Chương 18Cảnh báo từ một người bạn

Martha ngày càng thấy tự tin rằng mình có sức hút xã hội, rằng sức hút ấy đủ lớn để cô tổ chức một buổi gặp mặt ban chiều của riêng cô, bắt chước các bữa tiệc trà và nhóm thảo luận buổi tối của bạn cô, Mildred Fish Harnack. Cô cũng tự tổ chức tiệc sinh nhật. Nhưng chỉ khi bắt tay vào làm, cả hai sự kiện mới cho thấy chúng thực sự khác xa những gì cô kì vọng.

Ở khâu chọn khách mời, cô dùng các mối liên hệ riêng cũng như của Mildred. Cô mời vài chục nhà thơ, nhà văn và nhà biên tập, bề ngoài nhằm mục đích gặp gỡ một nhà xuất bản Mỹ đến thăm. Martha hi vọng “được nghe cuộc đối thoại thú vị, trao đổi một vài quan điểm hay ho, ít nhất là được nghe nói chuyện ở tầm cao hơn những gì cô đã quen trong giới ngoại giao”. Tuy nhiên, các vị khách còn mang đến một người bạn đồng hành bất ngờ.

Thay vì hình thành một nhóm sống động và sôi nổi với cô là trung tâm, đám đông bị phân tán, chỗ này một nhóm, chỗ kia một nhóm. Một nhà thơ ngồi trong thư viện với vài vị khách tụm lại gần đó. Số khác bu xung quanh một vị khách danh dự, cho thấy một điều Martha gọi là “sự háo hức đáng thương muốn biết chuyện gì đang xảy ra tại Mỹ”. Các vị khách Do Thái của cô tỏ ra đặc biệt khó chịu. Cuộc thảo luận bị kéo dài, chỉ tập trung vào ăn và uống. “Những vị khách còn lại đứng xung quanh uống như hũ chìm và ngấu nghiến các đĩa đồ ăn,” Martha viết. “Có lẽ phần nhiều trong số họ rất nghèo, và thực sự đói ăn, số khác bị căng thẳng và nôn nóng muốn che giấu cảm xúc.”

Martha viết, tóm lại “đó là một buổi chiều vừa tẻ ngắt, vừa căng thẳng”. Vị khách không mời thật đáng sợ, ám ảnh buổi họp mặt. Cô viết, đám đông “toàn những linh hồn giận dữ và đau khổ... Căng thẳng, kiệt quệ, đánh mất lòng can đảm, sợ hãi bi kịch, lo sẽ bị căm ghét, đến nỗi tôi thề không bao giờ lập một nhóm như thế trong nhà mình nữa.”

Thay vào đó, cô tự hài lòng với việc giúp nhà Harnack tổ chức các buổi tiệc tối và tiệc trà thường kì. Họ cho thấy mình có tài trong việc tập hợp những người bạn trung thành, hấp dẫn và kéo họ lại gần nhau. Đối với Martha, ý tưởng rằng kiểu tiệc tùng này sẽ giết chết họ vào một ngày nào đó là cực kì buồn cười.

Danh sách khách mời cho bữa tiệc sinh nhật của cô, dự kiến tổ chức vào ngày 08 tháng 10, có bao gồm một công nương, một hoàng tử, vài người bạn phóng viên của cô, cùng rất nhiều sĩ quan SA và SS, “trẻ tuổi, gót giày khua lách cách, lịch thiệp gần như đến vô lí”. Chuyện Boris Winogradov có tham dự hay không vẫn còn là ẩn số, cho dù đến giờ này, Martha đã xem anh ta như “khách quen”. Có thể, thậm chí là nhiều khả năng cô không mời anh, vì người Mỹ vẫn chưa chịu thừa nhận Liên bang Xô Viết.

