Mùa thu đang đến gần và thách thức lừa gạt những kẻ theo đuổi trong đời đối với Martha có phần nào đó mất hứng thú, vì một lí do đáng buồn: Diels biến mất.
Một tối đầu tháng Mười, Diels đang làm việc muộn trong văn phòng tại Prinz-Albrecht-Strasse 8, thì vào quãng nửa đêm, hắn nhận được cuộc điện thoại của vợ, Hilde, nghe giọng có vẻ cực kì bấn loạn. Như sau này hắn thuật lại trong hồi kí, Lucifer trước cổng - vợ hắn kể rằng “một đội” có vũ trang, mặc đồng phục đen đột nhập vào căn hộ của hai vợ chồng, nhốt cô ta trong buồng ngủ, sau đó chúng hùng hổ khám xét, thu thập các nhật kí, thư từ và nhiều hồ sơ khác Diels cất ở nhà. Hắn lộn về căn hộ của mình, cố gắng thu thập lại đầy đủ thông tin giúp nhận diện những kẻ đột nhập, chúng là đội đặc nhiệm SS, theo lệnh của Đại úy Herbert Packebusch. Diels viết, Packebusch chỉ mới ba mươi mốt tuổi, nhưng “vẻ khắc nghiệt và nhẫn tâm hiện rõ trên mặt y”. Diels nói y đích thị là “nguyên mẫu và hình ảnh của bọn sĩ quan chỉ huy trại tập trung sau này”.
Cho dù Diels ngạc nghiên trước đòn tấn công liều lĩnh của Packebusch, nhưng hắn hiểu các thế lực giật dây đằng sau. Chế độ sôi sục xung đột và âm mưu. Diels ban đầu nghi Göring, vì Göring nắm giữ hết thế lực cảnh sát ở Berlin và kiểm soát vùng lãnh thổ xung quanh Phổ, bang rộng lớn nhất trong các bang của Đức. Nhưng Heinrich Himmler, trùm SS, đang nhanh chóng giành quyền kiểm soát các cơ quan cảnh sát mật, trên khắp phần còn lại của nước Đức. Göring và Himmler kèn cựa nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau.
Diels hành động rất nhanh. Hắn gọi cho một người bạn phụ trách đồn Tiergarten của cảnh sát Berlin, yêu cầu tập hợp một lực lượng các sĩ quan không mặc đồng phục, mang theo súng máy và lựu đạn cầm tay. Diels dẫn chúng đến một cứ điểm của SS trên phố Potsdamer Strasse và chỉ đạo chúng bao vây tòa nhà. Lính gác cửa SS không nhận thức được đã xảy ra chuyện gì, ngây thơ dẫn Diels cùng một đội cảnh sát vào văn phòng của Packebush.
Và hắn thực sự sốc toàn tập. Khi bước vào, Diels trông thấy Packebusch đang ngồi tại bàn làm việc, trên người chỉ mặc sơ mi, chiếc áo khoác đồng phục đen đang mắc trên tường gần đó, cùng thắt lưng và bao súng. “Y ngồi đó, đang nghiền ngẫm các tài liệu trên bàn như một học giả đang làm việc về đêm,” Diels viết. Hắn nổi cơn cuồng nộ. “Y đang xem xét các tài liệu của tôi, và tôi sớm phát hiện ra y muốn làm tôi bẽ mặt, với những chú thích vớ vẩn.” Diels thấy Packebusch thậm chí đã biết vợ chồng Diels trang trí căn hộ của họ theo phong cách kinh dị. Trong một lá thư, Packebusch đã ghi nguệch ngoạc dòng chữ “phong cách trang trí theo kiểu Stresemann,” một lời ám chỉ đến Gustav Stresemann71, một kẻ chống đối Hitler thời Weimar.
71 Gustav Stresemann (1878 - 1929): từng là Thủ tướng, và sau đó là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Đức, thời kì Cộng hòa Weimar. Ông được trao giải Nobel Hòa bình năm 1926.
“Ngươi đã bị bắt,” Diels nói.
Packebusch chợt ngước mắt lên. Phút trước y còn đang đọc giấy tờ cá nhân của Diels, phút sau Diels đã đang đứng trước mặt y. “Packebusch chưa kịp hết ngạc nhiên,” Diels viết. “Y nhìn tôi trừng trừng như thể tôi là quỷ hiện hình.”
