Một đặc điểm gần như tất cả chủ thể TNCT gặp gỡ Thượng Đế đều đề cập đến là họ được trao ban sự thấu thị, tri kiến đặc biệt (hay thậm chí mọi tri thức trong vũ trụ), hay sự khai sáng. Đôi khi chủ thể TNCT chỉ bất giác “cảm thấy” hay “hấp thụ” trí tuệ Thượng Đế chuyển giao cho họ. Cũng có trường hợp chủ thể như được khai mở những cảnh giới kiến thức mới mà khi sống lại họ không tài nào nhớ nổi. Song tất cả sự “khai sáng” ấy, ngay cả khi các cá nhân được tiếp nhận chỉ lưu giữ phần nào, cũng đã chuyển hóa ngoạn mục cuộc đời họ.
Hãy xem xét câu chuyện của Loni, cô kể: “Tôi bị mắc chứng Lyme suốt nhiều năm mà không được phát hiện. Một điều nhiều người không hay biết là bệnh Lyme có thể gây nên những cơn trụy tim không báo trước. Tôi nhận ra mình mắc bệnh không hề nhẹ trong một chuyến đi”. Dưới đây là những gì cô đã trải qua khi có TNCT và gặp Thượng Đế:
“Tôi hỏi Người: ‘Con người là gì? Làm con người sao biết được thiện ác?’. Và Người chỉ cho tôi thấy vô số dòng mạch hoàng kim đan dệt nên hiện thân tôi. Nhưng tôi không chỉ tồn tại đơn lẻ. Các sợi năng lượng hoàng kim của tôi vươn khắp mọi ngóc ngách vũ trụ và toàn bộ nhân loại đan quyện vào nhau. Tất thảy chúng ta đều là thành tố của bức thổ cẩm Thượng Đế dệt nên (Không ngôn từ nào lột tả được chính xác, nhưng đó là hình tượng gần nhất tôi nghĩ ra.)
Giữa những mắt xích năng lượng, Người chừa ra những khoảng trống. Đó là chỗ chúng ta có thể lấp đầy hoặc bằng ánh sáng hoặc bóng tối trong suốt tiến trình cuộc đời. Chúng ta được Đấng Sáng Tạo tạo nên, nhưng Người cũng cho chúng ta sự tự do ý chí. Và Người thấu tỏ cách chúng ta dùng quyền năng tự do ý chí ấy như thế nào; không cách gì che mắt được Người.”(1)
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC HỌC HỎI
Các chủ thể TNCT không chỉ tiếp nhận tri kiến, mà còn nhận ra một phần cốt yếu làm nên ý nghĩa và mục đích sống con người là mở rộng sự hiểu biết. Việc học hỏi không thể tách rời khỏi đời sống thế gian. Đây là mô tả của một chủ thể TNCT:
“Người bảo tôi hiện hữu để học cách yêu thương và triển nở sự hiểu biết. Nó không được nói ra thành lời mà truyền thẳng vào thâm tâm tôi, với mọi tầng nghĩa của ‘yêu thương’ và ‘hiểu biết’. Đó không phải chỉ là kiến thức sách vở và tình yêu thể xác, mà còn học cách chấp nhận mọi sinh linh không chút phán xét. Tôi cần không ngừng tìm hiểu và mở rộng sự biết của mình về trái đất, tự nhiên, sinh vật và con người. Và đó là sứ mệnh không chỉ riêng tôi, mà còn của toàn nhân loại.”(2)
Dưới đây là những món quà (tri thức) từ TNCT mà những người nhận được chúng tả lại:
• Tôi được giải đáp lý do hiện hữu và nguồn căn nỗi đau khổ của con người. Chúng ta phải trải nghiệm những bài học ở cuộc sống thế gian để linh hồn tiến hóa – giống như đứa trẻ học những điều mới. Đau khổ là cơ hội để học cách đương đầu và giúp linh hồn trưởng thành.(3)