Hai quan chức Quốc xã nổi bật lần đầu xuất hiện tại bữa tiệc. Một người là Putzi Hanfstaengl, người kia là Hans Thomsen, một thanh niên từng làm liên lạc viên giữa Bộ Ngoại giao với văn phòng lãnh sự của Hitler. Anh ta rất biết kiềm chế, xúc cảm không bao giờ hiện rõ trên nét mặt, không như những kẻ cuồng tín Quốc xã khác. Kết quả là anh ta rất được lòng các thành viên của ngoại giao đoàn, và trở thành vị khách thường xuyên đến nhà Dodd. Cha của Martha thường nói chuyện với anh ta một cách bỗ bã, thân mật hơn mức cho phép trong nghi thức ngoại giao, tự tin rằng Thomsen sẽ truyền đạt lại quan điểm của ông lên các quan chức Quốc xã cao cấp, có khả năng là với chính Hitler. Đôi khi Martha có ấn tượng rằng Thomsen có thể che giấu những lo ngại cá nhân của anh ta về Hitler. Cha con cô đều gọi anh ta là “Tommy”.

Hanfstaengl đến muộn, một thói quen của anh ta. Anh ta thèm khát được chú ý, nhờ chiều cao và năng lượng dồi dào, anh ta luôn thu hút mọi người, không cần biết trong phòng có bao nhiêu người. Anh ta đắm chìm vào cuộc trò chuyện với một vị khách sành nhạc về những cái hay của bản Giao hưởng Số 8 của Schubert76. Khi Martha bước đến chiếc máy hát Vitrola của gia đình, cô bật đĩa nhạc có bài tụng ca Quốc xã Horst Wessel, bản nhạc cô từng nghe Sư đoàn Bão tố đi diễu hành hát tại Nuremberg.

76 Franz Peter Schubert (1797 - 1828): nhà soạn nhạc lừng danh người Áo.

Hanfstaengl có vẻ yêu thích âm nhạc. Rõ ràng, Hans Thomsen thì ngược lại. Anh ta đứng phắt dậy, bước đến chỗ máy nghe nhạc và giơ tay tắt phụt đi.

Ngây thơ hết mức có thể, Martha hỏi anh ta tại sao không thích nghe nhạc.

Thomsen trừng mắt, mặt sa sầm. “Đây không phải loại nhạc để chơi ở nơi tụ tập đông người một cách khiếm nhã như thế,” anh ta sửng cồ. “Tôi không khiến cô chơi bài ca của chúng tôi, với ý nghĩa quan trọng như thế, tại một bữa tiệc xã giao.”

Martha choáng váng. Đây là nhà cô, bữa tiệc của cô, và hơn thế, trên đất của Đại sứ quán Mỹ. Cô có thể làm bất kì điều gì cô thích.

Hanfstaengl nhìn Thomsen với ánh mắt được Martha diễn tả là “sinh động với sự thích thú xen lẫn coi thường”. Anh ta nhún vai, ngồi xuống bên cây đàn dương cầm và bắt đầu chơi một bản nhạc sôi động.

Sau đó, Hanfstaengl kéo Martha sang một bên. “Phải,” anh ta nói, “trong số chúng ta có vài người như thế. Những người có vùng cấm, không có khiếu hài hước - cô phải thật cẩn thận đừng xúc phạm linh hồn nhạy cảm của họ.”

Tuy nhiên, đối với Martha, thái độ của Thomsen ám ảnh mạnh mẽ đến ngạc nhiên - vì mặc dù nhẹ nhàng - nhưng nó đã làm xói mòn lòng nhiệt tình của cô về một nước Đức mới, như thể một câu nói cực kì nhẫn tâm có thể hủy hoại một cuộc hôn nhân.

“Cả cuộc đời mình, tôi đã quen bày tỏ và lắng nghe các quan điểm,” cô viết, “bầu không khí tối nay khiến tôi bị sốc, choáng váng, như kiểu vi phạm những lễ nghi trong quan hệ giữa người với người.”

