“Hỡi Đấng dấu yêu, hãy để chúng con yêu thương nhau, vì tình yêu thương đến từ Thượng Đế, kẻ nào biết yêu thì được sinh ra từ Thượng Đế và biết rõ về Thượng Đế.”
- 1 John 4:7 (ESV)
Trong phần khảo sát tường thuật của những chủ thể đã gặp gỡ Thượng Đế trong TNCT, hầu hết cảm giác mãnh liệt và nhận thức của họ đều đặc tả về một thực thể của tình yêu thương. Thượng Đế trong các TNCT thường được mô tả là một nguồn yêu thương bất tận, với sự chấp nhận hoàn toàn và vô điều kiện.
Các nhà thần học đôi khi giảng giải về tính toàn thiện của Thượng Đế, tức năng lực từ bi và thương xót tha nhân vô hạn. Lối diễn giải này hóa ra vô cùng gần với những gì mà các chủ thể TNCT kể lại về cảm nghiệm gặp gỡ Thượng Đế. Dưới đây là cách họ nói về tình yêu của Thượng Đế:
• Tôi cảm nhận được một thứ tình yêu vô cùng thuần khiết. Cảm giác đó thật khó để mô tả, nhưng mọi thứ bỗng sáng tỏ: Thượng Đế hiện hữu, Thượng Đế là tình yêu, chúng ta là tình yêu, và tình yêu là ngọn nguồn của tất cả. Vạn vật là tình yêu thuần khiết, Thượng Đế là tình yêu, và mọi thứ tồn tại bởi vì tình yêu vô điều kiện này. Trước đó tôi đầy nỗi đau và lạnh lẽo, nhưng rồi tình yêu thuần khiết bao bọc lấy và tôi ngay tức thì cảm thấy thanh thản, ấm áp. Tôi biết Thượng Đế ở đó và là tình yêu thuần khiết, mỗi chúng ta là một phần của Người.(1)
• Tôi biết tình yêu luôn hiện hữu quanh ta và Thượng Đế yêu tất cả con cái của Người, sâu sắc mà công bình. Không có một đứa con nào nhận ít hơn tình yêu trong gia đình của Thượng Đế. Tất cả chúng ta điều thánh thiện.(2)
• Thượng Đế yêu thương chúng ta vô hạn.(3)
• Tôi cảm nghiệm Thượng Đế như là một sự hiển lộ toàn năng – hình thái cao nhất của tình yêu trọn vẹn, toàn mỹ, vô điều kiện! Tôi được vỗ về trong tình yêu vô tận của Đấng Tối Cao mà không thể thức tình yêu nào ở con người sánh nổi. Tôi được trao ban minh kiến rằng Thượng Đế có thật và Người là tình yêu.(5)
• Tôi bỗng ngộ ra Thượng Đế yêu thương và nhân từ hơn mọi giới hạn tôi có thể hình dung.(5)
• Không thứ tình yêu nào có thể sánh bằng tình yêu tôi cảm nhận được ở nguồn sáng ấy. Đong đầy và bất tận. Có thể hình dung như khoảnh khắc bạn nhìn thấy con mình chào đời – nhân lên hàng triệu lần. Không ngôn từ nào đủ để diễn tả.(6)
• Toàn bộ cảm thức lúc đó đều phản ánh về Thượng Đế, về sự toàn năng tối thượng và lòng khoan dung vô hạn của Người. Thông điệp vô cùng rõ ràng: “Tình yêu là quyền năng vĩ đại nhất vũ trụ”.(7)
Khá rõ ràng để nhận ra tình yêu được đề cập như là một phần quan trọng của TNCT và rất khác với tình yêu theo định nghĩa thông thường trong đời sống.
Qua các tường thuật xuyên suốt quyển sách này, bạn có thể thấy trải nghiệm về tình yêu sâu sắc này thường đi cùng với sự giác ngộ về tính hiệp thông và toàn thể giữa mọi chúng nhân hay vạn vật. Bất kể chủ thể cận tử trong bối cảnh tai nạn xe cộ hay dùng thuốc quá liều, sinh khó, thậm chí tự sát,… tất cả họ đều quay trở lại cuộc sống với một trải nghiệm đỉnh cao trả lời cho ý nghĩa cuộc đời chính là tình yêu và sự hiệp thông. Những khai mở này không chỉ thay đổi cuộc sống sâu sắc, mà còn là những dấu chỉ dẫn chúng ta tiến đến gần nhất với Thượng Đế.