Lính của Diels bắt giữ Packebusch. Một sĩ quan lấy khẩu súng ngắn của viên đại úy SS từ bao súng trên tường, nhưng rõ ràng không ai tiến hành khám xét chính Packebusch. Các sĩ quan cảnh sát tỏa ra khắp tòa nhà bắt giữ nhiều người khác, những kẻ mà Diels tin rằng có tham gia vụ đột nhập vào căn hộ của hắn. Tất cả nghi phạm được chuyển về trụ sở Gestapo, còn Packebusch bị giải đến văn phòng của Diels.
Tại đó, vào những giờ đầu tiên của buổi sáng, Diels và Packebusch ngồi đối diện nhau, mặt cả hai cùng tím lại. Con chó lai sói giống Alsatin của Diels - hồi ấy là tên chính thức của chó chăn cừu Đức - ở gần đó trông chừng.
Diels đã thề sẽ tống Packebusch vào ngục. Packebusch buộc tội Diels âm mưu phản quốc.
Tức giận trước sự hỗn xược của Packebusch, Diels xô ghế chồm dậy trong lửa giận bừng bừng. Packebusch buông ra những lời tục tĩu, rút ra khẩu súng ngắn giấu trong túi quần sau. Y nhắm khẩu súng vào Diels, ngón tay đặt trên cò súng.
Con chó của Diels xông vào, chồm lên Packebusch, theo mô tả của Diels. Hai viên sĩ quan không mặc đồng phục túm lấy Packebusch và giật khẩu súng khỏi tay y. Diels ra lệnh tống y vào nhà lao của Gestapo, dưới tầng hầm.
Nhanh như cắt, Göring và Himmler nhúng tay vào và đạt được một thỏa thuận. Göring bãi chức trùm Gestapo của Diels, giáng hắn xuống làm phó ủy viên cảnh sát Berlin. Diels nhận ra rằng công việc mới này là sự sỉ nhục, chẳng có thực quyền - ít nhất không phải kiểu quyền lực hắn sẽ cần để đối phó với Himmler, nếu tên trùm SS này muốn trả thù thêm nữa. Tuy nhiên, hắn vẫn chấp nhận thỏa thuận, và mọi việc dừng lại ở đó cho đến một buổi sáng cuối tháng, khi hai nhân viên trung thành chặn hắn lại trên đường lái xe đi làm. Chúng bảo hắn rằng các mật vụ SS đang đợi hắn trong văn phòng của hắn với một lệnh bắt.
Diels đào tẩu. Trong hồi kí, hắn khẳng định vợ hắn khuyên nên mang theo một người bạn, một phụ nữ Mỹ, “cô ta có thể hữu ích khi băng qua biên giới”. Cô ta sống trong “một căn hộ trên phố Tiergartenstrasse,” hắn viết, và cô ta là người thích rủi ro. “Mình biết sự nhiệt tình của cô ta đối với nguy hiểm và phiêu lưu.”
Những đầu mối khiến hắn lập tức nghĩ đến Martha, nhưng cô không đề cập gì về chuyến đi này trong hồi kí, cũng như trong bất kì văn bản nào khác của mình.
Diels cùng người bạn đồng hành lái xe đến Potsdam, sau đó tiến về biên giới ở phía nam, nơi hắn bỏ lại xe trong gara. Hắn mang theo một hộ chiếu giả. Họ băng qua biên giới, tiến vào Tiệp Khắc, rồi đi tiếp đến thành phố có suối nước khoáng Carlsbad, nơi họ đặt phòng trong một khách sạn. Diels cũng mang theo một hồ sơ nhạy cảm hơn của hắn, như một sự bảo đảm.
Hans Gisevius, người viết hồi kí Gestapo kể rằng, “Từ nơi ẩn náu của mình tại Bohemia, Diels đe dọa sẽ công bố những tiết lộ đáng xấu hổ. Để đổi lấy sự im lặng, hắn đề nghị phải trả giá thật cao.”
Với việc Diels biến mất, nhiều người trong đám bạn bè ngày càng tăng của Martha hẳn nhiên thấy dễ thở hơn nhiều, đặc biệt những ai trót đồng cảm sâu sắc với các nhà cộng sản, hoặc khóc than cho sự mất tự do của quá khứ Weimar. Đời sống xã hội của cô tiếp tục phát triển.