• Rốt cục tôi nhận ra phần lớn những gì chúng ta bận tâm trong cuộc sống đều nhỏ nhặt và chẳng đáng.(4)
• Khi hồi tưởng về cuộc đời đã qua, tôi ngộ ra sự vị kỷ cần được tiêu trừ khỏi đời sống thế gian.(5)
• Cuộc đời là để sống, không phải để chứng tỏ với người khác hay tham đắm vật chất lẫn danh lợi.(6)
• Trước đây tôi là một kẻ luôn phán xét cả thế gian. Trải nghiệm đã dạy tôi phải từ bỏ sự đánh giá bảo thủ và học cách trân quý từng con người như là một cá nhân độc nhất.(7)
• Rất nhiều thứ chúng ta khổ tâm trong đời thực ra lại vô nghĩa; chúng chẳng là gì khi được soi rọi trong ánh sáng của cảnh giới bên ngoài sự sống phàm trần.(8)
• Tôi nhận ra những điều mình căm ghét nhất ở người khác cũng chính là các đặc điểm ở bản thân mà không hề rõ biết. Quá rõ ràng, tất cả những gì không hài lòng về chính mình được phản chiếu lên sự gây hấn đối với tha nhân. Tình yêu là chìa khóa hóa giải mọi sự – chỉ cần yêu thương và chấp nhận.(9)
• Chẳng cách gì để dám dấn thân và sống trọn vẹn nếu ta cứ níu giữ hay cắm chốt vào những cảm xúc tiêu cực, sân hận.(10)
Tất cả các tường thuật trên đều hàm chứa một ý niệm rằng mọi việc trên đời đều có lý do, thành công hay thất bại đều là những bài học cho chúng ta. Ngay cả trong những thời điểm nghịch cảnh, cuộc đời vẫn đầy ý nghĩa.
Những điều có ý nghĩa với chúng ta phản ánh giá trị và là kim chỉ nam cho mỗi cá nhân, là nền tảng xác định chúng ta là ai. Các TNCT đều ám chỉ việc lựa chọn thứ gì đó mang lại ý nghĩa trong đời, và thể hiện qua giá trị sống nào hoàn toàn là quyết định tối hậu của mỗi cá nhân. Trước hàng loạt tri thức thiên đường được rất nhiều chủ thể TNCT thuật lại, có vẻ chúng ta không thể không nghiêm túc nhìn nhận giá trị của các thông điệp ấy trong việc triển nở tâm linh loài người và tiếp cận gần hơn với Đấng Toàn Năng.
“Kết nối và hòa hợp là một phần của hiện hữu.”
Biến chứng xảy ra trong ca mổ khối u đã khiến tim Jeremiah ngừng đập. Trong TNCT của mình, Jeremiah đã cảm nghiệm sự hiệp thông đặc biệt với Thượng Đế.
“Trước khi trải qua trải nghiệm này, tôi băn khoăn về điều gì xảy đến với chúng ta khi chết đi – có lẽ chẳng bao giờ tôi biết được. Tôi tin có Thượng Đế, song chưa người nào hay một tôn giáo nào trả lời thỏa đáng cho tôi. Còn bây giờ nhận thức của tôi đã hoàn toàn thay đổi. Tôi hiểu rằng vạn vật trong vũ trụ đều là Thượng Đế và tất cả đều liên kết với nhau. Sự kết nối và hòa hợp là một phần của hiện hữu, song không hề có chân lý nào hằng định vĩnh viễn. Nhưng Thượng Đế luôn hiện diện. Tôi hoàn toàn nhận thức sự tồn tại của mình là một phần hiện thân của Người/vũ trụ. Thượng Đế ở trong tất cả. Bất kể bạn có tin hay không tin, Thượng Đế có tồn tại. Sự hiệp thông chính là Thượng Đế; bất kể bề ngoài khác biệt thế nào, về bản chất tâm linh chúng ta là một. Thượng Đế ở khắp mọi nơi và ở trong mỗi người trong chuyến hành trình cuộc đời này.”(11)
“Ta là chị của em đây.”