Dodd cũng nhanh chóng thấu hiểu được tính nhạy cảm nóng bỏng trong ngày. Không có sự kiện nào đánh giá điều này tốt hơn bài diễn văn ông đọc trước chi nhánh Phòng Thương mại Mỹ tại Berlin, vào Ngày Columbus77, 12 tháng 10 năm 1933. Bài phát biểu của ông không chỉ khuấy động sự tranh cãi sôi nổi tại Đức, mà còn trong cả Bộ Ngoại giao và giữa nhiều người Mỹ ủng hộ việc Mỹ đứng ngoài các vấn đề châu Âu. Sau này khi biết điều đó, Dodd cảm thấy bất an.

77 Ngày Columbus: là ngày lễ ở nhiều quốc gia châu Mỹ, kỉ niệm sự kiện Christopher Columbus lần đầu tiên đến châu lục này.

Dodd tin rằng một phần quan trọng trong nhiệm vụ của ông đó là gây sức ép kín đáo hướng đến sự kiềm chế, hoặc như ông viết trong lá thư gửi luật sư Chicago, Leo Wormser, “tiếp tục thuyết phục và van xin những người dân ở đây đừng tự biến mình thành kẻ thù tồi tệ nhất của chính họ”. Lời mời đến phát biểu cho ông một cơ hội lí tưởng.

Kế hoạch của ông là dùng lịch sử để nói thay lời phê phán chế độ Quốc xã, nhưng không nói thẳng, sao cho chỉ những khán thính giả nào nắm chắc lịch sử cổ xưa và hiện đại mới hiểu thông điệp ngầm. Tại Mỹ, một bài diễn văn như thế này hẳn sẽ được nhìn nhận ngay là hào hùng, táo bạo và tích cực, ngay giữa làn sóng phản đối chính quyền Quốc xã ngày càng cao. Dodd giải thích động cơ của mình trong lá thư gửi Jane Addams, “Chính vì tôi đã thấy quá nhiều sự bất công và các nhóm nhỏ hách dịch, cũng như đã nghe những than phiền của bao nhiêu con người lỗi lạc nhất của quốc gia, nên tôi đành phải liều lĩnh ở mức độ chức vụ của tôi cho phép. Bằng cách vận dụng sự tương đồng về lịch sử, càng nghiêm trang càng tốt, tôi cảnh báo người dân chống lại những kẻ lãnh đạo có trí tuệ nửa vời, đang ngang nhiên dẫn dắt dân tộc này vào chiến tranh.”

Ông đặt cho bài viết cái tựa vô hại “Chủ nghĩa Quốc dân Kinh tế”. Bằng cách trích dẫn sự thăng trầm của Caesar và các sự kiện trong lịch sử Anh, Pháp và Mỹ, Dodd cố gắng cảnh báo mối nguy hiểm của chính phủ “chuyên quyền và thiểu số”, mà không thực sự đả động đến nước Đức đương đại. Đây không phải việc một nhà ngoại giao truyền thống có thể làm được, nhưng Dodd xem nó đơn giản chỉ là hoàn thành sự ủy thác ban đầu của Tổng thống Roosevelt. Về sau để bảo vệ mình, ông viết, “Tổng thống nhấn mạnh với tôi rằng ông ấy muốn tôi làm đại diện thường trực, và nhà phát ngôn (khi có dịp) để bày tỏ các lí tưởng, cũng như quan điểm triết học của nước Mỹ.”

Ông phát biểu trong một phòng dạ yến của khách sạn Adlon, trước lượng khán, thính giả đông đảo có bao gồm một số quan chức Chính phủ cao cấp, cả chủ tịch Ngân hàng Đế chế Hjalmar Schacht và hai người từ Bộ Tuyên truyền của Goebbels. Dodd biết ông sắp bước qua lằn ranh rất nhạy cảm. Trước sự có mặt của nhiều phóng viên nước ngoài trong phòng, ông cũng hiểu rõ bài phát biểu này sẽ được đăng tải rộng rãi trên báo chí tại Đức, Mỹ và Anh.