Trong số tất cả bạn bè mới, người hấp dẫn nhất đối với cô là Mildred Fish Harnack, người phụ nữ cô gặp gỡ lần đầu tiên trên sân ga, khi gia đình cô đến Berlin. Mildred nói tiếng Đức chuẩn xác. Nhiều người tả rằng, dáng người cô ấy cao ráo, mảnh mai, mái tóc dài vàng óng quấn thành búi dày, cùng đôi mắt xanh to, mang vẻ nghiêm túc. Cô ấy không bao giờ trang điểm. Sau này khi một bí mật nhất định của cô ấy bị lộ, mô tả phác thảo về cô ấy trong các hồ sơ tình báo Xô Viết, “rất giống phụ nữ Đức, kiểu phụ nữ vùng Nordic mãnh liệt và rất giỏi giang.”
Martha nhận thấy, cô ấy nổi bật không chỉ do vẻ bề ngoài, mà còn ở tính cách. “Chị ấy nói và bày tỏ ý kiến chậm rãi,” Martha viết, “chị ấy lặng lẽ lắng nghe, cân nhắc, đánh giá các từ ngữ, ý tưởng và động cơ của cuộc đối thoại... Những lời nói của chị ấy rất sâu sắc, đôi khi mơ hồ, khi cần thiết phải thăm dò ý định của ai.”
Nghệ thuật phân tích các động cơ và thái độ của người khác trở nên đặc biệt quan trọng, xét đến những gì cô ấy cùng chồng, Arvid Harnack, đã trải qua vài năm trước. Hai người gặp nhau năm 1926 tại trường Đại học Wisconsin, nơi Mildred làm giảng viên. Họ kết hôn tháng Tám năm đó, chuyển đến Đức sinh sống và cuối cùng định cư tại Berlin. Suốt chặng đường, hai người thể hiện tài năng khiến mọi người xích lại gần nhau. Tại mỗi điểm dừng, họ đều đặn tổ chức các buổi họp để ăn uống, đối thoại, nghe các bài giảng, thậm chí đọc theo nhóm các vở kịch của Shakespeare72. Tất cả là sự mô phỏng một nhóm nổi tiếng họ đã tham gia tại Wisconsin, Friday Niters, người sáng lập là John R. Commons, một giáo sư và là đảng viên Đảng Cấp tiến hàng đầu, một ngày sẽ được biết đến là “người cha tinh thần” của An sinh Xã hội.
72 William Shakespeare (1564 - 1616): nhà thơ và nhà viết kịch vĩ đại của Anh quốc.
Tại Berlin, vào mùa đông năm 1930 - 1931, Arvid thành lập thêm một nhóm khác, tận tâm nghiên cứu nền kinh tế kế hoạch của nước Nga Xô Viết. Khi Đảng Quốc xã mạnh mẽ hơn, lĩnh vực yêu thích của ông trở nên khó theo đuổi, tuy nhiên ông vẫn thu xếp và dẫn một nhóm, khoảng hơn hai mươi nhà kinh tế học và kĩ sư Đức đi tham quan Liên bang Xô Viết. Trong khi ở nước ngoài, ông được tình báo Xô Viết bí mật tuyển mộ làm việc cho họ, chống Quốc xã.
Ông đồng ý.
Khi Hitler lên nắm quyền, Arvid cảm thấy buộc phải giải tán nhóm kinh tế kế hoạch của mình. Không khí chính trị ngày càng nguy hiểm chết người. Ông cùng Mildred lui về vùng nông thôn, nơi Mildred dành thời gian viết lách và Arvid nhận công việc làm luật sư cho hãng hàng không Đức Lufthansa. Sau khi đợt khủng bố cộng sản lắng xuống, nhà Harnack quay về căn hộ của họ ở Berlin. Xét theo hoàn cảnh của ông, đáng ngạc nhiên khi Arvid lại nhận được việc làm trong Bộ Kinh tế học và bắt đầu thăng tiến nhanh chóng, đến mức khiến vài người bạn của Mildred tại Mỹ khẳng định hai vợ chồng họ đã bị “Quốc xã hóa”.
