“Tôi đã chấp nhận bản thân với những ý kiến ngày càng ít kiên quyết hơn"
Một câu nói của Amel Larrieux, một ca sĩ kiêm nhạc sĩ, được in trên cốc Tall Chai Latte1
1 Chai Latte là một thức uống cà phê có mùi vị trà, được làm bằng cách ủ trà đen với hỗn hợp các loại gia vị và thảo mộc Ấn Độ.
TÔI CHẲNG KHÁC GÌ CON THIÊU THÂN, NGẠO MẠN MÀ VÔ HƯỚNG
Trong một khoảnh khắc, tôi đã ném bay lý trí ra đằng sau, để rồi không biết rằng sau này bản thân sẽ phải liều mạng vì hành động xốc nổi lúc đó
THÁNG BẢY – THÁNG TÁM
Tôi bừng tỉnh, mồ hôi vã như tắm. Tôi đã không sắm cho mình chiếc máy điều hòa, và căn phòng gác mái nhỏ xinh này giờ đây thật oi bức trong cái nóng mùa Hè. Mới ba giờ sáng, tôi còn một tiếng để ngủ nữa, trước khi thức dậy và lên đường đến New York. Nhưng trời quá nóng, còn tôi thì mãi lo lắng về lần đầu tiên giúp Crystal mở cửa hàng.
Trái tim tôi cứ như đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Chỉ cần nghĩ đến công việc này, tôi lại sợ hãi. Bình tĩnh, tôi tự nhủ với chính mình. Nhưng một số cuộc trò chuyện mà tôi tình cờ nghe được không ngừng xì xào quanh tai. Các Cộng sự khác đã từng nói, “Mở cửa hàng đúng là một việc khốn nạn” hay những nhận xét tương tự kiểu đó. Tôi choáng ngợp, công việc này có vẻ khó khăn hơn những gì tôi tưởng tượng.
Tôi cố gợi nhắc lại những gì bản thân mình từng làm trước kia, tôi từng rất thích những thách thức. Tôi thích vực dậy doanh nghiệp hoàn toàn mới, hoặc tôi thích gặp khách hàng “khó tính”.
Nhưng công việc mở cửa hàng hoàn toàn là một thử thách thuần thể chất. Còn tôi chưa bao giờ tự tin về sức khỏe của chính mình.
Đột nhiên, trong đầu tôi chợt nảy ra một ký ức tồi tệ về “bài kiểm tra thể chất” mà lẽ ra tôi phải tránh được. Bài kiểm tra ngu ngốc lần đó diễn ra khi tôi vẫn còn ở tuổi vị thành niên, ở cái tuổi luôn muốn chứng tỏ mình có thể chinh phục được mọi thứ.
Đổ mồ hôi trong cái oi bức của mùa hè, tôi nhớ lại khoảng thời gian đáng sợ ở Tây Ban Nha năm 1959. Khi đó tôi mới mười chín tuổi, tự mình đi đến châu Âu để tận hưởng quãng thời gian nghỉ hè năm đó. Bây giờ tôi vẫn có thể cảm nhận được mặt đất khô cứng dưới cái nắng chói chang của khu cắm trại ở ngoại ô Pamplona.
Giống như nhiều thanh niên thời đó, tôi đã đến Tây Ban Nha để tìm kiếm "Papa", và tôi đã tìm thấy ông ấy. Mùa hè năm đó, Ernest Hemingway ngồi ở trung tâm của quảng trường đầy nắng ở Pamplona. Vây xung quanh ông là một vòng tròn những người mến mộ từ khắp nơi trên thế giới. Ông ấy có một khuôn mặt lãng tử cùng bờ vai dài rộng. Mái tóc bạc trắng được chải chuốt cẩn thận để che một vết sẹo bên dưới, thứ mà đáng lẽ tôi không bao giờ nên nhắc đến.
Tôi bước đến gần.
“Michael Gill,” tôi mở lời chào, bắt bàn tay ông ấy chìa ra. Sức nắm của ông ấy thật mạnh, gần như có thể nghiền nát bất cứ ai. Đôi mắt của Hemingway lướt dò xét tôi từ trên xuống dưới. Ông ấy cứ thế, không hề mời tôi ngồi xuống cùng tham gia vào nhóm.
“Janet Flanner nhờ tôi gửi lời chào hỏi của cô ấy,” tôi nói tiếp. Janet Flanner là đồng nghiệp của bố tôi tại tạp chí The New Yorker. Cô ấy là một phóng viên Paris và cũng là bạn nhậu cũ của Hemingway.
Tôi đã gặp cô ấy vài tuần trước chuyến đi. Khi Janet biết tôi là một fan hâm mộ lớn của Hemingway, cô ấy đã bảo tôi sử dụng cái tên của cô ấy. Janet còn gợi ý cho tôi rằng tôi nên hỏi Hemingway về vết sẹo chạy dọc từ đỉnh đầu ông ấy. Có tin đồn rằng ông ấy đã vô tình trúng phải mảnh đạn trong chiến tranh. Cũng có chỗ kể ông ấy bị một con tê giác lao đến cắn khi đang ở châu Phi. Tất cả những gì Janet Flanner muốn nói với tôi là “Chúng ta sẽ có một câu chuyện hay ho về bí mật đằng sau vết sẹo đó… nếu Ernest có ý định kể về nó.”
Khi vừa mới nhắc đến Janet, Ernest Hemingway nhìn tôi mới vẻ thích thú mới lạ.
Tôi giải thích: “Cô ấy là bạn của bố tôi. Brendan Gill.”
“Vâng, tôi có biết ông ấy,” Hemingway chậm rãi nói, dường như ông ấy đang cân nhắc từng lời mình nói ra.
“Janet là một người bạn cũ của tôi,” ông nói tiếp, với giọng điệu tự tin, mạnh mẽ hơn. Khi ông ấy nói, toàn bộ đám đông xung quanh bắt đầu phấn khích hò hét như một ca sĩ đang hát bằng giọng nam cao đáng kinh ngạc. “Hay đúng hơn, Janet là một người rất thân với tôi. Cô ấy là một phóng viên tuyệt vời của thế hệ cô ấy.”
Tôi nhận ra rằng ông ấy không dùng từ “nhà văn”. Là vì, ông ấy không muốn phải cạnh tranh với Janet Flanner. Cô ấy là một “phóng viên” thay vì là một “nhà văn”. Nhờ điều đó, tôi có hiểu tại sao họ vẫn có thể làm bạn với nhau. Dưới vẻ lịch lãm, nhã nhặn của Hemingway là một chút hung hăng, hiếu chiến.
“Miguel là con trai của một người bạn khác của tôi,” Hemingway tuyên bố với đám đông xung quanh, ông đã nhanh chóng đặt cho tôi một cái biệt danh. “Brendan Gill, một đồng nghiệp của Janet Flanner ở tạp chí The New Yorker.”
Một vài cái đầu bắt đầu gật gù tán thưởng. Họ đã từng nghe đến bố tôi.
Bây giờ nhìn lại, bốn mươi lăm năm sau, trở mình trên chiếc giường nóng bức trước ca làm việc buổi sáng tại Starbucks, tôi chợt nhận ra, mình từng đến gặp Hemingway để nhận được sự công nhận. Tôi đã sử dụng phương tiện duy nhất mà tôi biết: bố tôi và các mối quan hệ của ông ấy. Trong khi những mối quan hệ này đã mở sẵn cánh cửa cho tôi bước tới, nhưng những người đó vẫn không dẫn tôi vào. Thời điểm đó, ở Pamplona, tôi, chỉ một mình tôi phải tự chứng tỏ bản thân. Và điều này thực sự khiến tôi giận dữ.
Tôi đã nhìn thẳng vào mắt Hemingway, nhớ lại lời nhận xét của Janet Flanner. “Làm thế nào mà ông có vết sẹo đó vậy?” Tôi hỏi chỉ với mong muốn trả đũa, cảm thấy rằng câu hỏi này, chủ đề vết sẹo này sẽ khiến ông ấy khó chịu. Đôi mắt của Hemingway trở nên sắc lạnh đi sau câu hỏi đó – chỉ trong một giây. Chắc chắn ông ấy là một người đã từng xông pha vào các trận chiến. Cả thực tế. Lẫn bằng lời nói.
Sau đó, phớt lờ câu hỏi của tôi, ông ấy đơn giản hỏi, “Cậu đã từng chạy trước một con bò tót bao giờ chưa?”
“Chưa,” tôi nói rồi lại ngu ngốc thêm vào, “vẫn chưa.” Trong một khoảnh khắc, tôi đã ném bay lý trí ra đằng sau, để rồi không biết rằng sau này bản thân sẽ phải liều mạng vì hành động xốc nổi lúc đó.
“Chà,” Hemingway từ tốn nói, tính toán từng lời nói như dao đâm của mình, “sao cậu không thử chạy trước mặt chúng, Miguel, rồi chúng ta sẽ cùng nhau nói chuyện sau.”
Ông ấy nói với tôi, như thể đang nói với một cậu nhóc mới lớn chứ không phải với tư cách là một người đàn ông trưởng thành.
