Dodd phải đối phó với các cuộc tấn công nhắm vào người Mỹ, những kẻ phản đối, Hitler và thuộc cấp của hắn cùng những hành động không thể đoán trước. Thêm vào đó là sự cần thiết phải dò từng bước thận trọng, đề phòng hành vi của giới quan chức, đến nỗi chỉ cần đi sai một bước là có thể bị bỏ tù. Tất cả những điều này gặm mòn sức khỏe Dodd. Ông bị những cơn nhức đầu và đau dạ dày hành hạ. Trong lá thư gửi một người bạn, ông mô tả chức đại sứ của mình như “quyền rơm vạ đá chẳng thú vị gì”.
Trên hết, chính là những rắc rối hằng ngày, mà ngay cả các đại sứ cũng phải đương đầu.
Giữa tháng Chín, gia đình Dodd nghe thấy rất nhiều tiếng ồn phát ra từ tầng bốn ngôi nhà họ thuê trên phố Tiergartenstrasse, tầng này vốn được cho là chỉ dành cho mẹ con Panofsky. Không nói trước với Dodd một câu, vào lúc bảy giờ mỗi ngày, một nhóm thợ mộc đến và bắt đầu tay búa tay cưa, la hét ầm ĩ liên tục trong hai tuần. Ngày 18 tháng 09, Panofsky viết một thông báo ngắn gửi Dodd: “Tiện đây, tôi xin thông báo với ngài rằng, vào đầu tháng tới, vợ con tôi sẽ quay về Berlin, sau thời gian ở nông thôn. Tôi tin rằng họ sẽ không ảnh hưởng đến sự thoải mái của quý ngài và phu nhân, vì mong muốn của tôi là quý ngài sẽ ở lại trong nhà tôi càng thoải mái càng tốt.”
Panofsky đưa vợ con lên tầng bốn, cùng vài người hầu.
Dodd bị sốc. Ông soạn ngay một lá thư cho Panofsky, được biên tập rất tỉ mỉ, gạch xóa và thay đổi từng dòng một, rõ ràng nhận thức được chuyện này không chỉ là quan hệ người thuê - chủ nhà thông thường. Panofsky đang đưa gia đình mình quay về Berlin, vì sự hiện diện của Dodd bảo đảm cho họ được an toàn. Bản thảo đầu tiên lá thư của Dodd gợi ý rằng có thể bây giờ gia đình ông phải dọn đi, và khiển trách Panofsky đã không tiết lộ các kế hoạch của mình vào tháng Bảy. Nếu đây là bản chính, Dodd sẽ viết, “[lẽ ra] chúng ta không nên lâm vào tình thế đáng xấu hổ như thế này”.
Bản thảo cuối cùng của Dodd nhẹ nhàng hơn. “Chúng tôi thực sự rất hạnh phúc khi nghe tin gia đình ngài được đoàn tụ,” ông viết, bằng tiếng Đức. “Mối bận tâm duy nhất của chúng tôi là các cháu của ngài sẽ không thể tự do sử dụng toàn bộ ngôi nhà như ý muốn. Chúng tôi đã mua nhà ở Chicago, nên con cái chúng tôi đã trải nghiệm những niềm vui của cuộc sống ngoài trời. Tôi sẽ rất buồn, khi cảm thấy chúng tôi có thể đã cản trở các cháu của ngài tự do vận động, vui đùa. Giá mà chúng tôi biết các kế hoạch của ngài vào tháng Bảy, hẳn chúng tôi sẽ không để mình lâm vào tình thế khó khăn này.”
Gia đình Dodd, giống như bao kẻ thuê nhà bị lợi dụng ở khắp nơi, quyết tâm đầu tiên phải kiên nhẫn, hi vọng rằng sự hỗn loạn do lũ trẻ và đám người hầu gây ra rồi sẽ giảm đi.
Nhưng điều đó không xảy ra. Tiếng ồn ào người ra người vào, lũ trẻ luôn xuất hiện bất ngờ gây ra những tình huống dở khóc dở cười, đặc biệt khi Dodd tiếp các nhà ngoại giao và quan chức Đế chế cao cấp. Đây là những kẻ vốn đã có thiên hướng khinh thường sự tằn tiện của Dodd - những bộ đồ giản dị, thói quen cuốc bộ đi làm, cùng chiếc Chevrolet cũ rích. Và bây giờ là sự xuất hiện bất ngờ của cả một gia đình Do Thái.