Ngay từ đầu, Martha chẳng biết gì về cuộc sống bí mật của Ar- vid. Cô thích ghé thăm căn hộ của hai vợ chồng, sáng sủa, ấm áp và pha trộn những sắc màu dễ chịu: “những màu nâu vàng nhạt và xanh dương dịu dàng”. Các bình hoa to trong nhà Mildred cắm đầy hoa oải hương cánh bướm, đặt đối diện bức tường màu vàng nhạt. Martha và Mildred đến chơi với nhau thường xuyên như những tâm hồn tương đồng, cả hai cùng quan tâm sâu sắc đến chuyện viết lách. Cuối tháng Chín năm 1933, hai người thu xếp làm một chuyên mục về các cuốn sách, trên một tờ báo bằng tiếng Anh tên là Berlin Topics. Ngày 25 tháng
09 năm 1933, trong bức thư gửi Thornton Wilder, Martha đã mô tả tờ báo là “tệ hại”, nhưng nói rằng cô hi vọng có thể đóng vai trò như chất xúc tác, “để xây nên một khu kiều dân bé nhỏ trong cộng đồng nói tiếng Anh ở đây... Tập hợp lại những người yêu thích sách và các tác giả.”
Khi nhà Harnack đi du ngoạn, Mildred gửi cho Martha các tấm bưu thiếp, trên đó cô viết các quan sát đẹp như thơ về khung cảnh trước mặt, những sự bày tỏ tình cảm ấm áp. Trên một tấm thiếp, Mildred viết, “Martha này, em có biết rằng chị quý em và lúc nào cũng nghĩ đến em.” Cô ấy cảm ơn Martha vì đã đọc và phê bình một vài đoạn văn của mình. “Em có năng khiếu đấy,” cô ấy viết.
Kết thư là tiếng thở dài say khướt. “Ôi, ôi cuộc sống... đáng yêu của chị...” Dấu ba chấm là của cô.
Đối với Martha, các tấm thiệp này giống như những cánh hoa rụng xuống, từ nơi cô chưa biết đến. “Tôi trân quý những tấm bưu thiếp và lá thư ngắn này, với những đoạn văn tinh tế, nhạy cảm gần như khiến tôi run rẩy. Chẳng có gì là gượng ép hay giả tạo cả. Cảm xúc chỉ đơn giản tuôn trào từ trái tim vui tươi, căng tràn sức sống của chị ấy, và được diễn tả bằng câu chữ.”
Mildred trở thành khách quen tại các buổi họp chính thức ở Đại sứ quán, tháng Mười một, cô ấy được trả thêm tiền khi đánh máy bản thảo tập đầu tiên cuốn Miền Nam ngày xưa của Dodd. Đáp lại, Martha thường xuyên đến địa điểm gặp mặt mới do Mildred và Arvid thành lập, một phiên bản của Friday Niters tại Berlin. Từng có kinh nghiệm tổ chức, họ tập hợp được một nhóm những người bạn trung thành - các nhà văn, nhà biên tập, nghệ sĩ, nhà trí thức - họp nhau tại căn hộ của họ vài lần mỗi tháng, thưởng thức các bữa ăn nhẹ vào các ngày trong tuần, những buổi thưởng trà chiều thứ Bảy. Trong lá thư gửi Wilder, Martha viết tại đây cô đã gặp nhà văn Ernst von Salomon, người có tai tiếng vì dính vào vụ ám sát Cựu Ngoại trưởng của nền Cộng hòa Weimar, Walter Rathenau. Cô yêu thích bầu không khí ấm áp Mildred tạo nên, dù cho cô không có nhiều tiền để chi. Có đèn, nến và hoa, một khay bánh mì mỏng, pho mát, xúc xích gan và cà chua cắt lát. Không phải một bữa tiệc, nhưng thế là đủ. Martha nói với Wilder, chủ tiệc “là một người không hiểu sao thích đặt cây nến đằng sau một chùm hoa tầm xuân hoặc hoa hồng đỗ quyên.”