Tôi đã thức trắng đêm hôm đó, say sưa trong bầu không khí lễ hội cuồng nhiệt. Đến sáng, tôi đã quyết định, tôi phải chạy.
Chuồng bò được mở cửa lúc bảy giờ mỗi sáng. Và chỉ có những kẻ ngu ngốc mới đủ can đảm để làm điều đó, chạy trên con đường soi đá dài hàng dặm đến nhà thi đấu. Đằng sau là những con bò tót nóng nảy đuổi theo suốt chặng đường. Chỉ cần nghĩ đến toàn bộ quá trình đó cơ thể tôi đã rùng mình sợ hãi.
Mặt trời đang dần ló rạng, tôi từng bước đi đến hàng rào, ở đó có những con bò tót được chuẩn bị cho ngày đấu bò. Tôi có thể nghe thấy tiếng chúng di chuyển xung quanh, thỉnh thoảng chúng còn đâm sầm vào tấm ván của hàng rào. Tôi trèo lên bờ rào để nhìn chúng. Tất cả đều trông thật to lớn và tăm tối. Nhưng biết làm sau đây việc này rất quan trọng với tôi.
Ngay sau đó, một đám đông tụ tập, hầu hết là những người đàn ông trẻ tuổi, họ đều đang chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chạy đua này.
Người đứng cạnh tôi là một ông lão. Tôi gật đầu với ông ấy. Giống như hầu hết những người bản địa ở Pamplona, ông ấy biết tôi là người từ vùng khác đến. Mặc dù tôi chỉ biết một chút tiếng Tây Ban Nha, còn ông ấy không hiểu chút nào tiếng Anh, tôi vẫn có thể dần dần hiểu rằng ông ấy đang thúc giục tôi đợi ở con đường xa hơn.
Nhóm thanh niên đứng quanh các hàng rào ngày một ồn ào hơn. Rõ ràng họ đã sẵn sàng cho thử thách này, và có lẽ, họ cũng đang có chút men say trong người.
Ông già lúc nãy lại ra hiệu một lần nữa – cực kỳ hăng hái – rằng tôi nên đợi những con bò tót ở vị trí xa hơn trên đồi.
Tôi nhìn lên đồi dốc.
Đó là một con đường chật hẹp, được bao quanh bởi những hàng rào gỗ lớn. Tôi quyết định nghe theo lời khuyên của ông ấy. Ông già đó đã cho tôi một lối thoát. Sau cùng, đúng là Hemingway đã thách thức tôi chạy đua với những con bò tót, nhưng ông ấy không chỉ ra nơi tôi bắt đầu cuộc chạy.
Tôi đi bộ vài trăm thước lên đồi, rồi dựa vào hàng rào để nghỉ ngơi một lúc. Trong lúc ngồi xuống, tôi chợt nhận ra mình đã mệt mỏi như thế nào. Tôi đã không có một giấc ngủ ngon nào trong nhiều ngày. Tia nắng đầu tiên vừa chiếu vào và tôi gật gù thiếp đi.
Tiếng ồn ào, náo động đằng sau hàng rào đã đánh thức tôi. Một đám đông đang tụ tập ở đó, họ chờ đợi cánh cửa hàng rào mở ra, giải phóng những con bò tót phía bên kia. Rõ ràng tôi không còn nhiều thời gian nữa. Trong tôi không ngừng thôi thức bản thân hãy từ bỏ đi, nhảy qua những hàng rào bảo vệ này, và tìm cho mình một nơi an toàn, như chỗ đứng của những người đến xem chẳng hạn.
Hemingway sẽ chẳng bao giờ biết cả. Bây giờ trong tôi chỉ còn một cơn phẫn nỗ, tôi phẫn nộ với ông ta. Ông ta đã buộc tôi phải liều mạng trong một cuộc phiêu lưu ngu ngốc như bây giờ.
Một nhóm người đang vội vã lao về phía tôi đứng. Tôi biết mình không còn chỗ nào để đi. Sau cùng, tôi hòa mình vào đám đông, trở thành một phần của nhóm người chạy đầu tiên.
Sau đó, đột nhiên có một tiếng hét lớn và mọi người bắt đầu chạy, mọi thứ diễn ra nhanh hơn tôi tưởng rất nhiều. Tôi đã cố gắng theo kịp nhóm dẫn đầu, nhưng dần dần tôi tụt xuống giữa.
Khi đến một góc cua, tôi vấp phải viên đá cuội trên con đường không mấy bằng phẳng và đâm sầm và một cái rào chắn. Một số bàn tay đã đưa ra giúp tôi đứng dậy. Lưng tôi cảm giác như rã rời ra, còn tay tôi thì bị xây xát khi cố gắng đứng thẳng dậy.
Những bàn tay phía sau vỗ vỗ lưng tôi rồi đẩy nhẹ tôi vào dòng người. Đây không phải là cuộc chạy đua bình thường, tôi đang chạy cho cuộc đua của đời mình. Không sai, bằng cách nào đó, tôi bắt được cơn gió thứ hai, nó mang đến cho tôi sự sợ hãi thuần túy.
Tôi sợ mình sẽ chết trên con phố chật hẹp này, xung quanh là những người không quen biết, còn con bò húc tôi chẳng hề quan tâm đến người nó vừa húc là ai, mà chỉ đơn giản là chĩa sừng vào chiếc áo tôi đang mặc. Tất cả đều nhân danh "Papa".
Tôi cố gắng tiến lên phía trước, nhấc từng bước chân lên cao, vượt qua cơn đau âm ỉ của cơ thể cho đến khi trong tôi chỉ còn adrenaline. Xung quanh là hai hay ba người đàn ông của đoàn người chạy đầu tiên. Đấu trường đấu bò đã ở ngay trước mặt, nó tiếp thêm năng lượng cho tôi. Ngoài ý nghĩ đặt chân đến được đó, tôi chẳng còn có thể quan tâm bất cứ điều gì khác nữa.
Chạy nước rút, cánh cổng đã mở ra. Thực sự, tôi đã làm được, cán đích trong vòng vài giây kể từ khi nhóm đầu tiên đi qua.
Lúc này cả một bầy bò tót đang lao vào đấu trường. Một người đàn ông ngã nhào trước chúng, một số con bò tót thì nhảy vọt qua anh ta, một số khác thì dẫm lên. Một người dũng cảm khác cầm chiếc khăn trên tay, bắt đầu thực hiện một số vũ khúc. Đám đông bắt đầu ồ lên tán thưởng.
Sau khi những con bò tót cuối cùng đi vào, tôi lẻn đi đến bên cạnh một hàng rào chắn rồi đi ra ngoài chỗ cửa những con bò tót vừa đi qua.
Dọc đường đi đầy rẫy mùi hôi của những con bò, lẫn vào đó có cả mùi mồ hôi người.
Tôi có thể nghe thấy những tiếng la hét cả những lời chúc tụng sau lưng tôi. Nhưng tôi đang không có tâm trạng để chơi đùa. Người tôi đầy mồ hôi, còn chân tay vẫn run rẩy vì sợ hãi. Tôi đã không chạy trước những con bò tót theo truyền thống – suốt chặng đường – nhưng thế là đủ.
Hemingway chưa từng yêu cầu là tôi phải chạy bao xa, ông ấy chỉ nói chạy! Tôi hợp lý hóa mọi việc. Chắc chắn tôi đã chạy! Tôi tìm đại một con hẻm nhỏ vẫn còn tối, ánh nắng ban mai chưa chiếu đến đó, tôi nằm xuống, thút thít vì lưng vẫn còn đau sau cú đập vào rào chắn lúc nãy, và ngủ thiếp đi.
Mặt trời chói chang đánh thức tôi dậy, từng tia sáng len lỏi trên bức tường. Tôi quay trở lại quảng trường chính. Hemingway không có ở quán cà phê khi trời vẫn còn sớm như này, vì vậy tôi ngồi gần một chiếc bàn tròn lớn, chỗ ông ấy thường ngồi, rồi gọi một cốc bia.
Rồi thêm một cốc nữa.
Tôi nhìn chằm chằm vào một khoảng không vô định. Những trải nghiệm tôi có sẽ còn mãi tiếp diễn, tôi biết, cho đến khi tôi nói với Hemingway về nó. Đã qua một giờ chiều, Hemingway bước ra khỏi khách sạn.
Mỗi lần nhìn thấy ông ấy, tôi lại choáng ngợp bởi vẻ ngoài của ông, một người đàn ông to lớn, vững chãi. “Đàn cá con” vẫn theo đuôi Hemingway như mọi khi ở Pamplona. Hemwing có chút gì đó giống với cá voi, hay cá mập. Từng di chuyển của ông nhịp nhàng, uyển chuyển mà không có bất cứ cử chỉ tay chân thừa thãi nào – tiến thẳng về phía trước, theo sau ông là hàng người hâm mộ háo hức và kích động.
Ông ấy ngồi xuống, giơ bàn tay to lớn lên để gọi phục vụ. Chợt hai chúng tôi chạm mắt nhau.