Năm năm tuổi, Sandy mắc chứng viêm não do bị muỗi đốt, căn bệnh suýt cướp mất sinh mạng cô. Trong TNCT của mình, cô không chỉ gặp người chị mà mình không hề hay biết, mà còn tiếp nhận thông tin từ người chị thiên thần về tương lai:
“‘Tôi đã chết’ và cứ thế trôi dạt vào một khoảng không tối, song an toàn và dễ chịu, như thể tôi được trở về nhà mình. Tôi không cảm thấy đau đớn hay sợ hãi. Từ xa, một đốm sáng nhỏ như mời gọi tôi hướng đến đó. Tức thì tôi thấy cơ thể lao vút về phía ánh sáng ấy. Khi tới nơi, tôi biết nó hiện thân cho niềm vui và bình an, trên tất cả là một tình yêu vô điều kiện sâu thẳm.
Ánh sáng hóa ra là một đám mây tỏa ánh tinh quang lấp lánh. Tôi nghe được một giọng nói trong đầu và biết chắc đó là Thượng Đế. Trong gia đình chúng tôi không bao giờ đề cập về Thượng Đế, tôi cũng chưa hề đi nhà thờ lần nào, nhưng tôi biết Thượng Đế ở đó. Và tôi biết nơi chốn này, cùng với ánh sáng của Đấng Tối Cao, chính là cội nguồn thực sự của tôi. Cảm giác kiểu như tôi được bế bổng lên trong vòng tay cha khi bị con chó rượt đuổi.
Sau đó, một đốm sáng khác nhỏ hơn xuất hiện.
Đó là một cô gái tầm mười tuổi, trông có nét giống tôi. Cô ấy nhận ra tôi, và chúng tôi ôm chầm lấy nhau. ‘Ta là chị của em đây’, cô ấy bảo. ‘Chị được đặt tên theo bà của chúng ta Willamette; bố mẹ vẫn gọi chị là Willie. Họ mong được kể cho em về chị vào thời điểm mà em sẵn sàng’.
Chúng tôi trò chuyện không bằng lời nói. Chị hôn lên trán tôi, và tôi cảm nhận sự ấm áp và tình thương của chị. Rồi chị bảo tôi cần phải trở về để cứu mẹ khỏi một đám cháy. ‘Em phải quay về ngay bây giờ, Sandy. Điều này vô cùng quan trọng’.
‘Không, em không muốn’, tôi phản ứng. ‘Hãy cho em ở lại với chị’.
Nhưng chị dịu dàng lặp lại: ‘Mẹ cần em cứu bà khỏi lửa thiêu’.
Tôi mếu máo và quấy khóc như một đứa trẻ làm nũng. Tôi lăn ra sàn và giãy nảy ăn vạ.
Tôi có thể nhìn thấy bố mẹ mình, giống như xem một thước phim, họ ngồi bên giường bệnh và cầu xin tôi đừng chết. Tôi buồn thương cho họ lắm, nhưng tôi vẫn chưa sẵn sàng từ bỏ cảm giác quá đỗi tuyệt vời ở chốn thiên đường này. Thượng Đế mỉm cười trước sự ngô nghê khờ dại của tôi và nhìn tôi bằng ánh mắt trìu mến vô hạn.
Người chỉ tay về một đốm sáng khác vừa xuất hiện ở đằng xa. Ánh sáng ấy trở thành Glen, ông hàng xóm của chúng tôi. Glen lớn tuổi và rất thương con nít, ông vẫn thường cho chúng tôi quà bánh và chơi với những chú chó của ông. Mỗi khi Rose, vợ ông, nhắc chúng tôi đến giờ về nhà, Glen lại nạt bà ấy: ‘Rose, đừng có thúc Sandy phải về. Con bé có thể ở đây bao lâu tùy thích’. Nhưng ở chốn này, linh hồn của Glen lại quát lớn với tôi: ‘Sandy! Con phải về ngay!’. Chưa bao giờ ông la lối với tôi như thế nên tôi bị đông cứng vì bất ngờ. Tôi thôi ăn vạ và thấy xấu hổ vì hành vi của mình. Vừa nín khóc, tôi quay trở lại cơ thể mình trong chớp mắt.
Hóa ra chỉ một ngày sau khi tôi nhập viện, ông Glen đã qua đời vì một cơn trụy tim cấp. Tôi chỉ biết về cái chết của ông sau khi kể cho bố mẹ câu chuyện của mình.