Nội dung cuộc đối thoại thật thông minh và táo bạo. Đôi khi là quá táo bạo, ít nhất là theo quan điểm của vợ Salomon,dù cho bà ta là người Do Thái. Bà ta kinh hoàng khi các vị khách gọi Himmler và Hitler là “bọn cực ngu”, thật thô lỗ làm sao, mà quên mất bà ta là ai, hay bà ta nên đồng cảm với ai. Bà ta quan sát một vị khách trao một phong bì màu vàng cho một người khác, rồi nháy mắt như thể lén cho kẹo trẻ con. “Tôi ngồi trên ghế đệm ngay đó,” bà ta nói, “và sợ đến nỗi không dám thở.”
Martha thấy thật hồi hộp và phấn khích, bất chấp thiên hướng chống Quốc xã của nhóm này. Cô ủng hộ nhiệt thành cuộc cách mạng Quốc xã, xem nó như một lối thoát ra khỏi hỗn loạn đã nhấn chìm nước Đức, kể từ cuộc chiến tranh trước đó. Tham gia cuộc gặp mặt này, cô củng cố ý thức bản thân mình là một nhà văn, nhà trí thức. Ngoài việc tham dự cuộc họp nhóm thường lệ của cánh phóng viên Stammtisch tại Die Taverne, cô bắt đầu dành nhiều thời gian hơn la cà ở các quán cà phê Berlin cũ, vốn chưa bị “đồng bộ hóa” hoàn toàn, như quán Josty trên đường Potsdamer Platz và quán bar cà phê Romanisches trên đường Kurfürstendamm. Quán này có thể phục vụ đến một nghìn người, từng có quá khứ nổi tiếng là nơi ẩn náu của những nhân vật như Erich Maria Remarque73, Joseph Roth74 và Billy Wilder75, cho dù đến nay, tất cả bọn họ đã rời khỏi Berlin. Cô thường xuyên ra ngoài ăn tối và đến các hộp đêm như Ciro’s và hộp đêm trên sân thượng khách sạn Eden. Giấy tờ của Đại sứ Dodd tuyệt không đả động gì đến chuyện này, nhưng xét theo tính tằn tiện của mình, ông chắc phải thấy việc Martha làm là đáng báo động, khiến gia đình hao tiền tốn của.
73 Erich Maria Remarque (1898 - 1970): tiểu thuyết gia nổi tiếng người Đức.
74 Joseph Roth (1894 - 1939): tiểu thuyết gia người Áo, gốc Do Thái.
75 Samuel “Billy” Wilder (1906 - 2002): nhà sản xuất và viết kịch bản phim người Mỹ gốc Áo. Ông từng dành giải Oscar cho nhà sản xuất phim xuất sắc nhất.
Martha đã hi vọng tự mình khẳng định được chỗ đứng trong bối cảnh văn hóa Berlin, không chỉ bằng ảnh hưởng của tình bạn giữa cô với gia đình Harnack, và cô muốn đó sẽ phải là một chỗ đứng đầy hứa hẹn. Cô đưa Salomon đến một buổi họp mặt chính thức trầm mặc của Đại sứ quán Mỹ, rõ ràng hi vọng tạo ra sự khuấy động. Cô đã thành công. Trong lá thư gửi Wilder, cô đắc chí trước phản ứng của đám đông khi Salomon xuất hiện: “sự kinh ngạc (có tiếng thở hổn hển và thầm thì kín đáo sau những bàn tay, trong cuộc họp cực kì thích hợp)... Ernst von Salomon! Kẻ tòng phạm trong vụ giết Ngoại trưởng Đức Rathenau...”
Cô thèm được chú ý và cô đã nhận được điều đó. Salomon đã mô tả các vị khách tập hợp tại một bữa tiệc của Đại sứ quán Mỹ - có khả năng chính là bữa tiệc đó - là “những thanh niên con nhà quyền quý của thủ đô, những nam thanh niên với tư cách hoàn hảo... mỉm cười quyến rũ, hoặc phá lên cười vui vẻ trước những câu nói hóm hỉnh, tinh quái của Martha Dodd.”
Cô ngày càng trở nên liều lĩnh hơn. Cô biết, đã đến lúc bắt đầu tổ chức vài bữa tiệc của riêng mình.
Tron khi đó, vẫn đang ở nước ngoài, và đang sống khỏe tại một khách sạn xa hoa ở Carlsbad, Diels bắt đầu tung quân do thám tình hình ở Berlin, xem liệu đã an toàn cho hắn quay về hay chưa.