Khi bắt đầu đọc, ông cảm nhận được sự phấn khích thầm lặng lan tỏa khắp khán phòng. “Ở những thời điểm căng thẳng nhất,” ông bắt đầu, “con người rất dễ có khuynh hướng rũ bỏ các cách thức điều hành xã hội trước kia, liều lĩnh bước trên những chặng đường xa xôi chưa ai đến. Và hậu quả luôn có tác dụng ngược, đôi khi là thảm họa”. Ông mượn quá khứ xa xưa để bắt đầu hành trình bóng gió với các ví dụ về Tiberius Gracchus78, nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân túy, và Julius Caesar79. “Các chính khách không được học hành đầy đủ ngày nay đang mạnh mẽ xa rời mục đích lí tưởng của Gracchus I. Họ nghĩ rằng họ tìm thấy sự cứu rỗi cho dân tộc đang gặp khó khăn của mình theo các cách thức chuyên quyền, của một kẻ quá dễ gục ngã trước chiêu quyến rũ rẻ tiền của Cleopatra80 dâm dật.” Ông nói, họ quên rằng “lịch sử cho thấy Caesar đã thành công chỉ trong một thời gian ngắn.”

78 Tiberius Gracchus (169 TCN - 133 TCN): chính trị gia của Cộng hòa La Mã.

79 Gaius Julius Caesar (100 TCN - 44 TCN): tướng quân và nhà lãnh đạo kiệt xuất của La Mã, góp phần biến nước này từ chế độ cộng hòa thành đế chế.

80 Nữ hoàng Cleopatra VII (69 TCN - 30 TCN): vị pharaoh cuối cùng của vương triều Ptolemaic, ở Ai Cập cổ đại

Ông mô tả các thời điểm tương tự trong lịch sử Anh và Pháp, đưa ví dụ về Jean-Baptiste Colbert, Bộ trưởng Bộ Tài chính mạnh mẽ dưới thời vua Louis XIV. Trong lời ám chỉ rõ ràng đến mối quan hệ giữa Hitler và Hindenburg, ông kể chuyện làm sao Colbert “được ban cho thẩm quyền chuyên chế. Ông ta đã trục xuất hàng trăm gia đình lớn của những người mới giàu, tịch thu hết tài sản của họ cho Hoàng đế, xử tội chết hàng nghìn người vì họ chống đối ông ta... Sự chống đối với tầng lớp quý tộc ở khắp nơi bị đàn áp, các hội đồng không được phép tổ chức họp.” Cai trị chuyên chế kéo dài tại Pháp cho đến năm 1789, khi cuộc Cách mạng Pháp nổ ra, “với tiếng ầm như sấm động”, thể chế ấy đã sụp đổ. “Những kẻ cầm quyền cao nhất cũng thất bại thường xuyên như những kẻ ở dưới đáy. Từng thất bại vĩ đại tạo nên một phản ứng xã hội đáng buồn, hàng nghìn và hàng triệu con người bất lực phó mặc cuộc đời trong quá trình bất hạnh. Tại sao các chính khách lại không biết rút kinh nghiệm từ quá khứ, để tránh được những thảm kịch tương tự?”

Sau vài lời ám chỉ nữa, ông bắt đầu đi đến hồi kết. “Để kết thúc bài phát biểu,” ông nói, “có thể nói rằng, mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn, nếu nhờ rút kinh nghiệm từ quá khứ, các chính khách nhận ra, chẳng có hệ thống nào mà những kẻ hưởng ưu đãi kiểm soát xã hội lại có kết cục nào khác ngoài sụp đổ.” Không học hỏi được từ “những sai lầm ngớ ngẩn của tiền nhân,” cuối cùng sẽ tiến thẳng đến “một cuộc chiến và sự hỗn loạn khác.”