So với đủ mọi tầng quan niệm khác nhau của con người về tình yêu xuyên suốt lịch sử, giữa các nền văn hóa, lẫn dưới góc nhìn học thuật, thì tình yêu trong TNCT dường như được mô tả nhất quán hơn.
Để tìm hiểu sâu hơn ý niệm về tình yêu của các chủ thể TNCT, trong phiên bản khảo sát gần đây nhất của NDERF, tôi đã hỏi họ hết sức trực diện: “Trong trải nghiệm đã qua của bạn, bạn có tiếp nhận bất cứ thông tin hay sự khai ngộ nào có liên quan đến tình yêu không?”, và ngay tiếp sau câu hỏi này là một yêu cầu: “Nếu bạn trả lời có hoặc không chắc, hãy mô tả càng chi tiết càng tốt trải nghiệm này”. Và những thu gặt từ câu hỏi này đã tiết lộ phát hiện quan trọng nhất từ trước đến nay của NDERF.
ĐÀO SÂU HƠN
Trong giai đoạn từ 11 tháng 11 năm 2011 cho đến 7 tháng 11 năm 2014, đã có 420 trường hợp TNCT được đóng góp thông qua bảng câu hỏi NDERF. Bởi vì tầm quan trọng của tình yêu trong TNCT nói riêng và nghiên cứu về Thượng Đế nói chung, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu trên mẫu đại diện chứ không phải chọn các mẫu thuận tiện có khả năng gây nhiễu kết quả. Chẳng hạn như, nếu tôi chỉ nghiên cứu về tình yêu được đề cập đến trong các tựa sách phổ biến và bán chạy, giới phê bình sẽ phản bác ngay rằng nhóm nghiên cứu này thiên lệch và không phản ánh đúng bản chất. Bởi có thể nhờ những phóng dụ kịch tính, lạ thường về tình yêu trong nội dung mà những quyển sách này mới thu hút công chúng đến vậy. Tương tự như vậy, cách nghiên cứu TNCT được trình bày trong chương này được thiết kế nhằm loại bỏ yếu tố thiên lệch đó. Tất cả tường thuật trên NDERF đều được đưa vào phân tích, không một trường hợp nào bị loại ra vì nội dung hay mô tả khác lạ về tình yêu so với số còn lại.
Quay trở lại câu hỏi “Trong trải nghiệm đã qua của bạn, bạn có tiếp nhận bất cứ thông tin hay sự khai ngộ nào có liên quan đến tình yêu không?”, đây là các phản hồi chúng tôi nhận được:
Trong 420 trường hợp, có 272 ca (65%) diễn giải về trải nghiệm của họ. Tỷ lệ trả lời câu hỏi trên ở nhóm này:
272 trường hợp này, với đại đa số là phản hồi từ những chủ thể trả lời “Có” hay “Không chắc” cho câu hỏi ở trên, được phân tích kỹ lưỡng các khuôn mẫu, tính nhất quán lẫn các yếu tố thiếu tương đồng với nhau.
Dù đã tiên lượng trước, tôi vẫn không khỏi bất ngờ bởi sự giống nhau đáng kinh ngạc giữa các phản hồi. Sự mô tả đồng nhất này chắc chắn không đơn thuần do yếu tố văn hóa hay tôn giáo sẵn có, bởi vì các đối tượng xuất thân từ đa dạng thực hành tín ngưỡng khác nhau, kể cả rất nhiều người trong đây theo chủ nghĩa vô thần. Dưới đây là một vài diễn giải điển hình về ý niệm tình yêu trong TNCT:
• Tình yêu là thành tố tối hậu của hiện thực.(8)
• Tôi biết thực thể mình gặp được cấu thành từ một dạng vật chất tạm gọi là “tình yêu”, một sinh lực hay quyền năng vô hình. Tình yêu là từ duy nhất tôi có thể nghĩ ra để mô tả, dù nó vẫn chưa thực sự phản ánh hết.(9)
• Tôi biết tình yêu là năng lượng vĩ đại nhất hiện diện quanh chúng ta, và chúng ta cũng đều là tình yêu. Tình yêu là thứ duy nhất có thực, còn sự thù hận, nỗi đau, tổn thương và mọi thứ tiêu cực khác chỉ là những ảo tưởng chúng ta tạo trong suy nghĩ.(10)
• Tình yêu ở khắp mọi nơi, và ngập tràn khắp thế giới bên kia. Thật mầu nhiệm làm sao.(11)