“Quá ầm ĩ và hỗn loạn, đặc biệt là khi văn phòng của mình phải tiếp khách thường xuyên,” Dodd viết trong hồi kí. “Mình nghĩ ai đó hẳn sẽ cho rằng đây là hành động bội tín.”
Dodd đi hỏi ý kiến luật sư.
Những rắc rối với chủ nhà và những bổn phận khi là một đại sứ khiến Dodd ngày càng khó có thời gian hoàn thành cuốn Miền Nam ngày xưa. Ông chỉ có thể viết vài tiếng vào buổi tối và những ngày nghỉ cuối tuần. Ông nỗ lực tìm kiếm những cuốn sách, những tài liệu hẳn sẽ dễ kiếm hơn nhiều nếu ở Mỹ.
Tuy nhiên, chuyện đè nặng tâm tư ông nhất là tính phi lí của thế giới, mà giờ đây ông thấy mình trong đó. Ở mức độ nhất định, ông là tù nhân của quá trình tôi luyện bản thân. Là một sử gia, ông có quan điểm thế giới là sản phẩm của các thế lực lịch sử, các quyết định của những người ít nhiều có lí trí, và ông từng mong đợi những người xung quanh ông hành xử sao cho phải phép và lịch sự. Tuy nhiên, chính quyền của Hitler không hành xử như thế, và dân tộc này cứ thế chao đảo, từ thái cực khó hiểu này sang thái cực khó hiểu khác.
Ngay cả thứ ngôn ngữ do Hitler và đám quan chức đảng của hắn dùng cũng bị đảo ngược đến lạ lùng. Thuật ngữ “cuồng tín” lại mang nghĩa tích cực. Theo nhà ngữ văn Victor Klemperer, đang cư trú tại Berlin miêu tả, nó bất chợt mang nghĩa là “sự pha trộn vui vẻ của lòng can đảm và sự dâng hiến nhiệt thành”. Các tờ báo bị Quốc xã kiểm soát đăng liên tu bất tận “những lời thề nhiệt thành”, “những tuyên bố nhiệt thành” và “những niềm tin nhiệt thành”, tất cả đều là những điều tốt đẹp. Göring được miêu tả như một “người yêu động vật cuồng nhiệt”, Fanatischer Tierfreund.
Klemperer phát hiện mấy từ cũ mang nghĩa khá thô khi được dùng lại. Übermensch: người thượng đẳng. Untermensch: người hạ đẳng, tức là “Do Thái”. Toàn bộ các từ mới cũng đang xuất hiện, trong số này có Strafexpedition - “cuộc chinh phạt”- cái tên Sư đoàn Bão tố đem đặt cho các vụ cướp phá những vùng Cộng sản và Do Thái lân cận.
Klemperer phát hiện sự “cuồng loạn ngôn ngữ”, trong cơn lũ các nghị định, cảnh báo và đe dọa mới - “Đe dọa không ngừng đi kèm với án tử hình!” - và trong các sự kiện quan trọng lạ lùng, không thể cắt nghĩa, hoang tưởng đến quá thể, như cuộc khám xét trên toàn quốc mới đây. Trong tất cả các sự kiện này, Klemperer thấy một nỗ lực thận trọng, nhằm tạo ra một tình huống kịch tính mỗi ngày, “sao chép từ các bộ phim giật gân của Mỹ”, để chắc chắn người dân sẽ cư xử đúng mực. Ông cũng đánh giá đây là biểu hiện thiếu tự tin giữa những kẻ nắm quyền lực. Cuối tháng Bảy năm 1933, Klemperer xem một bộ phim tài liệu, trong đó Hitler, với hai bàn tay nắm lại và mặt mũi nhăn nhó, rít lên, “Ngày 30 tháng 01, bọn chúng” - đến đây Klemperer đồ rằng hắn muốn nói đến dân Do Thái - “cười nhạo ta - nụ cười đó sẽ biến mất trên gương mặt chúng!” Klemperer choáng váng trước thực tế rằng, cho dù Hitler đang cố gắng chứng tỏ quyền lực vạn năng, có vẻ hắn đang trong cơn giận dữ điên cuồng, không kiểm soát được. Nghịch lí ở chỗ, cơn giận ấy lại làm suy yếu những lời khoe khoang của hắn, rằng Đế chế mới sẽ tồn tại một nghìn năm, rằng tất cả các kẻ thù của hắn sẽ bị tuyệt diệt. Klemperer tự hỏi, liệu ngài có nói chuyện trong cơn giận mù quáng như thế, “nếu ngài chắc chắn về sự trường tồn và hủy diệt này?”