Dodd ghi trong nhật kí, tiếng vỗ tay thật “đáng kinh ngạc”. Trong bài mô tả khoảnh khắc này gửi Roosevelt, Dodd lưu ý ngay cả Schacht “cũng vỗ tay nhiệt liệt”, giống “tất cả những người Đức khác có mặt. Tôi chưa từng ghi nhận sự ủng hộ nào đồng tâm nhất trí như thế.” Ông viết thư cho Ngoại trưởng Hull, “Khi tôi phát biểu xong, từng người Đức có mặt đều thể hiện sự ủng hộ, cho thấy một suy nghĩ rằng, “Ngài đã nói ra những điều mà tất cả chúng tôi đều không có quyền được nói.” Một quan chức của Ngân hàng Deutsche đã gọi cho Dodd để bày tỏ sự ủng hộ của riêng mình. Ông ta nói, “Nước Đức im lặng nhưng lo âu, nhưng trên hết là một nước Đức hàn lâm và thương mại, hoàn toàn ủng hộ ngài. Rất cảm ơn ngài đã đến đây và nói những gì chúng tôi không thể nói.”

Chuyện các khán thính giả này hiểu được ý định thực sự trong bài diễn văn của Dodd là điều hiển nhiên. Rốt cuộc, Bella Fromm, phóng viên phụ trách mục xã hội của tờ Vossische Zeitung, người nhanh chóng trở thành bạn bè của gia đình Dodd, nói với ông, “Tôi yêu thích tất cả những ẩn ý chống Hitler và chủ nghĩa Hitler.”

Dodd nở nụ cười tinh quái. “Tôi chẳng có ảo tưởng gì về Hitler, khi được bổ nhiệm tại Berlin,” ông đáp. “Nhưng ít nhất tôi đã hi vọng tìm thấy một số người chính trực quanh Hitler. Tôi khiếp sợ khi phát hiện ra bọn chúng chẳng khác gì lũ tội phạm và hèn nhát.”

Sau này, Fromm chê trách Đại sứ Pháp ở Đức, André François-Poncet, vì bỏ lỡ bài diễn văn. “Tình hình đang rất khó khăn,” ông ta đáp, với một nụ cười. “Ngay khi làm nhà ngoại giao, anh phải biết che giấu cảm xúc của mình. Anh vừa phải làm hài lòng cấp trên ở quê nhà, vừa không để bị trục xuất khỏi đây, nhưng tôi thấy rằng Quý ngài Dodd không thể bị lung lay bởi trò xu nịnh và vinh hoa phú quý.”

Được phản hồi của khán thính giả kích thích, Dodd nói với Tổng thống Roosevelt, “Giải thích của tôi cho chuyện này là cả nước Đức tự do ở bên chúng ta - và hơn một nửa nước Đức về cơ bản theo chủ nghĩa tự do.”

Dodd nhanh chóng phát hiện phản ứng ở nơi khác kém tích cực hơn hẳn. Goebbels chặn không cho phát tán bài diễn văn, cho dù có ba tờ báo lớn đã đăng các đoạn trích. Ngày hôm sau, thứ Sáu, Dodd đến văn phòng của Ngoại trưởng Neurath tham dự cuộc họp đã lên kế hoạch từ trước, thì được bảo rằng Neurath không thể gặp ông - một sự vi phạm nguyên tắc ngoại giao trắng trợn. Trong điện tín gửi về Washington chiều hôm đó, Dodd nói với Ngoại trưởng Hull rằng có vẻ hành động của Neurath “là sự sỉ nhục đối với Chính phủ của chúng ta”. Cuối cùng, Dodd cũng gặp được Neurath vào lúc tám giờ tối hôm đó. Neurath khẳng định rằng mình quá bận rộn không thể gặp ông trong ngày được, nhưng Dodd biết rằng ngài Ngoại trưởng vẫn hoàn toàn có thể thu xếp ăn trưa với nhà ngoại giao cấp thấp hơn. Dodd viết trong nhật kí rằng ông nghi ngờ chính Hitler đã gây sức ép phải hủy bỏ cuộc gặp, “như đòn trả đũa bài diễn văn của tôi ngày hôm qua”.