“Miguel?” Nó không phải là một câu nói thông thường, nó là một câu hỏi. Có lẽ ông ấy còn chả nhớ khuôn mặt tôi sau lần gặp hôm qua.
Tôi đứng dậy và bước gần đến bàn của ông ấy. (Từng khớp xương của tôi rên rỉ đau nhói.)
“Tôi đã chạy trước những con bò tót,” tôi nói, đứng trước mặt Hemingway như một đứa trẻ nhỏ đang kể với bố mình về một thành tích tuyệt vời nó vừa mới đạt được.
“Tốt,” "Papa" gật đầu nói. “Tốt lắm.”
Ông ấy chỉ vào chiếc ghế bên cạnh vẫn chưa có ai ngồi. Quả là một vinh dự lớn.
Tôi háo hức đi về phía chiếc ghế, gần như nhào vào nó. Hemingway ra hiệu cho người phục vụ mang đồ uống cho tôi.
Đám đông vây xung quanh cả hai, tôi cảm thấy, chắc chắn là họ đang cố nghe ngóng những gì ông ấy chuẩn bị nói với tôi tiếp theo. Nhưng những gì Hemingay làm chỉ đơn giản là cụng ly với tôi, nâng ly chúc mừng khi tôi uống cạn. Sau đó ông ấy nghiêng người về phía tôi và nói với tông giọng trầm thấp, “Bây giờ tôi sẽ kể cho cậu nghe về vết sẹo đó.”
Hemingway rê chiếc ghế, ngồi xuống đối diện với tôi để không ai khác đang tụ tập tại bàn có thể nghe những gì ông ấy chuẩn bị nói cho tôi.
“Có thể cậu đã từng nghe vài lời đồn rằng tôi có vết sẹo đó trong Chiến tranh, hoặc là ở châu Phi.”
Papa thong thả nói từ từ, như thể ông ấy đang tính toán từng từ từng chữ ông sắp nói. Tôi chợt nhận ra, mặc dù ông ấy vừa đến quán ở quảng trường, cốc bia Hemingway vừa uống mới là cốc đầu tiên ở đây, nhưng có lẽ ông ấy đã uống từ trước đó, trong phòng của mình ở khách sạn. Từ ông ấy tỏa ra cảm giác sâu sắc mà chỉ một người say rượu mới có được – như thể cả thế giới phụ thuôc vào độ chính xác của từng từ. Tuy nhiên, phong thái của ông ấy vẫn nghiêm túc như mọi ngày, đôi mắt ánh một tia hung hăng thường thấy.
“Nhiều người bịa ra những câu chuyện như vậy về Papa,” Hemingway nói, như thể ông ấy đang nói về người thứ ba nào đó chứ không phải bản thân. Với một nụ cười nhẹ, xen chút ngượng ngùng, ông ấy nói tiếp, “nhưng rất ít người biết sự thật. Đây là câu chuyện đằng sau vết sẹo, Miguel:
"Lúc đó tôi đang ở Paris. Một nhóm chúng tôi đã cùng nhau nhậu nhẹt cả ngày. Sau đó, mỗi người ai về nhà người nấy. Tôi đi vào phòng vệ sinh, với tay lên để kéo chiếc dây xả nước bồn cầu kiểu cũ. Nhưng ngày đó tôi còn rất mạnh mẽ, mọi thứ tôi làm đều có chút quá sức, tôi kéo quá tay.
Sau đó, tôi phải nắm lấy chiếc cần gạt của chiếc bồn cầu, và kéo toàn bộ những thứ chết tiệt xuống khỏi đầu mình. Kính đập vào đầu tôi. Có rất nhiều máu nhỏ xuống. Một số người đã hoảng sợ, và khăng khăng rằng tôi phải đến bệnh viện. Đó là nửa đêm, tại một bệnh viện của Pháp, họ đã khâu lại cho tôi vết thương. Thật là một hành động tồi tệ. Cuối cùng, tôi có vết sẹo này.
Tôi chưa bao giờ kể cho mọi người nghe câu chuyện đó, vì vậy họ cứ bịa ra mọi thứ như vậy đấy. Như chiến tranh. Như một chuyến thám hiểm châu Phi, một con sư tử đến xé toạc đầu tôi khi tôi cố gắng di chuyển để kết liễu nó. Nhưng, câu chuyện cậu vừa mới nghe, nó mới là thật, Miguel. Còn bây giờ, hãy cùng nhau nâng ly nào.”
Hemingway quay lại với đám đông lớn xung quanh, nâng cao cốc bia, ra hiệu chuẩn bị cho một hiệp tiếp theo.
CUỘC SỐNG RẤT THÚ VỊ, TỚI CUỐI CÙNG, NỖI ĐAU SẼ TRỞ THÀNH SỨC MẠNH
Điều buồn cười là chân tôi không còn đau nhức khi tôi thực sự làm việc. Nó giống như tôi chơi bóng ở trường trung học:
Bạn sẽ chẳng thể nào cảm thấy những cơn đau cho đến khi kết thúc một trận đấu mà bạn vừa chơi hết mình
Nằm trong căn phòng gác mái, nghĩ lại câu chuyện của Hemingway về chiếc bồn cầu, về viết sẹo, tôi bước ra khỏi giường, tập tễnh từng bước với đôi chân đau mỏi đi về hướng phòng tắm. Tôi đã từng chạy đủ nhanh để vượt mặt những con bò tót, nhưng giờ đây tôi đã xuống sức. Gần như tôi chẳng còn thể đảm đương công việc phục vụ cà phê.
Đôi chân tôi không ngừng kêu gào nhức nhối kể từ khi gia nhập Starbucks. Lúc đầu tôi đơn giản nghĩ là do mình đã đi nhầm loại giày. Một đôi brogue1 đen sang chảnh. Sau đó tôi chọn đi một đôi giày thể thao màu đen. (Ở Starbucks, bạn được phép đi bất kỳ loại giày nào, miễn là nó màu đen.) Nhưng chân tôi vẫn đau. Sau đó, một trong những Cộng sự của tôi, một người đàn ông to lớn tên là Anthony khuyên tôi nên đi đôi ủng của lính nhảy dù: “Họ dùng chúng để nhảy khỏi máy bay và tiếp đất.”
1 Giày brogue có nguồn gốc từ Gealic bróg, một vùng đất thuộc Ailen xưa. Đây là kiểu giày truyền thống với đế thấp được ghép lại từ nhiều mảnh da cứng, chúng được trang trí bằng các lỗ đục và viền răng cưa theo các cạnh mảnh da.
Hầu hết các Cộng sự ở đây đều ủng hộ đi đôi này.
Tôi đã tiêu một số tiền không nhỏ để mang được đôi giày đó về, nhưng chân tôi còn đau hơn. Em gái tôi, Holly, người gần với thế hệ tôi nhất, con bé chỉ kém tôi hai tuổi, đã gọi điện hỏi: “Công việc ở Starbucks của anh thế nào rồi?”
“Tuyệt, nhưng chân anh đau quá. Anh phải đi cả ngày không ngừng nghỉ.”
“Đấy là dấu hiệu của người có tuổi,” con bé thẳng thắn trả lời. “Các lớp thịt dưới lòng bàn chân của anh đã mỏng dần đi khi tuổi già đến. Chính vì vậy, chân anh sẽ đau mỏi hơn rất nhiều.”
Tôi cúp máy lập tức, sau cuộc gọi đó, tôi thậm chí còn cảm thấy tồi tệ hơn. Vì vậy, tôi đã quay trở lại dùng đôi giày thể thao của mình.
Điều buồn cười là chân tôi không còn đau nhức khi tôi thực sự làm việc. Nó giống như tôi chơi bóng ở trường trung học: Bạn sẽ chẳng thể nào cảm thấy những cơn đau cho đến khi trận đấu kết thúc.
Nhiều mùa hè trước đấy, tôi đã trở lại Bronxville để tập luyện với đội bóng đá trường trung học của mình, dù tôi biết thực tế mình cực tệ trong khoản vận động. Chúng tôi đã rèn luyện sức khỏe mỗi ngày trong cái nóng gay gắt của tháng Tám. Cuối cùng, sau mọi nỗ lực, vị trí tôi chơi là người bảo vệ hàng thứ ba của đội bóng. Nhưng ít nhất, hầu như tôi không còn cảm thấy đau đớn sau mỗi thử thách thể chất nữa. Còn bây giờ, mọi thứ đã đổi khác, tôi chỉ còn cách thỏa hiệp với đôi chân liên tục ca thán đau nhức của mình.
Tôi chợt nhớ đến cậu con trai Charles, thằng bé đã từng nhảy khỏi nóc trại trên hồ nước vào một mùa hè. Lúc đó Charles mới mười bảy tuổi. Tuy nhiên, thằng bé đã cao hơn tôi vài inch, và đẹp trai hơn nhiều. Charles được sinh ra với tài năng thể thao thiên bẩm, một thứ tôi luôn thiếu. Thằng bé có thể dễ dàng nhảy xuống hồ trong bầu không khí mùa hè.