• Tôi được ban tặng tình yêu vô điều kiện bất kể lỗi lầm hay nỗi sợ nào của mình trước đây.(12)
• Thứ tình yêu này không gì sánh được. Tôi cảm thấy vô cùng an toàn; không một điều dữ nào có thể xảy ra. Tôi không còn chút đau đớn nào, mọi muộn phiền và sợ hãi đều bị bỏ lại cùng vỏ bọc thể xác của tôi. Không phải ai cũng có thể nắm bắt được ý tưởng về dạng thức tình yêu này.(13)
• Tình yêu là Toàn Diện Toàn Thể. “Tình yêu” là từ duy nhất tiệm cận để diễn tả, bởi ngôn từ của con người chúng ta không đủ để nói về nó.(14)
TÌNH YÊU VƯỢT TRÊN CẢ NGÔN TỪ
Bạn đọc có thể thấy nhiều chủ thể TNCT đã cố gắng diễn đạt lại ý niệm tình yêu trong TNCT, song không ít chủ thể khác lại lúng túng trong việc trình bày lại trải nghiệm đó. Đây là tình huống khá điển hình khi thông tin bị giới hạn bởi ngôn từ. Sau đây là một số phản hồi khác về cảm nhận sự hiện hữu của Thượng Đế:
• Thứ cảm xúc tột bậc ấy như thể là trung tâm của vô vàn cảm xúc tích cực tinh thuần – một tổng hòa vô hạn giữa bình an, niềm vui, tình yêu, chấp nhận, bao dung,… mà mỗi lần hồi tưởng lại tôi vẫn không cầm được nước mắt.(15)
• Tôi không cách gì mô tả tường tận nổi. Cả bạn cũng không thể hình dung nổi. Không ai, không ngôn từ nào đủ khả năng diễn tả cảm nghiệm về Thượng Đế.(16)
• Tôi đã ở trong cảm nghiệm hiệp thông và sáng tạo vô hạn về sự hiện hữu của Thượng Đế. Sự hiển linh ấy mới chính là “tính thực”, mọi sự vật hiện tượng khác chỉ là phản chiếu của cái thực ấy.(17)
Việc phân tích nội dung hay khái quát hóa ý nghĩa chung của các diễn giải TNCT có khả năng lái nghiên cứu sa đà vào tiểu tiết. Khi cố khai thác sâu những chủ đề nổi bật, chúng ta dễ bỏ qua bức tranh lớn hơn về tác động mạnh mẽ của các trải nghiệm ấy. Dưới đây là một số diễn giải dài đề cập đến sự chuyển biến sâu sắc cuộc đời của chủ thể sau trải nghiệm tiếp xúc với tình yêu thánh thiện.
CẢM THỨC YÊU THƯƠNG THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI
“Một màn sương tình yêu ấm áp.”
Thelma S. bị tấn công bất ngờ trong lúc cắm trại với các con ở California. Cô vẫn luôn dặn dò các cô con gái không bao giờ được đi một mình khi ở các chỗ rậm rạp, song tai họa ấy giờ lại ập đến với chính cô. Khi đang tìm củi nhóm bếp thì một gã đàn ông quen biết phóng ra từ bụi rậm, đánh cô tàn nhẫn bằng tay nắm sắt và bỏ mặc cô mê man tới chết.
Trong tình trạng cận kề cái chết, Thelma trải qua trải nghiệm về tình yêu thương đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời cô. Cô cố gắng kể lại, và nhấn mạnh rằng giới hạn ngôn ngữ chỉ có thể diễn tả một phần rất nhỏ trải nghiệm này:
“Tôi không thể tìm ra từ ngữ nào đủ diễn tả lại hình ảnh đó. Ánh sáng ư? Thứ ấy vĩ đại hơn, huyền diệu hơn mọi ánh sáng. Nó như là một màn sương ấm áp lan tỏa tình yêu thương, lấp lánh và bất tận! Như thể tôi yêu say đắm vạn vật trên thế gian, và mọi chúng nhân trao cho tôi tất thảy tình yêu trên đời! Thật là một cảm giác thoát tục, tôi chỉ muốn ở mãi không về.
Cuộc sống của chúng ta chính là món quà; chúng ta kiến tạo nó theo ý chí của mình. Trong ngôn ngữ giới hạn của loài người có nhắc đến thứ tạm gọi là ‘Thượng Đế’, hay đúng hơn đó chính là tình yêu! Giờ tôi phần nào hiểu được những lời trong Kinh Thánh của cha tôi.