Phản ứng đầu tiên của họ cho đấy chỉ là một giấc mơ. Nhưng khi tôi tả lại hình ảnh ‘người chị thiên thần’, bố mẹ hoàn toàn kinh ngạc và xác nhận họ có một người con gái khác trước tôi tên là Willie. Chị đã mất vì ngộ độc một năm trước khi tôi ra đời. Họ quyết định sẽ không kể cho tôi hay em trai về chị ấy cho tới khi chúng tôi đủ lớn để hiểu về cái chết.
Còn về việc cứu mẹ tôi khỏi lửa thiêu, không ai chúng tôi biết điều đó có ý nghĩa gì. Nhưng khi mẹ giúp tôi viết lại những dòng này, tôi đã hỏi bà sẽ sống ra sao nếu ngày đó tôi chết đi. Mẹ đáp: ‘Mẹ đã khóc hàng tháng trời sau khi Willie rời bỏ bố mẹ. Nếu chúng ta cũng mất con nữa, cuộc đời này sẽ đau khổ hơn bị thiêu đốt dưới địa ngục’.”(12)
TRÍ TUỆ TỐI CAO
Với những gì được trải qua, hầu như tất cả TNCT đều đề cập đến lượng kiến thức vô tận và toàn diện họ được tiếp cận với cùng một ý niệm chung: trí tuệ tối cao. Song họ không thể nhớ được đầy đủ những tri thức ấy khi tỉnh lại. Dưới đây là những gì được thuật lại:
• Bất thình lình tôi nhận ra mình biết mọi sự cần biết, tôi thậm chí kinh ngạc về hiểu biết của mình lúc đó: “À, hóa ra đây là cách mà điều này xảy ra”.(13)
• Trong giai đoạn hồi tưởng về cuộc đời đã qua, tôi hòa làm một với toàn thể sinh linh, thống hợp cùng với ý thức tập thể, và tôi biết rõ mọi thứ. Đó không phải là kiểu sự thông thái kiến thức giống như học từ sách vở. Tôi biết bởi vì tôi đã trải nghiệm trong vạn vật.(14)
• Tôi cảm thấy mình có thể hiểu thấu bất cứ điều gì nếu muốn. Kiểu như toàn bộ tri thức sẵn ở đó. Tôi như ở giữa một bữa tiệc tự chọn cực lớn với vô vàn các loại trái cây, rau củ, phô mai, bánh mì, và tất cả những gì tôi cần làm chỉ là chọn lấy món mình muốn.(15)
• Cảm giác như tôi có lời giải cho mọi sự trên thế gian; chỉ khi tỉnh dậy trong thể xác mình, tôi gần như mất hết những tri thức đó.(16)
• Tôi giống như một chiếc máy tính được nạp vào một lượng kiến thức vô tận. Bất cứ lúc nào tôi đặt ra câu hỏi thì câu trả lời hiện ra ngay tức khắc.(17)
Có đôi khi những chủ thể TNCT lại đột ngột nhớ lại những mảnh ghép tri thức ấy vào một thời điểm sau đó trong cuộc đời. Dưới đây là một trường hợp khiến tôi không khỏi phì cười khi đọc:
“Thỉnh thoảng trí tuệ vũ trụ tôi được tiếp cận trong TNCT bỗng quay trở lại và nảy lên trong đầu tôi không tài nào đoán trước được. Chẳng hạn như, tuần trước báo chí đăng tải câu chuyện về lỗ đen trong thiên hà của chúng ta, tôi buột miệng thốt lên: ‘Đáng ra người ta phải biết điều này từ lâu rồi chứ!’. Tất nhiên mọi người xung quanh nhìn tôi như thể một kẻ mất trí, nhưng tôi chỉ nhún vai và đáp: ‘Tin cũ xì!’.”(18)
Các chủ thể TNCT mô tả họ lĩnh hội kiến thức về khoa học, toán học, vật lý, và vô số lĩnh vực khác. Trong những năm đầu tiến hành nghiên cứu TNCT, mỗi lần đọc được một trường hợp đề cập đến việc tiếp nhận tri kiến đặc biệt, tôi lại dấy lên hy vọng trích xuất được, dù chỉ một mẩu nhỏ tinh túy thiên đường ấy để chia sẻ với nhân loại. Điều này chưa bao giờ có thể xảy ra. Tất thảy chủ thể TNCT đều không lưu giữ được phần trí tuệ vũ trụ đã thu nhận một khi trở về trần thế. Giống như việc cố bỏ cả một đại dương (trí tuệ tối cao) vào một tách trà (trí não con người) – hiển nhiên chỉ có thể nạp giữ được một phần vô cùng nhỏ khối lượng vô tận ấy.