Tôi mỉm cười nhớ về những bước nhảy nhẹ nhàng của thằng bé, trong khi đang loạng choạng bước ra khỏi phòng tắm với đôi chân đau nhức. Tôi mặc một chiếc áo sơ mi đen và quần dài, đi đôi giày thể thao màu đen. Đã sẵn sàng, bắt đầu chuyến đi vào thành phố thôi nào.
Ra khỏi tàu điện ngầm, chiếc bảng hiệu đèn neon bên kia đường đã thu hút ánh mắt tôi, nó cho biết nhiệt độ bây giờ là 32oC. Tôi cảm tưởng như đang có hơi nóng bốc lên từ những vỉa hè bốc mùi.
Vào mùa hè, thành phố này không bao giờ ngủ. Khi tôi đợi Crystal trên vỉa hè của Phố 93 Broadway, một vài người say rượu đang lang thang xung quanh. Tôi tiếp tục cúi gằm mặt, trốn ở ngưỡng cửa của cửa hàng Starbucks.
Một lần nữa, sự bất hợp lý lại xảy ra – mười năm trước đó, với tư cách là một giám đốc luôn luôn bận rộn, có lúc năm giờ sáng, tôi đã phải leo lên một chuyến bay dài qua đêm đến LA. Đến khi bị sa thải, hầu hết các buổi sáng mùa hè, tôi đều có một giấc ngủ sâu và bình yên trong một trang trại lớn cũ kỹ ở New England.
Những ngày đó, trong đầu tôi chỉ mong chờ một ngày được bơi lội, đánh gôn với những người bạn cùng thời, những người đã thoải mái nghỉ hưu.
Còn bây giờ, tôi đang đứng ở một góc khuất đầy hiểm nguy đang rình rập của thành phố New York nóng nực vã mồ hôi, chờ đợi “ông chủ” hai mươi tám tuổi của mình và sợ rằng bản thân không thể hoàn thành tốt công việc mở cửa hàng Starbucks. Con người có quyền, có tiền, đầy kiêu ngạo trước kia của tôi nếu phải nhìn cảnh này, không biết nó sẽ kinh hoàng đến mức nào.
Crystal đi lên từ ga tàu điện ngầm, cô ấy “ngụy trang” kỹ đến mức tôi còn chẳng nhận ra cô ấy ngay lập tức. Crystal đội chiếc mũ trùm đầu màu đen, cô ấy phù hợp với hình dung của tôi về một người khó tính mà bạn khó tránh khỏi khi đi trên phố vào sáng sớm.
Trong tôi có chút thả lỏng, nhẹ nhõm khi nhìn thấy Crystal, nhưng cô ấy không có thời gian để vui vẻ. Cô ấy đặt chìa khóa mở cửa vào tay tôi và bảo, “Hãy khóa nó khi anh đã vào cửa hàng.”
Tôi nhận ra rằng mỗi giây đều giá trị và chúng tôi đang bắt đầu một cuộc chạy đua với thời gian. Chúng tôi phải mở cửa lúc sáu giờ sáng – và chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa.
“Giúp tôi một tay nào,” Crystal nói. Tôi nhanh chóng giúp cô ấy di chuyển những thùng bánh ngọt ra phía sau. Những lô bánh ở Starbucks được chuyển đợt mới đến cửa hàng mỗi ngày.
“Đây là những tấm khay đã được rửa sạch. Anh hãy đặt bánh lên trên đó. Có một sơ đồ hướng dẫn sắp xếp bánh ngọt, hãy xếp theo những gì được chỉ dẫn nhé. Tôi phải đi pha cà phê đây.”
Khi tôi di chuyển để mở những hộp bánh ngọt đầu tiên. Crystal đột nhiên hét lên, “Dừng lại!”. Tôi giật nẩy mình. Từ trước đến giờ, tôi chưa bao giờ nghe Crystal hét to đến vậy.
“Hãy đeo găng tay cao su vào, Mike,” Crystal nói, đưa cho tôi một ít găng tay. “Với đồ ăn, chúng ta phải luôn cẩn thận. Đừng bao giờ chạm vào bánh ngọt bằng tay không. Được rồi. Anh cứ bắt đầu đi nhé.”
Tôi đeo găng tay, lướt xem nhanh lịch ca làm việc luôn được dán lên bảng thông báo. Bianca đến lúc sáu rưỡi và sau đó là Joann sẽ đến lúc chín giờ. Joann không bao giờ đến quá sớm, hoặc ở lại cửa hàng quá muộn. Cô ấy phải chăm sóc con mình, và vì cô ấy luôn tận tâm trong từng ca làm việc nên Crystal luôn dành cho cô ấy những ca làm việc mà Joann có thể làm. Tôi rất vui khi biết Bianca và Joann sẽ đến để giúp chúng tôi trong một buổi sáng xô bồ.
Chẳng mấy chốc cửa hàng đã tràn ngập hương thơm ngon tuyệt của những ly cà phê Crystal đang pha. Crystal gọi tôi vào và hướng dẫn những bước chuẩn bị để cửa hàng luôn trong trạng thái sẵn sàng khi mở cửa:
“Tôi đang pha món cà phê của ngày hôm nay – Verona,” cô ấy nói, “sau đó tôi sẽ pha thêm một mẻ cà phê nhẹ: Hôm nay là Colombia. Cuối cùng tôi pha một ít cà phê decaf, loại tôi đang pha bây giờ là cà phê decaf Sumatra.”
Tôi gật đầu khi cô ấy nói từng chi tiết cụ thể này cho tôi. Làm thế nào mà cô ấy nghĩ rằng tôi sẽ có đủ thời gian để nhớ từng này?! Tôi đã sắp xếp bánh ngọt với tốc độ nhanh nhất có thể trước khi đến giờ mở cửa. Còn rất nhiều bánh ngọt, nhưng thời gian không còn nhiều nữa.
Tôi xé các gói nhựa đựng bánh nướng. Có bốn loại khác nhau: việt quất, mâm xôi, quế và lá phong. Còn bánh muffin có năm vị khác nhau là bột nguyên cám, sô-cô-la, phô mai ngô, việt quất và vị việt quất ít béo. Donut có ba loại là tráng lớp đường, sô-cô-la và quế.
Ở Starbucks, chúng tôi phục vụ nhiều loại bánh khác như bánh việt quất ít béo, bánh quế ít béo, bánh ngọt vụn1, bánh cà phê cổ điển, ổ bánh chanh nướng vàng, ổ bánh ngọt việt quất và ổ bánh ngọt vị chuối. Tôi đã mở một chiếc bánh sừng bò vị sô-cô-la và một chiếc vị bơ để cho lên khay. Sau đó là những chiếc bánh quy vị sô-cô-la, vị yến mạch, rồi đến những chiếc bánh gạo giòn, bánh brownie vị cà phê espresso, và còn nhiều loại khác sẽ được mở gói sau khi cần thêm.
1 Crumb cake hay còn được gọi là Streuselkuchen. Thành phần chính của loại bánh là đường, bơ và bột, trên cùng sẽ được phủ một lớp bột ngọt streusel.
Tôi vừa nhìn sơ đồ vừa nhìn những miếng dán trên hộp để biết miếng bánh đó nên đặt ở đâu. Việc này không giống như khi sử dụng những chiếc máy thu ngân và chọn từng loại đồ uống một. Sau khi nhìn thoáng qua một hai lần, tôi đã có thể tái hiện rõ ràng từng vị trí trong đầu. Giờ tôi có thể tự tin rằng mình sẽ đặt được chúng vào chính xác vị trí cần để.
Tại Yale, tôi đã rèn luyện thành thạo khả năng ghi nhớ hình ảnh khi còn là một sinh viên chuyên ngành Lịch sử Mỹ thuật, tôi đã phải dành nhiều đêm để ghi nhớ các bức tranh. Tôi mỉm cười với ý nghĩ rằng cuối cùng lĩnh vực hào nhoáng tôi chọn ở đại học cũng đã ứng dụng được vào thực tế – sau bốn mươi năm.
Đến lượt những gói bánh mì tròn. Bánh mì tròn luôn rất khó lấy ra. Các gói bọc bên ngoài được thiết kế để sao cho bánh luôn trong trạng thái tốt nhất, nhưng thật khó để bóc được chúng ra khỏi lớp bọc nhựa đó. Tôi chợt nhớ có một dấu ấn của nền văn minh Mỹ đó là có thể tạo ra những gói nhựa khó mở nhất trong lịch sử thế giới – tất cả đều vì họ muốn giữ cho mọi thứ thật đẹp đẽ và sát trùng. Nhưng giờ sao tôi còn đủ thời gian để suy ngẫm đến những ý nghĩ trừu tượng như vậy.
Chợt Crystal đến cứu tôi bằng một cái kéo. Có lẽ tôi không phải là người duy nhất gặp vấn đề với những túi bánh mì tròn này.