Ông còn kinh ngạc hơn nữa, khi cảm nhận được cả làn sóng phê bình từ nước Mỹ, và ông phải tự tìm cách bảo vệ mình. Ông nhanh chóng gửi Tổng thống Roosevelt nguyên văn bài phát biểu, và nói với ngài ấy rằng ông làm thế vì sợ “những lời giải thích sai đáng xấu hổ có thể lan truyền tại quê nhà”. Cùng ngày hôm đó, ông cũng gửi một bản sao cho Thứ trưởng Phillips, “với hi vọng rằng ngài, vốn đã quen với tất cả những chuyện này, có thể giải thích cho Ngoại trưởng Hull - tức là phòng trường hợp ông ta, hay bất kì ai khác trong Bộ Ngoại giao nghĩ rằng tôi đang làm hại tới sự nghiệp của chúng ta ở đây.”

Nếu ông mong đợi Phillips sẽ đứng lên bảo vệ mình, thì ông đã nhầm.

Phillips và nhiều nhân viên cao cấp khác trong Bộ Ngoại giao, bao gồm cả Moffat, Trưởng phòng Các Vấn đề Tây Âu, đều đang ngày càng khó chịu với ngài Đại sứ. Các thành viên có cấp bậc cao nhất này trong “câu lạc bộ Pretty Good” của Hugh Wilson túm chặt lấy bài diễn văn của Dodd, như bằng chứng cho thấy chọn ông làm Đại sứ là sai lầm. Trong nhật kí, Moffat so sánh màn thể hiện của Dodd như “thầy giáo đang lên lớp cho học sinh”. Phillips, bậc thầy trong nghệ thuật đàm tiếu, vui sướng trước sự khó chịu của Dodd. Ông ta chẳng buồn chú ý mấy lá thư của Dodd, trong đó ngài Đại sứ muốn xin lời khuyên về việc có nên chấp nhận các đề nghị phát biểu trước công chúng trong tương lai. Cuối cùng, Phillips cũng hồi âm, nói xin lỗi và giải thích rằng “tôi nghi ngờ tiếng nói của mình có thể giúp, hoặc hướng dẫn ngài, người đang sống trong một thế giới hoàn toàn khác với thế giới mà hầu hết các đại sứ khác đang ở.”

Cho dù Phillips chúc mừng sự “tinh tế” Dodd thể hiện khi soạn bài diễn văn nói ra tâm tư của mình mà vẫn không xúc phạm trực tiếp, nhưng ông ta cũng kèm theo lời khiển trách nhẹ. “Nói ngắn gọn, tôi cảm thấy là một đại sứ, vị khách danh dự của đất nước anh ta làm việc, thì nên thận trọng, đừng bày tỏ ý kiến công khai về bất kì điều gì có tính phê phán nước sở tại. Bởi vì khi làm thế, việc này sẽ khiến anh ta đánh mất niềm tin từ phía chính các quan chức có thiện ý, một điều rất quan trọng đối với thành công của anh ta trong nhiệm vụ này.”

Dodd dường như không nhận thức được, nhưng vài thành viên của câu lạc bộ Pretty Good đã phát động chiến dịch chống lại ông, với mục tiêu cơ bản là loại ông ra khỏi hàng ngũ của họ. Vào tháng Mười, một người bạn lâu năm của ông, Đại tá House gửi cho ông một lời cảnh báo thầm lặng. Mở đầu là tin tốt. House vừa gặp gỡ Roosevelt. “Thật vui mừng khi nghe Tổng thống nói rằng ông ta vui hết sảy với những gì ngài đang làm tại Berlin.”

Nhưng sau đó House đã ghé thăm Bộ Ngoại giao. “Mong ngài cực kì kín miệng cho, họ không hồ hởi tán dương ngài như Tổng thống,” ông ta viết. “Tôi khăng khăng ép họ cho biết lí do cụ thể, nhưng họ chỉ bảo rằng ngài không cập nhật hết thông tin cho họ. Tôi báo ngài biết chuyện này để ngài biết đường lo liệu trong tương lai.”