Một thứ gì đó đẹp đẽ và chan chứa yêu thương trở về trong tâm tôi. Tôi bỏ lại mọi cảm xúc tiêu cực và trở lại với một con người tôi hoàn toàn mới. Nhưng phải mất rất nhiều năm sau tôi mới nhận thức được thời khắc thay đổi này xảy ra như thế nào. Mọi người xung quanh để ý đến sự khác lạ ấy, nhiều người nghĩ rằng tôi đã trở thành một con chiên ngoan đạo. Song thực lòng mà nói, những giáo lý tôi được cha truyền dạy từ nhỏ giờ đã nhường chỗ cho một đức tin về tình yêu cội nguồn và Đấng Tối Cao không gì suy chuyển.”
Trong phần diễn dịch trải nghiệm, Thelma đề cập đến một nhãn quan đầy thú vị về sứ mệnh chuyển tải cho trần thế về thánh lực của tình yêu ở thế giới bên kia:
“Không có từ ngữ nào nói đủ những gì tôi cần nói! Nhưng nếu mọi cá nhân từng trải qua TNCT có thể kề vai cùng nhau, chúng ta có thể hội tụ đủ ‘sức mạnh’ hay ‘niệm lực’ tình yêu có thể điều hướng hay cảm hóa mọi sự ở cõi thế nhân! Tôi tin nguồn yêu thương, bình an và cảm giác thăng hoa trong bản thân chúng ta khả dĩ xoay chuyển nỗi vô cảm trong thế giới này.”(18)
“Tận bây giờ tôi vẫn không thôi xúc động mỗi khi kể lại.”
Một chủ thể TNCT khác cũng gặp khó khăn trong việc diễn đạt lại cảm nghiệm về tình yêu ở bên kia thế giới là Kathy W. Trong ca sinh khó đứa con thứ hai, cô lâm vào nguy kịch và đã có một TNCT. Cô cho hay:
“Ngay cả khi hôn mê sâu, tôi vẫn có thể nghe thấy mọi thứ. Tôi bị một lực từ phía sau rốn kéo hồn mình lìa khỏi cơ thể. Tôi cố gào thét rằng mình bị bắt đi nhưng thể xác tôi vẫn cứ bất động.
Sau đó, tôi nhận ra mình đang ở một cõi tối, tôi thấy đau tột cùng và kinh động bởi một tiếng động đinh tai như một cơn bão lốc. Ban đầu tôi rất lo sợ, nhưng từ trong nỗi đau đớn ấy mọi thứ bỗng trở nên sáng tỏ tuyệt đối. Tôi như ngộ ra chân thân của mình, thấu thị sự thật mình là ai. Tôi không có nhục thể, chỉ còn ý thức và tâm niệm sẵn sàng ở lại nơi đây vĩnh viễn miễn con tôi được sống và bình an vô sự. Ngay khoảnh khắc đó tôi bị lôi ngược về sau ngày một nhanh hơn.
Một nguồn sáng soi rọi từ phía sau tôi, rồi tôi rơi xuyên qua bề mặt vùng nước tối và trong như thủy tinh. Khi chạm đến rìa bên kia vùng nước, tôi bắt đầu nhìn và nghe lại mọi khung cảnh của cuộc đời mình. Tôi đã ở trong một đường hầm lớn với vách bao quanh bồng bềnh như những đám mây, và những ngôn lời chan chứa tình yêu thương thì thầm và dẫn lối cho tôi. Họ hỏi lý do tôi ở chốn đó – không phải đề cập đến đường hầm tôi đang ở, mà là ‘đâu là mục đích tồn tại của tôi’.
Suốt quãng thời gian đó, tôi được tống đẩy mỗi lúc một nhanh về phía nguồn sáng và toàn thân được mở ra như một đóa hoa, dù lúc ấy tôi không còn cái gọi là cơ thể. Lúc tôi ‘mở’ ra hoàn toàn cũng là lúc tôi cảm nhận được nó – Tình Yêu Cội Nguồn, tuyệt vời hơn hết thảy mọi thứ tôi từng biết đến. Dù chỉ còn trong ký ức nhưng cảm giác ngập tràn ấy không bao giờ vơi đi. Đến tận bây giờ tôi vẫn không thôi xúc động mỗi khi kể lại. Tôi được bao bọc bởi ánh sáng và cảm nhận sự hiệp thông với toàn thể – thấu hết, tỏ hết.
Trải nghiệm này mang lại một tầng nghĩa mới cho cách diễn đạt ‘Thượng Đế là Tình Yêu’. Cội Nguồn Yêu Thương như là một dạng năng lượng kết nối mọi phân tử trong vũ trụ.