Trong bản khảo sát NDERF mới nhất, chúng tôi đã hỏi: “Bạn có cảm nghiệm việc giác ngộ những tri kiến đặc biệt?”. Phản hồi từ 420 chủ thể TNCT cho hay:
Qua những câu trả lời diễn giải cho câu hỏi này, có vẻ có một biển trí tuệ bao la chờ chúng ta ở thế giới bên kia.
“Tôi đã tỏ tường mọi thứ.”
Trong lúc sinh nở, Jenifer bị mất máu trầm trọng. Tim cô đã ngừng đập hai lần và các bác sĩ kết luận vô phương cứu chữa. Song Jenifer đã sống lại khi chỉ còn cách lằn ranh cái chết trong gang tấc cùng với những thấu thị đáng kinh ngạc về thế giới bên kia từ TNCT của mình:
“Bất giác tôi nhận ra trong mình là trí tuệ tối thượng – tôi biết mọi thứ, mọi ngôn ngữ, mọi tư tưởng tôn giáo – tất cả đến với tôi tức khắc. Tôi là một với Đấng Sáng Tạo và mọi tạo vật. Tôi cũng chính là Đấng Toàn Năng. Tất thảy chúng ta đều là một phần của Linh Hồn Tối Cao, kể cả những người đang sống chưa trở về cội. Không tài nào mô tả được hết.
Tôi đã thoát ly khỏi cơ thể xác thịt, chiếc bể chứa, hay chiếc tàu chở linh hồn của tôi. Tôi cùng với vô số linh hồn khác chính là Thượng Đế; Người là nguồn mạch vô biên bao trùm vũ trụ song đầy từ bi, yêu thương, dung dị và thuần khiết. Thượng Đế sống trong tôi; hơi thở Thượng Đế một lần nữa được thổi vào cơ thể đã chết của tôi khi tôi chọn sống. Chúng tôi luôn ở cạnh nhau, ở trong nhau và là hiện thân của nhau. Cảm thức này vừa nguyên sơ vừa đẹp hơn mọi vẻ đẹp, sâu thẳm và an yên khôn tả.
Mọi thứ bỗng trở nên quá đỗi rõ ràng – ngôn ngữ, sự sống và cái chết, Thượng Đế, sáng thế, tình yêu, bình an, niềm vui, nỗi buồn. Tôi thấu rõ bản chất tận cùng, sự vô thường, hợp nhất, và tính toàn thiện của mọi sinh linh. Tôi ngộ ra thân xác hồng trần chia tách con người khỏi chân thể Chí Tôn. Chúng ta như dòng nước được rót từ bình vào từng tách nhỏ, là nơi chứa chúng ta cho đến ngày từ giã cõi đời và trở về với cội. Tôi được khai mở vì sứ mệnh lan tỏa tri thức này – mục đích của sự tồn tại là tình yêu, hay nói cách khác, mục đích của tình yêu là sự sống.”(19)
“Mọi thứ tôi cần đều ở đây.”
Romy là một Phật tử ở Israel. Gia đình cô đang lái xe ở Ấn Độ thì chiếc xe mất lái và lật nhào xuống sườn núi. Cô kể lại TNCT của mình:
“Tôi được nhìn thấy Ánh Sáng Vĩ Đại – một nguồn năng lượng yêu thương vô tận và vô điều kiện, một lực quyền năng tối hậu, đồng thời sáng tạo vô biên. Sự mục kích ấy thỏa tất cả ý niệm về ‘Thượng Đế’ của tôi.
Tôi ngồi gần Cội Nguồn Ánh Sáng và cảm thấy một sự nối kết mạnh mẽ. Người là vạn vật. Mọi thứ tôi cần, trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều đang hiện hữu nơi đây. Mọi thứ nằm trong vầng sáng ấm áp, mang nguồn sống và chữa lành vô tận. Đó chỉ có thể là Tình Yêu tinh thuần tuyệt đối. Tôi biết mình có thể phó thác cho Ánh Sáng Vĩ Đại ấy.”(20)
“Tôi sẽ… biết hết mọi sự.”
