Trong mục nhật kí thứ Năm, ngày 28 tháng 06 năm 1934, Đại sứ Dodd viết, “Chỉ trong năm ngày qua, đã diễn ra đủ mọi chuyện, khiến bầu không khí ở Berlin căng thẳng hơn bất kì thời điểm nào tôi từng biết khi ở đây.” Bài diễn văn của Papen tiếp tục là chủ đề bàn tán mỗi ngày. Với sự tàn bạo ngày một tăng, Hitler, Göring, và Goebbels cảnh báo những hậu quả đối với bất kì kẻ nào dám chống đối Chính phủ. Trong bức điện tín gửi Bộ Ngoại giao, Dodd so sánh không khí căng thẳng này với không khí của cuộc Cách mạng Pháp - “tình hình gần như giống hệt ở Paris năm 1792, khi hai phe Girodin và Jacobin106 tranh giành quyền thống trị.”
106 Sau Cách mạng Pháp năm 1789, chính giới Pháp chia làm hai phe. Phe Girodin ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, còn phe Jacobin thì muốn lật đổ ngôi vua, dựng lên nền cộng hòa. Năm 1793, phe Jacobin chiến thắng và giành được chính quyền.
Còn trong nhà ông, xuất hiện thêm một lớp căng thẳng nữa chẳng liên quan gì đến thời tiết hay biến động chính trị. Không nghe lời cha mẹ, Martha tiếp tục lên kế hoạch chuyến đi sang Nga. Cô một mực cho rằng sự quan tâm của cô chẳng liên quan gì đến chủ nghĩa Cộng sản, mà chỉ vì tình yêu của cô với Boris và sự khó chịu đang hình thành với cuộc cách mạng Quốc xã. Cô nhận ra Boris thực sự là một nhà cộng sản trung thành, nhưng cô tuyên bố anh ấy gây ảnh hưởng lên quan điểm chính trị của cô “chỉ bằng sức cuốn hút, sự giản dị và tình yêu nước của anh ấy”. Cô thú nhận mình cảm thấy mâu thuẫn giày vò “liên quan đến anh ấy, những điều anh ấy tin tưởng, hệ thống chính trị ở đất nước anh ấy và tương lai của chúng tôi bên nhau”. Cô đòi đi một mình không có Boris theo cùng.
Cô muốn ngắm nhìn nước Nga càng nhiều càng tốt, không bận tâm tới lời khuyên của Boris chỉ tập trung vào mấy thành phố thôi. Anh muốn cô thấu hiểu sâu sắc quê hương mình, chứ không nên cưỡi ngựa xem hoa. Anh cũng nhận ra du lịch vào đất nước anh không phải chuyến đi thoải mái, nhanh chóng như ở Tây Âu, cũng như không phải thành phố nào cũng có những ngôi làng đẹp như tranh vẽ, giống ở Đức và Pháp. Thực ra, Liên bang Xô Viết không phải là thiên đường cho công nhân, như những kẻ ngoài cuộc có khuynh hướng cánh tả tưởng tượng. Dưới thời Sta- lin, nông dân phải tham gia các hợp tác xã khổng lồ. Nhiều người phải đến các trại lao động xa xôi. Nhà ở thì lạc hậu, hàng hóa tiêu dùng gần như không tồn tại. Nạn đói đã nuốt chửng Ukraina. Số lượng vật nuôi tụt dốc nhanh chóng mặt. Từ năm 1929 đến 1933, tổng số gia súc giảm từ 68,1 triệu xuống còn 38,6 triệu con. Ngựa giảm từ 34 triệu xuống còn 16,6 triệu con. Boris biết rõ đối với một du khách, khung cảnh tự nhiên, xã hội và đặc biệt là cách ăn mặc buồn tẻ của công nhân Nga chẳng thể quyến rũ được ai, nhất là khi vị khách ấy đã mệt mỏi sau chuyến đi dài, với sự hiện diện bắt buộc của hướng dẫn viên hãng Intourist.