Thứ bảy, ngày 14 tháng 10, hai ngày sau bài diễn văn, Ngày Columbus, Dodd đang tổ chức bữa tiệc tối cho các tùy viên quân sự và hải quân, thì nhận được một tin giật mình. Hitler vừa tuyên bố quyết định rút Đức ra khỏi Hội Quốc Liên81, và không tham dự một hội nghị giải trừ vũ trang lớn đã diễn ra không liên tục tại Geneva, kể từ tháng Hai năm 1932.

81 Hội Quốc Liên (League of Nations): là một tổ chức liên chính phủ, ra đời năm 1920. Sứ mệnh của tổ chức này là duy trì hòa bình thế giới.

Dodd tìm thấy một cái radio và ngay lập tức nghe giọng nói khàn khàn của Thủ tướng, cho dù ông giật mình khi Hitler không giở những trò giả tạo như mọi khi. Dodd lắng nghe chăm chú khi Hitler khắc họa nước Đức như một quốc gia có thiện ý, đang muốn tìm kiếm hòa bình với khát vọng khiêm tốn được bình đẳng về vũ trang, vốn đang bị các nước khác phản đối. “Đây không phải bài diễn văn của một nhà tư tưởng,” Dodd viết trong nhật kí, “mà là của một kẻ đa cảm cho rằng Đức không đời nào chịu trách nhiệm về cuộc Thế Chiến, và rằng đất nước này là nạn nhân của những kẻ thù nham hiểm.”

Đó là một diễn biến gây sốc. Trong cơn bàng hoàng, Dodd nhận ra Hitler đã làm suy yếu Hội Quốc Liên và gần như vô hiệu hóa Hiệp ước Versailles, rõ ràng tuyên bố Đức có ý định tái vũ trang. Hắn cũng tuyên bố đang giải tán Quốc hội và tổ chức các đợt bầu cử mới vào ngày 12 tháng 11. Cuộc bỏ phiếu kín cũng sẽ công khai cho dân chúng bày tỏ ý kiến về chính sách ngoại giao của hắn, qua hình thức trưng cầu dân ý: chấp nhận hay không chấp nhận. Hitler cũng bí mật ra lệnh cho Tướng Werner von Blomberg, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chuẩn bị đối phó với hành động quân sự có thể diễn ra của các thành viên Hội Quốc Liên muốn cố gắng thi hành Hiệp ước Versailles. Tuy nhiên, Blomberg biết rõ không thể hi vọng quân đội quá mỏng của Đức có thể chống đỡ cuộc tấn công của liên quân Pháp, Ba Lan và Tiệp Khắc. “Vào lúc này, tất cả các đồng minh có thể dễ dàng lật đổ Đức, hoàn toàn chắc chắn rằng một hành động như thế sẽ đặt dấu chấm hết cho Đệ tam Đế chế, đúng vào năm nó ra đời,” William Shirer viết trong tác phẩm kinh điển của ông, Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ ba. Nhưng Hitler “biết rõ nhuệ khí những kẻ thù nước ngoài của hắn, một cách thành thạo và chuẩn xác đến phi thường, như hắn đã từng đánh giá đối thủ của hắn ở trong nước.”

Cho dù Dodd có tiếp tục nuôi dưỡng hi vọng rằng Chính phủ Đức sẽ trở nên dân sự hơn, ông vẫn hiểu rằng hai quyết định của Hitler đã cho thấy sự xa rời đáng lo ngại khỏi xu thế ôn hòa. Ông biết đã đến lúc gặp gỡ Hitler mặt đối mặt.

Đêm đó, Dodd lên giường đi ngủ, lòng nặng trĩu lo âu. Ngay trước buổi trưa ngày thứ ba, 11 tháng 10 năm 1933, “đảng viên đảng tự do thường trực” của Tổng thống Roosevelt chuẩn bị áo mũ chỉnh tề cho cuộc gặp mặt đầu tiên với Adolf Hitler.