Sau khi hòa thành một thực thể trong nguồn sáng, tôi được lựa chọn điều gì xảy ra kế tiếp. Ý chí tôi liên tục mở rộng, và tôi nhận ra rằng nếu cứ để tiếp diễn như vậy tôi sẽ không còn khả năng trở về cõi này. Tôi không biết giải thích chính xác thế nào, nhưng đến một thời điểm tôi biết mình phải ngừng nó lại.
Ngay lúc đó, tôi bắt đầu ý thức mình đã trở lại cơ thể và đang chuẩn bị được đưa vào phòng mổ. Tôi đã trở về với sự thấu thị tương lai, tôi yêu cầu bác sĩ không mổ mà trợ sinh con bằng kẹp gắp. Tôi cũng biết đó là một đứa con trai. Bác sĩ đồng ý thử phương pháp trợ sinh bằng kẹp gắp, song cũng dự phòng phương án đẻ mổ. Kết quả là tôi đã sinh bé trai đích xác bằng cách thức tôi yêu cầu.”(19)
“Bao bọc bởi Tình Yêu Vô Điều Kiện.”
Bruce là một trường hợp tương tự khác tương tác với Thượng Đế, và anh cũng khó khăn trong việc diễn đạt thành lời trải nghiệm ấy. Chuyện xảy ra khi Bruce tiệc tùng thâu đêm cùng bạn bè, với hàng loạt cuộc chè chén mà đỉnh điểm là màn “bia, rượu và cần xả láng” nửa đêm. Lúc này Bruce rơi vào trạng thái mê sảng do quá tải lượng cồn, và cũng là điểm bắt đầu của cuộc hành trình:
“Tôi nốc cạn năm hay sáu chai bia, cùng với ba ly cối whisky. Tầm năm phút sau tôi bắt đầu thấy cổ họng khát khô; khi vừa định đứng dậy để lấy thêm đồ uống, bất thình lình một cơn đau khủng khiếp lan khắp ngực tôi. Điều cuối cùng tôi còn nhớ trước khi rời khỏi cơ thể là mình đã ngã ngửa xuống sàn.
Bằng cách nào đó tôi biết mình đã bị đột quỵ, ngưng thở và thoát ra khỏi thể xác. Tôi du hành xuyên qua một đường hầm với vận tốc nhanh khủng khiếp. Trước khi kịp định hình lại thì tôi đã thấy mình ở trong một căn phòng tráng lệ và ngập tràn ánh sáng, với một chiếc ngai uy nghiêm trên đầu tôi.
Cả người tôi dậy lên nỗi sợ, nhưng không thể trốn đi đâu trước sự hiển linh của Thượng Đế. Tôi nhìn thấy đời mình – mọi niềm vui, nỗi buồn và các sóng gió – tất cả hiện lên trước mắt như một thước phim. Tôi nhìn lại quãng đời tôi sống tử tế và cả những khi lầm lỗi. Tôi chứng kiến thời điểm bị bỏ rơi và chính mình bỏ rơi người khác. Tôi nghiệm lại cuộc tình đi vào ngõ cụt, và bản thân đã bị lạm dụng ra sao.
Tuy không một ngôn lời nào cất lên, nhưng tôi hoàn toàn thông suốt những gì được nói, như thể là một kiểu giao tiếp ngoại cảm. Thượng Đế không bằng lòng về cuộc đời đầy nghiện ngập của tôi. Và rồi tôi được nhìn thấy, không phải bằng mắt trần mà qua một thể thức tâm linh khác, viễn cảnh về một chốn đày ải khủng khiếp. Nhưng có một đấng xuất hiện và dẫn lối tôi ra khỏi nơi kinh hoàng ấy, và tôi biết đó là Chúa Jesus.
Nhiều người thân quen bỗng xuất hiện quanh tôi, tâm hồn tôi được đong đầy bằng tình yêu vô điều kiện và cảm giác mình đang ở ‘nhà’. Sau đó tôi bị bắt buộc phải trở về cuộc sống phàm trần với lời chúc phúc mọi việc sẽ ổn. Tôi không muốn rời khỏi nhưng mọi người xung quanh nhẹ nhàng hối thúc tôi quay về. Tôi càng khăng khăng mong muốn ở lại. Lúc đó lần lượt từng người tôi yêu thương tiến đến và khẩn nài tôi phải đi ngay.