Hôm ấy, ông rời rạp chiếu phim “với gần như chỉ một tia hi vọng.”
Tuy nhiên, trong thế giới bên ngoài cửa sổ nhà Dodd, những bóng đen ngày càng trở nên đáng sợ hơn. Một cuộc tấn công khác nhằm vào người Mỹ lại xảy ra. Một đại diện của chuỗi siêu thị rẻ tiền Woolworth, tên là Roland Velz, bị tấn công tại Düsseldorf hôm Chủ nhật, ngày 08 tháng 10 năm 1933, khi ông ta cùng vợ đang thả bước trên một trong các con phố chính của thành phố. Giống như nhiều nạn nhân khác trước đó, cái tội họ phạm phải là không để ý đến đoàn diễu hành của SA. Một tên lính Sư đoàn Bão tố điên tiết đánh Velz rất mạnh vào mặt hai lần liên tiếp, trước khi bỏ đi. Khi Velz cố gắng báo cảnh sát bắt giữ tên đó, viên sĩ quan đã từ chối. Velz sau đó khiếu nại với một viên trung úy cảnh sát đang đứng gần đấy, nhưng anh ta cũng không chịu hành động. Thay vào đó, hắn lên lớp cấp tốc cho Velz biết nên chào ra sao và vào lúc nào.
Dodd gửi hai công hàm phản đối đến văn phòng ngoại giao, yêu cầu ngay lập tức bắt giữ kẻ tấn công. Nhưng ông không nhận được hồi âm. Một lần nữa, Dodd cân nhắc ý tưởng đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ “tuyên bố với thế giới rằng người Mỹ không an toàn tại Đức, rằng các du khách tốt nhất không nên tới đây”, nhưng rồi ông lại lưỡng lự.
Sự khủng bố dân Do Thái vẫn tiếp tục, thậm chí còn tinh tế và lan rộng hơn, khi quá trình Đồng bộ hóa được thúc đẩy. Vào tháng Chín, Chính phủ Đức thành lập Bộ Văn hóa Đế Chế, đặt dưới sự kiểm soát của Goebbels, nhằm tập hợp các nhạc công, diễn viên, họa sĩ, nhà văn, phóng viên, các nhà làm phim vào mối liên kết về ý thức hệ, và đặc biệt là về chủng tộc. Đầu tháng Mười, Chính phủ ban hành Luật Biên tập, ngăn cấm các tờ báo và các nhà xuất bản tuyển dụng người Do Thái, luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1934. Không một lĩnh vực nào bị bỏ qua: Bộ Bưu điện quy định rằng từ rày trở đi, khi cố gắng đánh vần một từ qua điện thoại, người gọi đến không được phép nói “D tức là David”, bởi vì từ “David” là một cái tên Do Thái. Thay vào đó, phải dùng cái tên “Dora”. Tương tự là “Samuel” sửa thành “Siegfried”. Và cứ thế. “Trong lịch sử xã hội chưa từng có chính sách nào lại cứng nhắc, vô lương tâm và mang tính hủy hoại như chính sách hiện tại chống dân Do Thái ở Đức,” Tổng Lãnh sự Messersmith nói với Thứ trưởng Philllips, trong một lá thư dài đề ngày 29 tháng 09 năm 1933. Ông viết, “Không cần biết ở trong hay ngoài nước Đức, chắc chắn mục đích của Đức là xóa sổ dân Do Thái khỏi cuộc sống của người Đức.”