Tôi mở nốt các túi bánh mì vị nho khô quế, vị vừng và bánh mì không. Cuối cùng tất cả đã hoàn thành, mọi đĩa bánh ngọt đã lên kệ. Crystal gọi tôi và hướng dẫn một số công việc còn lại: “Bây giờ tôi đang pha các loại trà lạnh. Trà Passion, trà đen lạnh và trà xanh.” Tôi liếc nhìn đôi mắt Crystal để cho cô ấy biết rằng tôi đang chăm chú nghe cô ấy giảng.
“Giờ, anh hãy sắp xếp các bảng tên nhé,” Crystal nói rồi đưa cho tôi chiếc hộp nhỏ chứa các thẻ tên của từng loại bánh ngọt.
Một lần nữa, tôi biết việc đó là thứ mình có thể dễ dàng hoàn thành. Tôi tự hào về bản thân, mọi thứ đã được kết hợp một cách hoàn hảo.
Nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm, đồng hồ đang tích tắc chạy.
“Tôi sẽ mở quầy bar cà phê espresso,” Crystal nói, “anh làm giúp tôi bánh kẹp sandwich hôm nay nhé.”
Bánh kẹp sandwich sẽ được đặt ở phía trước tủ bánh ngọt.
Tôi nhanh nhẹn đặt salad trứng, cá ngừ, gà tây và tất cả các loại bánh kẹp sandwich khác nhau vào những chỗ đã được đánh dấu sẵn trong hộp đựng. Mặc dù, đúng là toán học chưa bao giờ là thứ tôi thành thạo, nhưng điền đáp án thích hợp theo một hướng dẫn cho trước là thứ tôi có thể làm. Một cách dễ dàng.
Tôi đứng thẳng dậy khi đã hoàn thiện, quan sát chiếc hộp đầy ắp thức ăn như thể nó thực sự là một tác phẩm nghệ thuật để đời.
Crystal mỉm cười với tôi.
“Làm tốt lắm, Mike,” cô ấy nói và tôi cảm thấy như mình vừa thắng một trận.
Cuộc chạy đua đã chuẩn bị đến hồi kết. Chúng tôi sắp hết thời gian. Chỉ còn năm phút nữa là đến sáu giờ.
Crystal nói: “Mike, hôm nay anh giúp tôi quản lý quầy thu ngân ở giữa.” Tôi lấy tiền từ trong ngăn kéo của máy tính tiền, cân chúng trên một chiếc máy đếm thần kỳ. Một trăm năm mươi đô-la. Đã đủ, tôi đặt nó trở lại ngăn kéo. Vừa kịp lúc, Khách hàng đầu tiên của ngày đang chờ chúng tôi ở cửa.
“Hãy mở cửa đi Mike,” Crystal bận rộn chuẩn bị trong quầy bar với ra gọi tôi. Cô ấy đang làm mẻ cà phê “thử nghiệm” đầu tiên để đảm bảo mọi thứ đều hoạt động trơn chu.
Tôi đi tới cửa và mở khóa. Một ngày mới bắt đầu.
CHÚNG TA THƯỜNG HIẾM KHI THẤY ĐƯỢC ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA HIỆN TẠI
Không phải ngẫu nhiên Starbucks nhận được sự ủng hộ hay phản đối từ mọi người. Nó rõ ràng đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của họ. Một nơi để họ dừng chân mỗi ngày. Hay thậm chí là vài lần! Được chào đón những vị khách này và phục vụ họ vào mỗi sáng sớm là niềm vinh hạnh của tôi. Có thể họ cũng sẽ chẳng nhận ra mình sẽ nhận được gì, mọi thứ chỉ đơn giản là, họ đến, háo hức xếp hàng chờ đợi
“Xin chào buổi sáng,” Khách hàng đầu tiên của chúng tôi nói.
“Chào buổi sáng thưa ngài,” tôi đáp lại, nhanh chóng đi về phía quầy thu ngân để có thể đặt đồ uống cho ông ấy.
“Cho tôi một cốc Tall Skim Cappuccino.”
Việc lấy bánh ngọt cho Khách hàng là tùy thuộc vào từng Cộng sự, vì vậy tôi đã lấy một chiếc bánh tròn cho người đàn ông.
Ông ấy đưa cho tôi một tờ năm đô-la, và tôi trả tiền thừa lại. Cho đến thời điểm này, những nỗi sợ với chiếc máy tính tiền của tôi đã phần nào vơi bớt. Thay vì lo sợ trước khi làm, tôi quyết định tập trung vào những gì tôi biết mình sẽ có thể làm được. Rốt cuộc, trong suốt hai mươi lăm năm tại vị chức phó chủ tịch ở J. Walter Thompson, tôi đã từng được trả một mức lương vô cùng cao để nói chuyện. Có lẽ vì thế giao tiếp với tôi không phải là vấn đề đáng lo ngại.
“Một người hâm mộ của Red Sox1?” Tôi hào hứng hỏi vị Khách hàng, người đang đội một chiếc mũ của Red Sox. “Hiếm thấy ai ở New York đội chiếc mũ của đội đó lắm.”
1 Red Sox hay Boston Red Sox là đội bóng chày chuyên nghiệp Mỹ, được thành lập tại Boston, Massachusetts.
“Thực ra, là chả ai cả,” người đàn ôn bật cười. Khi nhìn vào mắt ông ấy, tôi nhận ra người đàn ông ấy có một mái tóc trắng và đôi mắt xanh. Trên khuôn mặt ông luôn thường trực nở một nụ cười dễ mến.
“Bạn của tôi tại trường Y Harvard là một người hâm mộ cuồng nhiệt của Red Sox. Trong những thập kỷ qua, tôi ủng hộ cho Yanks1, còn anh ấy là Red Sox. Mỗi năm, Yanks luôn thắng trận. Nhưng vì năm nay là sinh nhật lần sáu mươi của tôi, anh ấy đã tặng tôi một chiếc mũ Red Sox này. Vì thế nên tôi đã hứa với anh ấy rằng lần này tôi sẽ đặt một chân lên thuyền ủng hộ Red Sox.”
1 Yanks hay New York Yankees là một đội bóng chày chuyên nghiệp Mỹ, có trụ sở tại quận Bronx, New York.
“Một chân á?” Tôi nói và ông ấy bật cười.
“Tôi đang đội chiếc mũ mà bạn tôi tặng cho. Điều này với anh ấy đã là đủ rồi.”
Nói xong người đàn ông đi tới một chiếc bàn nhỏ trong góc cửa hàng.
Vị khách tiếp theo trong hàng là một chàng trai trẻ đi cùng con mình, đứa bé trông không quá hai tuổi đang ngồi trong một chiếc xe đẩy. Trước khi đến với Starbucks, bất cứ khi nào gặp một người nào như anh chàng kia, tôi đều gán họ cái mác trẻ ranh, bồng bột, một người thật vô trách nhiệm với một đứa trẻ. Nhưng sau bao biến cố, tôi hiểu ra rằng điều này hoàn toàn không phải như vậy.
Tôi mở lời chào. “Buổi sáng tốt lành thưa ngài.”
“Cho tôi một cốc Venti Latte và chiếc bánh mì tròn cho Ella.”
“Ella?”
“Con gái tôi đấy, tên con bé được đặt tên theo Ella Fitzgerald.”
“Một Venti Latte,” tôi đọc tên đồ uống cho phía quầy bar.
“Một Venti Latte,” Crystal đọc lại cho tôi.
“Anh quả là một người bố tốt,” tôi nói với anh ấy trong khi lấy tiền thừa trả lại.
“Trách nhiệm của tôi mà,” chàng trai trẻ đáp lại. “Đó là thỏa thuận của tôi với vợ mình. Vào mỗi sáng sớm tôi sẽ đưa Ella đi dạo, việc này sẽ giúp vợ tôi có thêm vài phút để nghỉ ngơi.”
“Thật tuyệt vời,” tôi nói khi anh ấy đẩy xe đẩy đến một chiếc bàn gần cửa. Tôi thích ý tưởng đấy. Cửa hàng Starbucks của chúng tôi là một nơi anh ấy dừng chân để dành những khoảng thời gian thảnh thơi bên con gái nhỏ vào mỗi sáng sớm.
Tôi nhìn lên, trước mắt tôi là một người phụ nữ quấn một chiếc khăn tuyệt đẹp, cô nàng đội một chiếc mũ nồi trên đầu. Cô ấy có đôi mắt đen lấp lánh cùng một nụ cười tươi rạng rỡ.
“Một cốc cà phê cỡ Venti, cho hỏi hôm nay các bạn phục vụ cà phê gì vậy?” Cô ấy hỏi.
Tôi quay lại nhìn phía sau. Mỗi tuần chúng tôi sẽ thay chủ đề cà phê một lần, mỗi lần như thế đều được ghi trên bảng.
“Verona,” tôi nói. “Nó thực sự rất ngon.”
“Tôi sẽ lấy một cốc đó. Với làm ơn đừng làm đầy quá để tôi có thể đổ thêm sữa vào.”
Tôi đưa cà phê cho cô ấy, và trả lại số tiền thừa lại.
“Cảm ơn,” cô gái nói. “Một cách hoàn hảo để bắt đầu một ngày mới của tôi.”