Chúng ta cùng gặp lại Demi, năm mười bốn tuổi cô bị đuối nước khi đi bơi ngoài biển. Cô chia sẻ về TNCT của mình:
“Tôi không thực sự thấy hình hài của Đấng Tối Cao, nhưng có một sức mạnh ở đó cho tôi biết đó là Người. Nguồn năng lượng ấy tương tác với tôi và trao cho những thông điệp vô cùng cụ thể.
Tôi cảm thấy hoàn toàn nhập làm một với nguồn năng lượng này. Cảm giác như tôi chính là cội nguồn và đang giao tiếp với chính mình, nhưng tôi biết có một sức mạnh vĩ đại hơn bao trùm mà tôi chỉ là một phần nhỏ trong đó. Tôi biết mọi trí tuệ vũ trụ hiển hiện bên trong nguồn sáng, và một khi bước vào trong, tôi sẽ hiệp nhất và sẽ biết hết mọi sự. Đi vào đó giống như cảm giác được trở về nhà, nhưng mạnh mẽ hơn gấp tỉ tỉ lần. Tôi được vỗ về, chấp nhận, yêu thương, và hoàn toàn nối kết với ý lực của Đấng Tối Cao.”(21)
“Quyền năng của Thượng Đế là vô biên.”
James là một bác sĩ bị khiếm thị. Trong ca phẫu thuật đặt ống thông tim đã xảy ra biến cố khiến anh lên cơn trụy tim, xung huyết, và huyết áp lẫn mạch anh ngừng đập chỉ bốn phút sau đó. Dù gần như mất hết thị lực, anh tường thuật lại: “Tôi có thể thấy rõ mồn một mà không cần kính, dù là nhìn gần hay xa. Trong cuộc sống, mắt tôi gần như mù dù có đeo kính đến cỡ nào”. James đã gặp Thượng Đế trong TNCT của mình:
“Không biết trải qua bao lâu, tôi bỗng đến một nơi tối kịt nhưng có chút ánh sáng le lói ở đằng xa. Một sự thôi thúc lạ kỳ buộc tôi tiến đến nơi nguồn sáng đó. Càng tiến đến gần hơn, tôi nhận thức được còn những linh hồn khác xung quanh. Tôi không nhìn thấy họ nhưng có thể cảm nhận rõ ràng sự hiện diện. Một không gian hòa quyện giữa mây, khói và sương mù như là kênh kết nối giữa các linh hồn và ánh sáng. Những hình hài lờ mờ hiện lên và tôi nhận ra họ. Chúng tôi giao tiếp với nhau, nhưng không phải bằng ngôn từ, chỉ đơn giản nắm bắt điều cần tương giao một cách tức thì.
Tôi gặp lại chị và mẹ tôi, họ đã mất nhiều năm trước. Dù hạnh phúc vô bờ khi ở cùng người thân, tôi vẫn bị sức hút kỳ lạ kéo về nguồn sáng – thứ ánh sáng ấm áp, huyền diệu và chói lọi nhất bao trùm khắp vạn vật.
Khi ở gần hơn, tôi cảm nhận một dạng thức năng lượng vô biên mà chỉ có thể là Thượng Đế. Mọi câu hỏi tôi đặt ra đều được giải đáp ngay lập tức. Lòng tôi tràn ngập tình yêu, hạnh phúc và niềm hân hoan – bởi nơi đây chỉ có sự chấp nhận, bao dung và tình yêu vô điều kiện. Nhưng khi muốn tiếp tục bước vào trong nguồn sáng thì một tiếng nói vang lên: ‘Không, vẫn chưa đến thời điểm dành cho con. Con phải quay lại’. Cùng với thông điệp ấy là hình ảnh vợ con tôi hiện lên. Tôi không muốn trở về, nhưng chẳng thể lựa chọn khác bởi bác sĩ lúc đó đã cứu tôi tỉnh lại.