Tôi nhận ra sự có mặt của mình khiến những người này không yên, mà tôi không hề muốn tổn hại đến họ. Mọi người tới để gặp tôi, nhưng tôi chưa thể ở cùng họ lúc này. Mà vào một thời khắc nào đó trong tương lai, tôi biết mình sẽ gặp lại và đoàn tụ với tất cả. Tôi cần quay về và hoàn tất công việc, hay sứ mệnh được giao phó để thay đổi cuộc đời rất nhiều người khác.
Trước khi trở lại đường hầm, tôi mới sực tỉnh rằng những gương mặt quen thuộc mình gặp khi nãy đều là những người thân đã qua đời. Thật choáng ngợp.
Vào đường hầm, tôi tức thì lao đi với vận tốc cực nhanh. Phản ứng cơ thể đầu tiên tôi có là hít lấy hít để không khí. Phổi tôi giãn hết cỡ nhờ ai đó hết sức bình sinh ấn mạnh để kích thích hô hấp ngoài lồng ngực. Tôi nghe mọi người tranh nhau nói: ‘Bọn tớ tưởng cậu lên cơn đau tim’. Khi ấy tôi không còn hơi sức để trả lời.
Giờ tôi đã hiểu mọi con người đều xứng đáng với tình yêu thương, bởi mỗi chúng ta được tự do chọn lựa có trở về trong tình yêu của Ơn Trên hay không. Sự sống rồi sẽ đến lúc chấm dứt, nhưng tình yêu thương là sinh lực mãi mãi không mất đi. Tôi đã thấu đạt Thượng Đế vĩ đại hơn mọi hình dung của tôi trước đó.”(20)
Trải nghiệm về tình yêu vô điều kiện của Bruce đã khiến cuộc đời anh lật sang một trang mới. Ngay giây phút anh ngộ ra rất nhiều trắc trở trong đời mình xuất phát từ sự bám chấp của bản thân, quá khứ đã không còn quan trọng nữa, thay vào đó là tình yêu mà với anh là “thứ trọng yếu nhất đời người”. Hiện nay, điều anh chú trọng là làm cách nào để lan tỏa tình yêu thương mà mình đã tiếp nhận trong TNCT. Và cuộc sống của Bruce ngày một thăng hoa.
“Tôi được chữa lành.”
Trên đường về nhà sau khi khám nha sĩ, Michaele S. băng ngang qua đường ray và bị tàu lửa húc văng chiếc xe chở cô cùng đứa con gái chín tuổi. Cô chỉ kịp lấy thân che cho con mình trước khi toàn bộ gương mặt bị đập mạnh vào vô lăng.
Con gái cô chỉ bị xây xát nhẹ, nhưng cú va đập đã khiến Michaele gãy nhiều chiếc răng và chấn thương sọ não nghiêm trọng. Cô chỉ đủ tỉnh để biết con gái mình vẫn an toàn, và rồi mọi thứ tối sầm lại:
“Tôi bỗng thấy mình ‘bồng bềnh’ bên ngoài chiếc xe, bênh cạnh một thực thể ánh sáng. Đoàn xe lửa vẫn lướt qua vun vút, nhưng bầu không khí tĩnh lặng một cách tuyệt đối. Thực thể ánh sáng đó có hình dáng lẫn gương mặt như con người, mang dáng dấp một người đàn ông – và đẹp tuyệt trần. Tôi được ‘phán bảo’ rằng mình được chọn lựa sự sống hay chuyển tiếp sang ‘tầng tiếp theo’. Những ý niệm ấy được truyền qua tâm ý, tôi hiểu nó nhưng không cách gì mô tả lại được.
Sau đó tôi được cho thấy kết tinh của quãng đời đã qua – không phải những khung cảnh rời rạc, mà như thể toàn bộ cuộc đời của mình được cô đọng lại. Cuộc đời của tôi hiển lộ chân thật như nó vốn có mà không hề bị bất cứ phán xét nào. Mọi lựa chọn của tôi, dù là gì chăng nữa, cũng không bị đánh giá. Lời gọi mời ‘đi tiếp’ đúng là điều tôi hằng hoài vọng. Và rồi tôi nhìn xuống, qua lớp kính chắn gió của chiếc xe là con gái của tôi đang ngồi ở ghế sau, nức nở khi không thể với tới thân xác tôi.
Ngay giây phút nhìn thấy con gái, tôi nhận ra cuộc sống trần thế đã được an bài cho mỗi linh hồn. Tôi cứu con gái vì đó là lựa chọn của tôi, không phải vì thôi thúc bởi bản năng làm mẹ, không có bất cứ phán xét đúng sai cho mọi hành động. Tôi đã chọn cuộc sống này, và thực thể ánh sáng đưa tôi đến một chốn khác. Chúng tôi ‘di chuyển’ xuyên qua một cõi vô cực – không ngôn từ nào đủ để diễn tả nó – và quả thực tại đây, ngôn ngữ đã không còn hiệu lực.
