Xô Viết có vẻ là mục tiêu thích hợp. Một nguồn cơn gây căng thẳng khác là việc Đại sứ quán Xô Viết phản đối quan hệ của anh với Martha. Các cấp trên đã có lời khiển trách. Nhưng anh lờ đi.
Trong khi đó, Martha cảm thấy sức ép không rõ ràng. Cô nghĩ cha mình thích Boris, nhưng ông thường xuyên không bộc lộ suy nghĩ trước mặt anh, “ngay cả đôi khi quan điểm trái ngược”. Cô đoán rằng đó là do ông sợ cô và Boris có thể cưới nhau.
“Bạn bè và gia đình em rất lo âu về chuyện chúng mình,” cô nói với Boris. “Vì đâu nên nỗi chứ? Chỉ thấy phức tạp, giờ thì vui đấy, nhưng có lẽ chỉ còn thất vọng thôi.”
Chuẩn bị cho một trong các cuộc hẹn vào tháng Chín, Boris và Martha mang theo bữa trưa đi dã ngoại về miền nông thôn. Họ tìm thấy một trảng cỏ kín đáo, liền trải thảm và bày đồ ăn. Không khí ngập tràn hương thơm cỏ mới cắt. Khi Boris nằm xuống ngắm trời và mỉm cười, Martha ngắt một cây bạc hà dại ngoáy ngoáy mặt anh.
Sau này, cô phát hiện ra anh đã giữ lại nhánh bạc hà đó. Anh là một kẻ lãng mạn, một người sưu tầm kho báu. Ngay từ khi bắt đầu mối quan hệ, anh đã rất day dứt và tình cờ bị giám sát chặt chẽ.
Có vẻ đến lúc này, Martha không biết nhiều phóng viên đã nghi ngờ: Boris không chỉ đơn thuần là bí thư thứ nhất của Đại sứ quán, mà còn là một mật vụ tình báo Xô Viết, NKVD69, tiền thân của KGB70.
69 NKVD: Bộ Dân ủy Nội vụ của Liên bang Xô Viết.
70 KGB: Ủy ban An ninh Quốc gia, cơ quan mật vụ của Liên bang Xô Viết