Ánh sáng và linh thể tối cao chỉ có thể là Thượng Đế. Người hiện diện khắp nơi và ở trong mọi tạo vật. Quyền năng của Thượng Đế là vô biên.”(22)
“Thượng Đế trả tôi về một cách lành lặn.”
Với tư cách một bác sĩ, tôi vô cùng hứng thú với những trường hợp TNCT mà chủ thể sau tiếp cận với Thượng Đế được chữa lành một cách thần kỳ và không thể lý giải trên bất cứ phương diện y khoa nào. Có phải Thượng Đế là vị bác sĩ tối thượng? Tôi bắt đầu suy tưởng về điều này khi đọc về trường hợp TNCT của Nancy. Cô mắc chứng lupus ác tính khiến phổi bị xung huyết. Cơ thể Nancy bị nghẽn oxy trầm trọng đến độ tổn thương tới não bộ. Ngay đến máy thở cũng không duy trì được các tín hiệu sinh tồn, gần như chắc chắn sinh mệnh của cô đã chấm dứt. Khi Nancy hồi tỉnh, cô chia sẻ TNCT phi thường của mình:
“Khi cơ thể tôi ngưng tiếp nhận máy trợ hô hấp, bất thình lình tôi thấy mình ở trong một căn phòng với ánh sáng lờ nhờ. Trong phòng có một cánh cửa và tôi biết có điều gì đó đặc biệt. Và rồi tôi nhận ra mình không còn đơn độc nữa. Thượng Đế cũng ở đó cùng tôi – một linh hồn toàn thiện vô biên, một dạng thức tình yêu vô tận, toàn mỹ và tuyệt đối! Tôi không thực sự thấy bất cứ hình hài nào, song biết chắc chắn đấy là Thượng Đế. Và Người nói với tôi với lòng trắc ẩn vô hạn: ‘Phải chăng con quá mỏi mệt?’.
Tôi biết Người hỏi tôi có phải quá mỏi mệt để bước qua cánh cửa đó – cánh cổng của sự chết. Tôi không nhớ mình đã trả lời thế nào, nhưng tôi đã được phép chọn lựa có muốn trở về hay không. Chắc hẳn tôi đã chọn quay lại, và kỳ diệu thay, Đấng Tối Cao trả tôi về một cách lành lặn! Sau biết bao nhiêu năm khổ sở vì chứng lupus, khi tỉnh lại, tất cả tổn thương đều hoàn toàn biến mất! Kể từ TNCT, dù xét nghiệm bao nhiêu lần thì kết quả lupus của tôi vẫn âm tính.”
Các bác sĩ và người làm khoa học khó mà chấp nhận từ “phép màu”, song với những gì xảy ra với Nancy tôi không biết có từ nào mô tả chính xác hơn ngoài phép màu. Nancy tổng kết:
“Tôi được thấm đẫm bởi tình yêu vô điều kiện của Ơn Trên, thứ tình yêu vĩ đại hơn mọi khả năng yêu thương của con người. Thứ ý nghĩa nhất qua trải nghiệm của mình là niềm tin xác tín Thượng Đế có thật và yêu thương tôi vô hạn – Người chính là tình yêu.”(23)
HÉ LỘ TƯƠNG LAI
Rất nhiều chủ thể TNCT được biết về tương lai của mình trong TNCT. Điều này nghe chừng có vẻ hoang đường, song nhiều ca đã ghi nhận những thông tin kiểu này có tính xoa dịu và khiến các chủ thể an tâm trở về cuộc sống trần gian của mình. Ngoại trừ vài trường hợp đơn lẻ, gần như không chủ thể nào nhận được huấn thị cụ thể về điều gì sẽ xảy ra với họ.
“Người này không dành cho con.”
Trường hợp TNCT dưới đây, người phụ nữ tên Priscilla trong cơn sốc phản vệ đã trải qua trạng thái “linh hồn thoát khỏi thể xác” và đã gặp Thượng Đế. Cô nhận được một gợi ý duy nhất về tương lai:
“Tôi đã chết và xuất hồn khỏi cơ thể, rơi bồng bềnh xuyên qua băng ca cấp cứu và dạt về một góc phòng. Như thể cuốn vào một lỗ đen vô tận không đáy, một cảm giác tuyệt vời không chút đau đớn. Tôi thấy mình nhẹ không như chưa từng có một cơ thể bằng xương bằng thịt. Tôi biết Thượng Đế hay một quyền năng tối cao nào đó hiện diện nơi đây, và Người chính là chìa khóa đưa tôi trở về thế gian. Tôi không hề nói gì với Thượng Đế, Người cũng không nói với tôi – chỉ là cảm nhận.