Vùng vô cực vừa là khoảng không, vừa không phải. Chúng tôi tới được một nơi lưng chừng mà thực thể ấy được gọi là Tình Yêu. Người vẫy tay và nói: ‘Đây là Tình Yêu. Nguồn sinh lực ấy luôn hiện diện, luôn chảy quanh con, đong đầy yêu thương và không bao giờ cạn. Điều duy nhất con cần làm là mở lòng ra và đón nhận nó. Và nó sẽ chữa lành con’. (Tại thời điểm đó, tôi nghĩ Linh Hồn Tối Cao ấy nói đến việc chữa lành thương tổn cơ thể, dù đúng là vậy, nhưng nó còn vượt xa hơn thế – là những minh kiến tôi nghiệm ra nhiều năm sau trải nghiệm này). Chưa bao giờ tôi có thể diễn đạt lại đầy đủ những gì trải qua ở đó; bởi nó vượt ngoài ngôn từ của loài người. Tình yêu vừa bất tận, vừa chứa đựng trong từng sinh thể; vô sắc và muôn trạng sắc màu; vô thể và lại toàn thể. Nó là nguồn sáng sống động, hữu hình, và nhiệm màu. Là vạn vật, lẫn không phải bất cứ thứ gì. Hiện hữu nhưng không bị sở hữu bởi cá nhân. Vừa muôn hình vạn trạng, vừa vô hình vô tướng. Tôi cảm nhận niềm hân hoan trong trạng thái bình an, tĩnh tại không gì sánh nổi.
Rồi bỗng tôi quay trở lại cơ thể mình. Tôi quay mặt khỏi con gái đang sợ chết khiếp và cố tìm lại phản xạ hít thở. Tôi có thể ‘thấy’ hơi thở chạy dọc cơ thể mình. Tiếp đó tôi nghe ‘giọng nói’ bảo tôi không được nuốt ngược máu nữa mà phải nhổ ra. Tôi không thể thoát ra khỏi chiếc xe, phải một lúc mới có nhân viên đường sắt chạy đến và hỏi tôi có sao không. Tôi đã bật cười khi nghe câu hỏi đó, và tôi chẳng nhớ lúc đó mình đã trả lời những gì.”
Michaele ở trong trạng thái “duy trì mức độ nhận thức và ý thức tăng tiến liên tục kéo dài nhiều ngày” sau biến cố, tiếp nối bởi một đợt trầm cảm khi đối mặt với sự thật rằng cô ấy phải trở về cuộc sống trần thế.
“Tôi cảm thấy bản thân đã khác đi hoàn toàn, nhưng mọi tình trạng trong cuộc sống tôi vẫn chẳng có gì thay đổi. Tôi vẫn phải vật lộn với mớ hỗn độn mình tạo ra trước khi xảy ra tai nạn. Tôi đã kỳ vọng trải nghiệm tuyệt diệu ấy sẽ là phép màu không chỉ chuyển hóa tôi, mà cả cuộc sống của tôi. Ba mươi sáu năm sau, tôi mới nghiệm ra đúng như vậy. Tình yêu luôn tuôn chảy, và tất cả những gì chúng ta phải làm là đón nhận nó. Trải nghiệm ấy vẫn nguyên vẹn trong tôi không chút phai nhạt.”(21)
“Nguyên thể của tôi là năng lượng của tình yêu thương.”
“Tất cả những gì tôi còn nhớ là cảm giác như bị hút vào khoảng không thăm thẳm như một đường hầm”, Teri R. thuật lại sau tai nạn xe hơi suýt chút nữa cướp mất mạng sống của cô.
“Tôi lao đi vun vút như thể đang bay, nhưng cũng có cảm giác như mình bị cuốn vào khoảng không vô tận. Rồi tôi thoát ra khỏi đường hầm tối đến một nơi kỳ ảo với không gian toát lên sự bình an khôn tả. Thực Thể Ánh Sáng Trắng Vĩ Đại hiện diện ở đây. Tôi biết rằng Người xuất hiện với một hình hài để tôi cảm thấy gần gũi và có khả năng tiếp xúc, nhưng chân thể của Người là Ánh Sáng và Tình Yêu.”