“Cô có đang làm trong lĩnh vực nghệ thuật không?” Tôi đoán, có điều gì ở cô ấy toát lên rất có chất nghệ thuật.
“Trúng phóc!” Cô gái cười lớn. “Tên tôi là Denise. Anh sẽ gặp tôi ở đây mỗi sáng. Vì đây chính là điều tôi làm đầu tiên.”
Cô ấy quay người đi ra cửa. Denise hoạt động trong giới nghệ thuật, nhưng rõ ràng cô nàng là một người chăm chỉ, kỷ luật.
Vị khách tiếp theo bước lên. Đó là một bà mẹ trẻ tuổi đang bồng đứa con mình trên tay. Cô ấy cất giọng trong trẻo gọi đồ, “Một cốc Two Pump Grande Decaf Skim No Whip Mocha,” tôi lặp lại y nguyên cho Crystal. Nhưng thay vì thế Crystal đọc lại theo một thứ tự khác, “Một cốc Decaf Grande Skim Two Pump No Whip Mocha.” Tôi đã quên mất người thu ngân phải đọc từng thành phần khách yêu cầu theo thứ tự từ quan trọng nhất đến ít quan trọng nhất. Rõ ràng là yếu tố cà phê decaf sẽ quan trọng hơn là số lượng muỗng Mocha khách dùng.
Người phụ nữ trẻ nhận ra sự khác biệt trong hai lần gọi, cô tỏ ra rất biết ơn. “Tôi chỉ có thể sử dụng loại cà phê decaf vào lúc này,” cô giải thích. “Vì tôi đang mang thai lần nữa.”
Thật ấn tượng. “Chà, thật tuyệt vời khi bạn chịu khó dậy sớm như vậy, mặc quần áo cho cô bé và...”
“Bé nhà tôi là con trai… Tên thằng bé là Max. Còn tôi là Rachel.”
Đột nhiên tôi nhớ ra Rachel đã từng giới thiệu với bản thân với tôi trước đây. Cô ấy cũng từng giải thích tại sao lại chọn uống cà phê decaf. Tôi nhận ra mình ngớ ngẩn làm sao. Tôi đã từng tự hào về khả năng ghi nhớ của mình, nhưng trong quá trình đứng ở quầy thu ngân, dưới trạng thái căng thẳng quá mức, tôi đã nhất thời đánh mất nó.
“Thật tuyệt khi bắt đầu một buổi sáng sớm theo cách này, bạn đã sửa soạn cho Max đầy đủ…” Tôi vấp váp trong khi nói.
Rachel mỉm cười với tôi.
“Đây không hẳn là tự nguyện đâu,” Rachel giải thích với tôi như thể đang nói chuyện với một đứa trẻ. “Tôi phải có một cốc Mocha cho mỗi sáng, nếu không tôi sẽ chẳng thể nào thành một người mẹ tốt hay làm tốt bất cứ điều gì!” Cô ấy cười và vừa trêu đùa với con mình vừa di chuyển đến quầy bar. Bằng sự khéo léo như thể đã quá quen với công việc này, Rachel đón lấy cốc Mocha nóng hổi của mình.
Không hẳn là tự nguyện, tôi tự nhủ. Đây quả là một công việc kinh doanh tuyệt hảo.
Không phải ngẫu nhiên Starbucks nhận được sự ủng hộ hay phản đối từ mọi người. Nó rõ ràng đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của họ. Một nơi để họ dừng chân mỗi ngày. Hay thậm chí là vài lần!
Tâm trạng của tôi đã được cải thiện rất nhiều kể từ khi bắt đầu làm công việc này. Chợt, tôi tự hỏi, tại sao công việc cũ của tôi là ngồi làm khách hàng ở Starbucks, lại chẳng thể kiếm nổi một khách hàng trung thành của riêng mình.
Nếu khi đó tôi có những khách hàng luôn háo hức chờ đợi mình, thay vì ngược lại là tôi chủ động gọi điện chào mời họ như những gì tôi từng làm, thì có lẽ mọi thứ sẽ thật nhẹ nhõm. Được chào đón những vị khách này và phục vụ họ vào mỗi sáng sớm là niềm vinh hạnh của tôi. Có thể họ cũng chẳng nhận ra mình sẽ nhận được gì, mọi thứ chỉ đơn giản là, họ đến, háo hức xếp hàng chờ gặp tôi.
“Mike,” Crystal gọi tôi từ quầy bar với giọng điệu vui vẻ. “Anh thuần lành thật đấy.”
“Thuần lành?” Tôi hỏi lại cô ấy.
“Anh đã làm rất tốt công việc kết nối ở ca sáng nay.”
“Kết nối?”
“Với những vị khách. Nhiều Cộng sự, họ chỉ nhận và trả tiền, còn anh là giao tiếp, anh kết nối mọi người. Đúng là con người vui tính!”
Tôi nghĩ đó là một lời khen. Có lẽ trước đó tôi đã thể hiện được cho Crystal thấy sự tự tin và năng lực mà cô ấy không ngờ tới. Tôi cảm thấy tự hào như một cậu học sinh đang được giáo viên của mình khen ngợi.
Crystal cười rồi cô nhanh chóng quay lại với những chiếc máy pha cà phê của mình.
Nhưng vui tính về cái gì cơ?
Vui tính có tốt không? Trong nhiều năm làm việc cho doanh nghiệp lớn ở Mỹ, tôi đã học gần như mọi ý nghĩa của các tín hiệu kinh doanh. Nhưng có lẽ tất cả những thứ này đều ném hết ra cửa sổ khi nói chuyện với Crystal.
Những vị khách dường như đã có những khoảng thời gian vui vẻ khi chúng tôi nói chuyện. Chắc chắn tôi vừa có những khoảnh khắc thú vị, và họ có vẻ là cũng như vậy.
Trong thời gian nghỉ giữa giờ, bất ngờ Crystal gọi tôi đến và hỏi: “Cô gái trẻ đêm hôm trước anh đi cùng là ai vậy?”
“Đó là con gái tôi.”
Crystal ngạc nhiên nhìn tôi và mỉm cười. “Quá tuyệt,” cô nói. Đối với tôi, dường như có chút chân thành trong giọng nói của cô ấy mà tôi chưa từng nghe thấy.
Nhưng tôi không còn thời gian để nghĩ về nó.
“Một cốc Venti Americano lạnh, cho tôi ít đá thôi nhé,” người đàn ông tiếp theo nói với tôi. Ông ấy mặc một bộ vest kẻ sọc mảnh, có lẽ là được dùng để đi công tác.
Tôi nhận ra, ở phía Tây Thượng Manhattan có đủ mọi loại ngành nghề pha trộn với nhau. Tôi thích điều đó. Starbucks chúng tôi không chỉ có sự đa dạng trong Cộng sự mà còn có sự đa dạng về Khách hàng.
Tôi nhìn lên, có cả một hàng dài người kéo ra tận cửa. Càng có nhiều khách chờ đời, tôi sẽ càng có ít thời gian để trò chuyện hơn. Tuy nhiên, dường như có cả một biển năng lượng tích cực chuẩn bị trào đến với tôi.
Vì quá vội vàng để phục vụ những khách hàng tiếp theo, tôi đã trả lại nhầm tiền, sáu đô-la thay vì trả mười sáu đô-la cho một người phụ nữ trẻ tuổi. Cô ấy khoác lên mình bộ đồ trông cực kỳ thời thượng, trên vai là một chiếc cặp đựng máy tính.
“Tôi rất xin lỗi,” tôi nói. “Tôi biết chị đang rất vội.”
“Đừng lo,” cô ấy đã dành thời gian để động viên tôi trước khi vội vàng rời đi. “Anh sẽ sớm làm tốt nó.”
Crystal đã từng nói với tôi về sự tôn trọng, nhưng bây giờ tôi cảm thấy điều đó không chỉ từ các Cộng sự mà còn từ những vị khách ở đây.
Điều này thật khác biệt với công việc cũ của tôi, một thế giới đầy cạnh tranh của những con người tham vọng thống lĩnh, J. Walter Thompson! Những khách hàng ở đó thường sẽ nhận được những tràng cười sảng khoái, còn tôi là người phải trả giá cho nó.
Có một thời gian tôi làm với Ford, mọi chuyện vẫn diễn ra với kịch bản như thế. Đôi khi những khách hàng ở đó sẽ có những niềm vui giải tỏa, dù mọi thứ không diễn ra đúng như ý tôi mong muốn. Tôi nhớ lại buổi thuyết trình đầu tiên của mình với một loạt các đại lý Ford ở New England.
Khi đứng bật dậy chuẩn bị bài thuyết trình, vì quá lo lắng, tôi đã làm đổ bình cà phê vào chân của Jerry Mantoni. Anh ta là một tỉ phú buôn xe hơi đến từ Rhode Island. Jerry chồm lên, phủi phủi chiếc quần xanh bóng loáng của mình. Tôi đã nghĩ rằng mình sẽ bị đuổi đi vì đã “đắc tội” với một nhân vật cực kỳ quan trọng ở đây.