Tôi đòi được trở về vì bốn đứa con thơ cần có tôi. Tôi cũng lý lẽ rằng mình cần chăm sóc mẹ, bà đã ngoài tám mươi và đã mất một đứa con rồi. Và rồi Thượng Đế bật cười, không phải cười tôi, mà vì sự bức bối của tôi với Người. Người ‘nói’ tôi có thể trở về bởi vì nguyện vọng ấy đều vì người khác.
Sau đó, tôi nhìn thấy bạn trai cũ đứng bên ngoài tòa nhà – anh ta mới chia tay tôi hôm trước. ‘Ai đó’ nói nhỏ với tôi: ‘Không việc gì phải sân giận. Người này không dành cho con’. Và tôi tỉnh dậy trong cơ thể của mình.”(24)
“Tôi còn một quãng đời dài để sống.”
Christopher gần như bị đè nghiến và bóp nghẹt đến chết ở tuổi lên tám khi đám anh trai “đè chồng” lên cậu khi chơi bóng bầu dục. Sau khi rời khỏi thể xác và nhìn từ trên xuống đống cơ thể xếp chồng lên nhau, anh tả lại mình đã đến thiên đường và gặp một thiên thần – người huấn thị rằng vẫn chưa đến thời điểm cậu chết. Dưới đây là tường thuật của Christopher:
“Tôi nằm dưới tận cùng của tháp người, phổi tôi đau đớn cực độ và hơi thở tôi đứt dần. Tôi nhắm mắt lại và cầu nguyện sẽ vượt qua chuyện này. Bất giác tôi có thể hít thở bình thường. Khi mở mắt ra tôi nhìn thấy đống cơ thể xếp chồng lên nhau từ bên trên, và cơ thể tôi bẹp dúm bên dưới. Nhìn quanh lúc đó thì tôi đã thấy mắt mình ngang tầm mắt với máng thoát nước trên mái nhà. Tôi vô cùng kinh ngạc – kiểu như phấn khích – khi tôi bay lên trời như thế. Tôi nhìn xuống đất và thấy đám con trai vội rời khỏi tôi với vẻ mặt thất kinh. Bỗng một lực giật mạnh phía sau lôi tôi vào một đường hầm tối hun hút với ánh sáng ở tận cùng.
Ban đầu thì hào hứng, và sau đó chuyển sang cảm giác lo lắng vì tôi không biết thoát ra bằng cách nào. Tôi cầu cứu bất cứ ai ngoài đó, tức thì ánh sáng ở cuối đường hầm bỗng chói lòa khắp không gian. Tôi vội lấy tay che mặt và nhắm nghiền mắt lại.
Một giọng nam vang lên bảo tôi không sao hết, tôi liền hạ tay xuống và mở mắt. Tôi đang ở giữa một thảo nguyên, với những ngọn đồi mấp mô và bạt ngàn hoa cỏ. Phía xa xa có những mái nhà tranh. Có những âm thanh êm tai vang lên. Không gian tỏa đầy sự ấm áp và tình thương – thứ tình yêu thẩm thấu và chuyển hóa bất cứ thứ gì.
Người đàn ông gọi tên tôi khiến tôi quay lại nhìn. Đó là một thanh niên với mái tóc dài, đôi mắt xanh, và trong bộ áo thụng trắng hơn bất cứ thứ gì tôi từng thấy. Người ấy tiến về phía tôi, nhìn tôi với đầy tình yêu và sự quan tâm, và nói tôi lẽ ra không nên ở đây. Tôi hỏi tại sao, và người đáp tôi còn một quãng đời dài để sống trước khi có thể bước vào thiên đường và ở lại. Tôi tự hỏi dài là đến khi nào. Như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi, người trả lời: ‘Phải đến tám mươi ba tuổi mới tới lúc của cậu’.”(25)