Đã có thời, Messersmith tin rằng khủng hoảng kinh tế của Đức sẽ lật đổ Hitler. Nhưng ông không tin vậy nữa. Giờ đây, ông thấy Hitler, Göring và Goebbels đã nắm quyền lực chắc chắn trong tay. Chúng “thực tế chẳng biết gì về thế giới bên ngoài”, ông viết. “Chúng chỉ biết rằng ở Đức, chúng có thể làm điều chúng muốn. Chúng cảm nhận được quyền lực của mình ở trong nước, đến mức khiến chúng say sưa.”
Messersmith đề xuất một giải pháp có thể là “can thiệp cưỡng bức từ bên ngoài”. Nhưng ông cảnh báo một hành động như thế sẽ phải diễn ra sớm. “Nếu lúc này có sự can thiệp của các cường quốc khác, có khả năng gần một nửa dân số Đức sẽ xem đó như vị cứu tinh,” ông viết. “Nếu bị trì hoãn quá lâu, sự can thiệp ấy có thể phải đương đầu với một nước Đức thực sự thống nhất.”
Messersmith tin vào một thực tế rõ ràng: Nước Đức giờ đây đã gây ra mối nguy hiểm thực sự và đáng sợ đối với thế giới. Ông gọi nó là “ung nhọt có thể quấy rối nền hòa bình của chúng ta nhiều năm tới”.
Dodd bắt đầu cho thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự chán nản và mệt mỏi sâu sắc.
“Chẳng có gì ở đây là hứa hẹn cả,” ông viết thư cho một người bạn, Đại tá Edward M. House, “lại chỉ giữa chúng ta thôi nhé, tôi chẳng hề nghi ngờ chút nào về chuyện mùa xuân năm ngoái, trực giác mách bảo rằng tôi có thể làm việc ở Đức. Tôi có một tập Miền Nam ngày xưa cũng sớm xuất bản thôi. Còn những ba tập nữa. Tôi đã vất vả suốt hai mươi năm với cuốn sách này và không muốn đối mặt với nguy cơ không thể hoàn thành nó.” Kết thư, ông viết, “Giờ thì tôi đây, sáu mươi tư tuổi, làm việc từ mười đến mười lăm giờ một ngày! Chẳng đi đến đâu cả. Thế nhưng nếu tôi rút lui, thực tế sẽ trở nên phức tạp hơn.” Gửi người bạn Jane Addams, nhà cải cách sáng lập cơ sở dành cho người nghèo, có tên gọi Hull House tại Chicago, ông viết, “Công việc này cướp đi thời gian hoàn thành tác phẩm lịch sử của tôi, và tôi hoài nghi lựa chọn của mình hồi tháng Sáu liệu có đúng đắn không.”
Ngày 04 tháng 10 năm 1933, mới tròn ba tháng ở đây, Dodd gửi cho Ngoại trưởng Hull một lá thư đề “Tuyệt mật và chỉ ngài được đọc”. Sau khi dông dài về thời tiết ẩm ướt của không khí mùa thu và mùa đông Berlin, rằng ông chưa hưởng một kì nghỉ nào kể từ tháng Ba, Dodd đề nghị được nghỉ phép dài ngày đầu năm sau, để ông có thể dành nhiều thời gian cho trang trại của mình và việc giảng dạy ở Chicago. Ông hi vọng sẽ rời Berlin vào cuối tháng Hai, rồi trở lại đây ba tháng sau đó.
Ông dặn Hull giữ kín chuyện này. “Làm ơn đừng hỏi ý kiến bất kì ai, nếu ngài thấy nghi ngờ.”
Hull phê chuẩn đề nghị xin nghỉ phép của Dodd, gợi ý rằng vào thời gian này, Washington không xem đánh giá của Messersmith về nước Đức là nghiêm túc, dù ông ta nói đến mối đe dọa đang tăng lên. Các nhật kí của Thứ trưởng Phillips và Trưởng phòng Các Vấn đề Tây Âu Moffat cho thấy rõ một điều, mối bận tâm chính của Bộ Ngoại giao vẫn là khoản vay khổng lồ Đức nợ Mỹ.