Tuy nhiên, Martha đã chọn Tour số 9, Volga-Caucasus-Crimea, dự kiến khởi hành ngày 06 tháng 07 với một chuyến bay - lần đầu tiên trong đời cô - từ Berlin đến Leningrad. Sau hai ngày ở Leningrad, cô sẽ đi tàu đến Moscow, ở lại đây bốn ngày, rồi bắt chuyến tàu đêm đến Gorki. Hai tiếng sau khi đến nơi vào lúc 10 giờ 04 phút, cô sẽ lên tàu hơi nước Volga, lênh đênh trên biển bốn ngày với các điểm dừng tại Kazan, Samara, Saratov và Stalingrad, nơi cô có chuyến thăm đến các công trường máy kéo. Rồi từ Stalingrad, cô sẽ đi tàu đến Rostov-on-Don, với lựa chọn ghé thăm trang trại nhà nước, cho dù đến đây, cuốn sách giới thiệu nhỏ cho thấy chút mùi vị của chủ nghĩa tư bản, vì tour tham quan trang trại đòi hỏi một khoản “phụ phí”. Tiếp theo sẽ là các điểm dừng Ordzhonikidze, Tiflis, Batumi, Yalta, Sebastopol, Odessa, Kiev và cuối cùng, đi tàu quay về Berlin. Cô sẽ về đến nơi ngày 07 tháng 08, ngày thứ ba mươi ba trong hành trình của cô, và nếu mọi thứ thuận lợi, cô sẽ xuống tàu vào đúng 19 giờ 22 phút.
Quan hệ của cô với Boris tiếp tục mặn nồng, dù trải qua rất nhiều cung bậc hết nồng nàn rồi giận hờn, sau đó là những dòng thư xin lỗi và những bó hoa tươi từ anh. Có thời điểm cô trả lại anh ba con khỉ gốm “không thấy điều xấu”. Rồi anh gửi lại cho cô.
“Martha!” Anh viết, dồn bao tình cảm vảo tiếng gọi thân thương ấy.
“Cảm ơn em vì những lá thư và vì ‘không mắc chứng hay quên’. Ba con khỉ của em đã lớn lắm rồi (to lắm rồi) và đang mong ngóng được ở bên em đây. Anh đang gửi chúng rồi. Anh phải nói rất thẳng thắn với em thế này, ba con khỉ ấy rất nhớ em. Và không chỉ ba con khỉ ấy đâu, anh biết còn một thanh niên đẹp trai, tóc vàng (Aryan!!) cũng hoài nhớ em. Anh chàng đẹp trai này (chưa quá 30) - là anh đấy.”
“Martha! Anh muốn gặp em, anh cần phải nói với em rằng anh cũng chưa quên Martha đáng yêu dễ thương bé bỏng của anh đâu! Anh yêu em, Martha! Anh biết phải làm gì để khiến em thật lòng tin anh đây?”
“Boris của em.”
Trong bất kì thời đại nào, mối quan hệ của họ hẳn sẽ thu hút sự chú ý của những kẻ ngoài cuộc, nhưng vào tháng Sáu năm đó tại Berlin, mọi thứ như khoác thêm tấm áo trang trọng mới. Ai ai cũng ngắm nhìn người khác. Vào lúc đó, Martha không suy nghĩ nhiều đến quan điểm của người xung quanh, nhưng nhiều năm sau, trong lá thư gửi Agnes Knickerbocker, vợ người bạn phóng viên của cô, Knick, cô thừa nhận quan điểm ấy có thể bẻ cong thực tế như thế nào. “Tôi chưa bao giờ có âm mưu lật đổ hay thậm chí phá hoại Chính phủ Mỹ, kể cả ở Đức hay ở Mỹ cũng không!” Cô viết. “Tuy nhiên, tôi nghĩ chỉ riêng việc quen biết và yêu Boris cũng là đủ để một số người nghi ngờ điều tồi tệ nhất.”
Vào thời điểm chẳng có gì để nghi ngờ, cô vẫn khăng khăng. “Thay vào đó, một trong những điều hấp dẫn nhất ở mối quan hệ của chúng tôi chẳng liên quan quái gì đến chính trị, ngoại trừ việc thông qua anh ấy, tôi biết nhiều hơn về Liên bang Xô Viết.”
Thứ sáu, ngày 29 tháng 06 năm 1934, báo hiệu cơn bão sắp đến, hệt như bầu không khí thống trị nhiều tuần trước. “Đó là ngày nóng nhất chúng tôi biết vào mùa hè năm đó,” Elisabetta Cerruti, vợ Đại sứ Italia nói. “Không khí mang đầy hơi ẩm đến mức không thở nổi. Những đám mây đen hiện ra mờ mờ phía chân trời, nhưng mặt trời bỏng rẫy luôn ở trên đầu.”