Nhưng hoàn toàn ngược lại, cả khán phòng đầy ắp những gương mặt cau có, căng thẳng chợt bùng nổ tiếng cười. Và sau đó, họ “mua” toàn bộ các ý tưởng của tôi. Họ nói với sếp tôi rằng họ muốn tôi sẽ luôn xuất hiện trong các cuộc họp tiếp theo.
Một lần khác nữa, cũng căng thẳng không kém. Sau khi trình bày hơn hai trăm cách sắp xếp khác nhau cho một quảng cáo mới của Lee lacocca – mỗi cách đại diện cho nhiều giờ nỗ lực, ông ấy chỉ đơn giản nhận xét: “Còn gì mới mẻ nữa không.” Một lần nữa tiếng cười rộ lên khắp căn phòng. Tôi ngỡ ngàng nhận ra tất những con người này, ở Ford đều thường trực sống trong nỗi sợ hãi. Bởi thế họ luôn thích chứng kiến cảnh tượng người khác bị sỉ nhục công khai.
Vị sếp đầu tiên của tôi tại J. Walter Thompson đã nói với tôi rằng, “Nỗi sợ hãi là một động lực tuyệt vời.”
Một quảng cáo bạn làm, chỉ có thể là một trong hai: điều tuyệt diệu hoặc thứ vớ vẩn. Một trò chơi chỉ có thắng và thua. Không chỉ có quảng cáo là như thế, người trình bày quảng cáo đó cũng vậy, cả hai luôn đồng hành cùng nhau. Bạn là một thiên tài sáng tạo hay là một kẻ ngu ngốc tầm thường. Nếu bạn có thêm khách hàng mới, bạn là một anh hùng. Nếu bạn không thể kiếm thêm nổi một khách hàng mới nào, bạn sẽ ngay lập tức trở thành kẻ vô tích sự. Không bao giờ có sự lập lờ ở giữa.
Và chắc chắn, thế giới này không tồn tại sự tôn trọng hay phẩm giá. Những thứ đó thực sự không bao giờ được nhắc đến.
Còn tại Starbucks, cả Cộng sự lẫn Khách hàng đều ngầm thừa nhận rằng tất cả mọi người, dù bạn là ai, đều đáng nhận được sự tôn trọng. Tôi chưa từng bao giờ thấy một môi trường làm việc nào giống vậy. Những công ty tốt nhất trong danh sách Fortune 500 mà tôi từng gặp, mặc dù họ đã dành hàng tháng trời cùng tiêu tốn bao nhiêu tiền của để viết lên những tuyên bố sứ mệnh cao cả, nhưng họ chưa bao giờ thực sự làm đúng như những điều họ rao giảng.
Bianca đến đúng lúc sáu rưỡi. Cô ấy nở một nụ cười ngọt ngào khi bước đến quầy thu ngân cạnh tôi. Bianca còn quá trẻ, tôi đoán, có lẽ cô ấy còn chưa qua tuổi mười chín. Nhưng Bianca giỏi hơn tôi nhiều, như công việc trả tiền thừa lại cho khách hay gọi đồ uống. Tôi rất biết hơn khi có cô ấy ở bên cạnh.
Chín giờ, Joann đến, cửa hàng lúc này đã trở nên nhộn nhịp. Nhìn đâu đâu cũng có thể thấy người và người.
Bianca, Joann và cả tôi nữa, tiếp tục làm việc trong khi Crystal pha chế đồ uống ở quầy bar. Cô ấy vẫn liên tục nhanh tay làm từng đơn hàng, không một chút bối rối. Mặc cho dòng người ùn ùn kéo đến, hay kể cả ba người chúng tôi đang cùng lúc gọi đồ uống.
Chúng tôi như một dàn hợp xướng cà phê. “Một cốc Venti Skim Latte lạnh, một Decaf Tall White Mocha, một Grande Breva1 Vanilla Latte, một cốc Double Tall Cappucino,” mỗi người chúng tôi lần lượt gọi tên đồ uống. Nó hài hòa thành một bản hòa âm đặc trưng gây nghiện của riêng nơi đây.
1 Breva được sử dụng khi muốn thay loại sữa thông thường bằng loại sữa gồm nửa sữa nữa kem tươi.
“Nghỉ mười phút thôi nào,” Crystal gọi tôi. Sau mỗi hai tiếng làm việc, bạn sẽ được phép nghỉ giải lao. Tôi rất biết ơn, lui khỏi “tiền tuyến” một lát, đi về phía căn phòng ở phía sau.
“Mike,” Joann gọi tôi. “Hôm nay có chiếc bánh ngọt nào hỏng không?”
“Tôi không biết,” tôi trả lời. Tôi đã quá bận rộn với công việc sắp xếp chúng, mà chẳng buồn kiểm tra xem chúng có bất cứ hư hỏng nào không.
“Joann, cô giúp anh ấy kiểm tra nhé,” Crystal nói với Joann.
Joann tiến về phía tôi, và chúng tôi cùng nhau song hành đi ra phía sau.
“Khi anh xếp những chiếc bánh ngọt lên kệ, anh luôn cần phải kiểm tra xem nó hư hỏng gì không. Nếu có, chúng ta có thể gọi cho công ty tổng, và nhận bồi thường cho chúng.”
Joann hướng dẫn tôi với giọng nói dịu dàng, nhẹ nhàng. Tôi thích cách cô ấy nói, thật là êm dịu.
Cô ấy rút ra một cặp kính và đeo chúng vào. “Cô mới sắm cặp kính mới à?” Tôi hỏi.
“Vâng, đúng vậy, bây giờ tôi đã có thể nhìn rõ hơn!” Joann cười đáp lại.
“Vậy trước giờ cô đều giả vờ là không cận à, Joann?” Tôi cười cùng cô ấy, không thực sự tin vào điều mình vừa nói.
“Kiểu kiểu vậy đó,” Joann đáp. “Tôi chưa bao giờ nhìn đúng cả, nhưng lại chẳng đến bất cứ phòng khám mắt nào. Anh biết đấy.” Cô ấy nhìn tôi với một nụ cười – “Starbucks đã chi trả khoản phí kiểm tra mắt và kính cho tôi.”
“Thật tuyệt,” tôi cảm thán. Dịch vụ chăm sóc thị giác miễn phí chưa bao giờ có trong bất cứ gói phúc lợi nào tôi được hưởng – ngay cả khi tôi đã tại vị chức phó chủ tịch của công ty cũ. Các lợi ích của Starbucks, đặc biệt là khi Joann chỉ là một nhân viên bán thời gian, thực sự không tầm thường. Trong thực tế, tôi chưa bao giờ nghe về bất cứ phúc lợi nào như vậy trước đây.
“Anh biết Yvette chứ?” Joann hỏi. Yvette là một người mới. Cô ấy đang đi học ở một trường gần đây. Tôi hầu như không thấy cô ấy, và cũng chưa có cơ hội làm cùng ca với Yvette. Cô ấy là một cô gái người Mỹ gốc Phi cao ráo. Yvette luôn là một người bận rộn.
“Hôm nay Yvette không đến đâu,” Joann nói. “Hôm nay cô ấy phải đi nhổ răng khôn. Cô gái đó chưa từng đến nha sĩ khám trước đây.”
Tôi chết lặng. Chưa bao giờ đi nha sĩ, và đã học đại học. Tôi chợt nhận ra, Starbucks không chỉ mang lại cho mọi người những lợi ích sức khỏe đặc biệt, mà đó còn là những lời khuyến khích họ chăm sóc bản thân tốt hơn.
“Còn bây giờ,” Joann tiếp tục, “anh có thấy tờ danh sách nào khi mở những túi bánh ngọt không?”
“Tôi không chú ý lắm.”
“Có lẽ lúc đó anh vội quá,” Joann an ủi, cô ấy nhìn xung quanh. Sau đó, Joann nhìn vào thùng rác mà tôi đã sử dụng để ném những túi bọc bánh đi. Sau đó cô ấy quay lại với một tờ giấy dài đánh máy các loại bánh ngọt.
Joann chỉnh lại cặp kính mới của mình.
“Kiểm tra lại thôi nào,” cô ấy nói rồi lấy một cây bút ra. Chúng tôi đã xem qua tất cả các loại bánh ngọt, đảm bảo rằng chúng đều ổn. Có một chiếc bánh nướng vị mâm xôi bị hỏng.
“Hãy chia cái này cùng với mọi người nào,” Joann nói và mỉm cười.
Hôm nay tôi phát hiện ra một điều rằng mọi Cộng sự đều có loại bánh ngọt yêu thích của họ. Joann thích bánh nướng mâm xôi và việt quất. Bianca thích thưởng thức những chiếc bánh brownie vị cà phê espresso. Loại đồ ngọt yêu thích của Crystal là những thanh kẹo hạnh nhân. Còn tôi thì thật khó để cưỡng lại một chiếc bánh sô-cô-la chip.
“Mike, anh không phiền nếu quay lại quầy thu ngân bây giờ chứ?” Tôi nghe thấy tiếng Crystal gọi từ phía trước cửa hàng. Tôi vội vã trở lại để giúp mọi người.