Ngày hôm đó, gia đình Dodd ăn trưa tại nhà, có mời Phó Thủ tướng Papen cùng các quan chức ngoại giao và Chính phủ khác, bao gồm nhà Cerruti với Hans Luther, Đại sứ Đức tại Mỹ, người tình cờ ở Berlin vào khoảng thời gian này.
Martha cũng tham dự. Cô thấy cha cô cùng Papen cáo lỗi các vị khách và bước vào thư viện nói chuyện riêng, phía trước lò sưởi đã tắt. Cô viết, Papen “có vẻ tự tin và ngọt ngào như thường lệ”.
Có lúc, Dodd thấy Papen và Luther đang tránh né nhau với “thái độ khá thù địch”. Dodd bước đến can thiệp và dẫn họ ra khu vườn mùa đông yêu dấu, nơi những vị khách khác cùng đến góp chuyện. Ám chỉ đến những bức ảnh báo chí trong thời gian diễn ra German Derby, Dodd nói với Papen, “Hôm kia ngài và Tiến sĩ Goebbels có vẻ khá thân thiện ở Hamburg.”
Papen bật cười.
Tại bữa trưa, bà Cerruti ngồi bên phải Dodd và Papen ngồi ngay phía đối diện, bên cạnh phu nhân Dodd. Sự lo lắng của bà Cerruti như có thể sờ thấy được, ngay cả với Martha, đang nhìn từ khoảng cách xa. Martha viết, “Bà ngồi bên cạnh cha tôi trong trạng thái gần như sắp đổ gục, hầu như không nói gì hết, mặt tái nhợt, vẻ bồn chồn và cứ nhấp nhổm.”
Bà Cerruti nói với Dodd, “Ngài Đại sứ, có chuyện khủng kh- iếp sắp diễn ra tại Đức. Tôi cảm thấy điều đó trong không khí.”
Một lời đồn cuối ngày cho rằng không hiểu bằng cách nào bà Cerruti biết trước chuyện sắp xảy ra. Bà thấy điều này thật kì cục. Nhiều năm sau, bà cho rằng nhận xét bà nói với Dodd chỉ liên quan đến thời tiết.
Thứ sáu hôm đó, tại Mỹ, “cái nóng đổ lửa” ngày càng tồi tệ. Tại những nơi ẩm ướt như Washington, người ta gần như không thể làm việc nổi. Moffatt ghi vào nhật kí, “Nhiệt độ hôm đấy là 38 độ C và giảm còn một nửa dưới bóng râm.”
Cái nóng và hơi ẩm quá khó chịu tới mức đến tối, Moffatt, Phillips và một quan chức nữa đến nhà một người bạn của Moffatt để tắm bể bơi nhà ông ta. Lúc đó, người bạn này không có nhà. Ba người cởi quần áo và trèo xuống bể. Làn nước ấm áp mang lại cảm giác dễ chịu vừa đủ. Nhưng không ai bơi. Thay vào đó, cả ba ngồi lặng lẽ nói chuyện, chỉ ngẩng đầu lên khỏi mặt nước.
Có khả năng chủ đề cuộc trò chuyện là nói về Dodd. Mới vài ngày trước, Phillips đã viết trong nhật kí về đòn tấn công không ngừng của Dodd vào thói xa hoa của các nhà ngoại giao và quan chức Lãnh sự quán.
“Có lẽ ngài Đại sứ đang than phiền với Tổng thống,” Phillips càu nhàu trong nhật kí. Dodd “luôn luôn than phiền vì thực tế rằng họ đang tiêu tiền tại Berlin vượt quá mức lương. Ông ta kịch liệt phản đối điều này, có khả năng vì một lí do đơn giản rằng bản thân ông ta không có đồng nào để tiêu ngoài lương. Dĩ nhiên, đó là kiểu thái độ quê mùa.”
Thật tình cờ, mẹ của Moffatt, Ellen Low Moffatt, lại có mặt ở Berlin hôm thứ Sáu, nhân dịp đến thăm cô con gái (em gái Moffatt), người đã kết hôn với một bí thư Đại sứ quán, John C. White. Tối hôm ấy, bà tham dự một bữa tiệc tối, vô tình ngồi cạnh Papen. Về sau bà kể với con trai, tay Phó Thủ tướng ấy “mạnh khỏe và cực kì phấn chấn.”