Khoảng mười giờ trưa, Kester xuất hiện, cậu ấy như vị anh hùng đến để giải vây cho Crystal. Cậu ấy nở một nụ cười thật tươi với tôi. Thật sự, trông cách Kester xử lý quầy bar kia không kém phần ly kỳ. Giống như Crystal, cậu ấy dường như chẳng gặp bất cứ vấn đề gì khi tạo ra đủ loại kết hợp cà phê khác nhau.
Kester thư giãn đọc lại tên các loại đồ uống, “Một cốc Venti Extra Dry Cappuccino1, một Double Tall Latte, Grande Sugar Free Vanilla2 Skim Latte, Decaf Tall Caramel Macchiato, Tall No Whip White Mocha,” và nhiều loại Latte, Cappuccino, Doppio, Macchiato khác.
1 Dry Cappuccino là loại cà phê giống cappuccino thường nhưng ít sữa hơn.
2 Sugar Free Vanilla là loại si-ro vanilla tách đường.
Khi mặt trời đã lên đỉnh đầu, những vị khách trẻ tuổi hơn lần lượt xuất hiện, những đơn đồ uống của chúng tôi ngày một đa dạng hơn, Caramel, cà phê thường, Mocha và còn có cả các loại Frappuccino khác nhau, món đồ uống được yêu thích nhất trong các mùa hè.
KHI CÒN NGUYỆN Ý ĐI TIẾP, NGƯỜI TA SẼ CẮN RĂNG ĐI ĐƯỢC
Điều tôi muốn làm là giúp đỡ mọi người, chứ không phải gây thêm nỗi đau cho họ
Tôi nghỉ ba mươi phút để ăn trưa, nhưng cảm giác mọi thứ trôi qua như chỉ vừa mới năm phút. Sau đó tôi quay trở lại chăm chỉ làm việc cho đến khi ca làm việc kết thúc vào đầu giờ chiều hôm đó. Tôi cởi chiếc tạp dề màu xanh lá cây của mình ra và xuống tầm hầm để bỏ nó vào chỗ đựng quần áo bẩn. Tôi đã sống sót qua lần mở cửa hàng đầu tiên. So với việc này, chuyện tôi từng phải chạy trước một con bò tót quả chỉ bằng con muỗi.
Tầng hầm ngoài chức năng là nơi chứa quần áo bẩn và rác thải, thường chúng sẽ được mang đi sau khi đóng cửa, nó còn là một không gian riêng tư, nơi mọi người sẽ đến lúc muốn ở một mình trong vài phút.
Khi tôi đi xuống cầu thang, tôi bắt gặp Crystal đang ngồi trong góc, nói chuyện với ai đó qua điện thoại. Tôi không muốn làm phiền đến cô ấy, nhưng giờ tôi phải đi qua chỗ đó để có thể để chiếc tạp dề vào túi giặt.
Crystal ngắt điện thoại, lắc đầu rồi đưa tay vuốt mái tóc đen. Tôi không thể không nhận ra, cô ấy đang khóc.
Tôi không muốn xâm phạm quá, nhưng tôi biết, bản thân cũng không thể im lặng trước sự đau khổ của Crystal. “Có chuyện gì thế, Crystal?” Crystal thở dài. “Là Winston. Anh họ của tôi.
Anh ấy phải đến phòng cấp cứu. Họ đang chuẩn đoán có thể là do anh ấy lên cơn đau tim.”
“Thật tệ,” tôi đáp lại một cách ngớ ngẩn. Lời nói đó càng khiến Crystal thêm đau khổ hơn. Điều tôi muốn làm là giúp cô ấy, chứ không phải gây thêm nỗi đau.
Chợt tôi nảy ra một ý tưởng. Đối với tôi bác sĩ Cohen quả là kẻ phiền nhiễu, ông ấy luôn cố gắng bắt tôi tập thể dục nhiều hơn. Nhưng đúng thật sự ông ấy là một người am hiểu về y tế dự phòng. Có lẽ trong trường hợp này, cái cách yêu cho roi cho vọt của ông ấy chắc hẳn sẽ phát huy tác dụng. Con người đó, kể cả trong phòng cấp cứu, cũng có thể “tàn nhẫn” lôi người ta đối diện với sự thật. Chắc chắn bác sĩ Cohen sẽ biết phải làm gì.
“Hay tôi giúp cô gọi cho bác sĩ mà tôi quen nhé, Crystal? Ông ấy là một kẻ phiền toái, nhưng ông ấy là chuyên gia trong lĩnh vực của mình. Có thể ông ấy sẽ giúp được anh họ của cô.”
“Winston bị thừa cân, luôn luôn trong tình trạng như thế. Anh ấy còn bị huyết áp cao. Tôi nghĩ anh không cần phải làm phiền vị bác sĩ đó đâu, còn rất nhiều bác sĩ khác ở bệnh viện.”
“Nhưng ông ấy thực sự rất giỏi trong việc lơ đi những lời bàn tán vớ vẩn ở bệnh viện.” Tôi không còn cách nào để nói. “Ông ấy cực kỳ nhạy với những điều không ổn, và sẽ nhanh chóng làm điều gì đó để khắc phục nó.”
“Được, vậy trông chờ tất cả anh,” Crystal miễn cưỡng nói.
Tôi gọi đến số văn phòng của bác sĩ Cohen. Trợ lý của ông ấy nghe máy.
“Chào Moira, Michael Gill đây. Bác sĩ Cohen có ở đó không?”
“Ông ấy đang trong kỳ nghỉ.”
“Kỳ nghỉ á?”
“Ngài Gill, giờ đang là tháng Tám, đúng chứ?”
“Được, được, đúng vậy… Ông ấy đang ở đâu vậy?”
“Ở nhà.”
“Nhà nào cơ?”
“Ở căn hộ trong thành phố. Ông biết mà, bác sĩ luôn ghét phải rời khỏi thị trấn.”
“Moira, cô có thể giúp tôi chút không, làm ơn cho tôi số nhà của ông ấy được không?”
“Nếu anh chỉ hỏi thông tin, vậy cứ gọi thẳng cho bác sĩ Cohen. Ở trên đại lộ Park.”
Tôi xin được số điện thoại của ông ấy.
Bác sĩ Cohen trả lời ngay hồi chuông đầu tiên. “Xin chào.”
“Xin chào. Bác sĩ Cohen, tôi xin lỗi vì đã làm phiền ông."
“Cho hỏi ai đấy?”
“Michael Gill đây."
“Các bài tập thể dục thế nào rồi anh bạn? Anh vẫn luyện tập đầy đủ các bài tập kéo giãn mỗi sáng tôi dặn chứ? Anh bạn bị gãy chỗ nào sao?”
“Không không, tôi gọi để nhờ ông giúp một người bạn. Một người anh họ của cô ấy vừa được đưa đến phòng cấp cứu. Sẽ thật tốt nếu ông có thể gọi cho họ và tìm hiểu điều gì đang xảy ra với anh chàng ấy.”
“Tháng Tám quả là thời gian tệ hại nhất để đến phòng cấp cứu ở New York. Anh biết tên anh chàng kia là gì không?”
“Winston?”
Tôi quay nhìn sang Crystal.
“Winston Grove,” cô ấy nói. “Anh ấy đang ở núi Sinai.” Tôi lặp lại cho bác sĩ Cohen.
“Ở đó thực sự sẽ trở thành một sở thú,” bác sĩ Cohen nói. “Được rồi, nó không xa căn hộ của tôi lắm. Tôi sẽ đi. Anh cho tôi số điện thoại của bạn anh nữa.”
Tôi cho ông ấy số di động của Crystal. Người quản lý của mỗi cửa hàng Starbucks đều có trách nhiệm cung cấp số di động của mình cho tất cả các Cộng sự, để dùng cho các trường hợp khẩn cấp.
“Nhớ chăm chỉ rèn luyện các bài tập thể dục đó anh bạn,” bác sĩ Cohen nói rồi cúp máy. Tôi vô cùng biết ơn vị bác sĩ của mình.
Crystal nhìn tôi, lau đi những giọt nước mắt vừa nãy, cô áy không dám hi vọng vào điều gì nữa. (Sau đó, tôi được biết bác sĩ Cohen đã giúp đỡ cô ấy mọi thứ. Hóa ra Winston bị huyết áp cao và mắc chứng tim đập nhanh nhẹ. Nhưng bác sĩ Cohen đã nói với Crystal rằng nếu anh ấy chịu khó ăn kiêng và tập thể dục, thì mọi chuyện sẽ đâu vào đấy.)
“Cảm ơn, Mike,” Crystal nói, sau khi tôi kết thúc cuộc gọi vừa rồi. “Hẹn gặp lại anh. Tôi muốn đi xem anh họ tôi thế nào rồi.” Cô ấy bước lên cầu thang, giữa chừng quay đầu lại.
Tôi quay lên nhìn cô ấy.
“Anh đã làm rất tốt buổi sáng hôm nay, việc mở cửa diễn ra thật suôn sẻ,” cô ấy nói rồi quay lên đi tiếp.