Thực Thể Ánh Sáng được Teri mô tả lại như một người đàn ông lớn tuổi với mái tóc dài và chòm râu xám. Cùng nhân dạng đó là cảm giác “Người yêu thương [cô ấy] vô điều kiện”. Teri kể tiếp:
“Sự hiển lộ của Người tạo cho tôi cảm giác mình đang ở ‘nhà’ – một cảm nghiệm tôi lần đầu tiên biết đến trong đời. Tôi nhìn thấy chân thân của mình là năng lượng của tình yêu thương, nhưng khi cùng Người nhìn lại cuộc sống trước đây của mình, tôi chợt hiểu ra tôi đã tự cô lập bản thân khỏi phúc lành của tình yêu bằng sự giận dữ. Giờ đây tôi mới nhận ra tầm quan trọng của tình yêu được phóng chiếu ra bên ngoài, bởi người khác có thể gặp dữ hay lành do năng lượng phát xuất từ tôi. Tôi cũng ngộ ra rằng thiên đường không phải một cõi nào đó mà là một trạng thái ta có thể đạt được. Hiện diện cùng sự hiển linh của Nguồn Sáng Trắng chính là ‘thiên đường’, đó là cảm giác hạnh phúc tột cùng tôi chưa từng nếm trải hay tưởng tượng tới trước đây, nhưng nó có thật. Ước nguyện của tôi là được nếm trải lại một lần nữa cảm giác ấy – chứ không phải tìm kiếm một thế giới khác. Cảm giác và năng lượng tôi cảm nghiệm tự thân nó đã trở thành ‘cõi trời’.
Mọi người thường nói dù có chạy đi đâu bạn không thể thoát khỏi con người hữu hạn của mình. Ý thức của bạn phải chuyển hóa để cảm thụ được tần số cao hơn của tình yêu, bình an, niềm vui, hân hoan và hạnh phúc.
Và đó là điều tôi hằng mong đạt được. Tôi muốn trở lại trạng thái đó bởi khi quay về tầng ý thức thông thường thì không còn bắt nhịp được với thứ tình yêu vô điều kiện mình đã cảm nghiệm. Tôi biết tôi phải trở nên yêu thương, bác ái hơn mới có thể cảm nghiệm lại tình yêu khôn tả đó một cách trường cửu.
Những thông điệp này khó mà diễn đạt tường tận, bởi chúng không được truyền đến tôi bằng con đường ngôn từ mà qua tâm ý, song không hề hàm chứa bất cứ phán xét hay thị uy nào. Nguồn Sáng Trắng không gì khác hơn Tình Yêu tinh thuần nhất. Qua các lĩnh ngộ mới, tôi thấu rõ hơn cách thế giới này vận hành, và tôi muốn sống tốt hơn – không bị dẫn dắt bởi nỗi sợ nữa mà hoàn toàn phát xuất từ tình yêu.”
Những tổn thương thể lý của Teri dần hồi phục, nhưng còn cảm giác ngập tràn tình yêu trong TNCT khiến cô cứ khắc khoải tìm mọi cách để quay lại “cảnh giới tôi đã đến khi chết”. Giờ đây, sau khi trị liệu những khó khăn kiềm chế nóng giận xuất phát từ các biến cố thời ấu thơ, Teri cho biết cuối cùng cô cũng đã phát triển “khả năng yêu thương đối với mọi chúng nhân, bất kể họ hành xử thế nào”. Cô viết:
“Lúc này, mục tiêu đời tôi chỉ duy nhất là sống với tình yêu vô điều kiện trong mọi phút giây. Có nhiều tình huống, tôi vẫn phải thực hiện một số động thái để mở được tần số yêu thương trong mình, nhưng dần dà tôi đã làm chủ được nó.”(22)
“Tôi đã hạnh phúc khôn tả.”
Lúc lên ba, khi ăn hạt điều, Katie đã vô tình bị một hạt chặn nghẹt khí quản. Người cô tái đi và cô rơi vào hôn mê. Ông nội cô tuy đã dùng mọi kỹ năng của một cựu lính cứu hỏa để cấp cứu, song cũng đành chấp nhận cháu mình không qua khỏi. Trong TNCT, Katie trải qua cảm giác ngập tràn tình yêu và niềm hân hoan chưa từng có, mà cho đến ngày hôm sau, sau khi tỉnh lại cô mới nhận ra ý nghĩa của nó. Dưới đây là tường thuật của cô:
“Khi chết, tôi thoát ra khỏi cơ thể mình và nhìn thấy ông nội đang làm mọi cách cứu sống tôi. Nhưng tôi không có chút lưu luyến với xác thân của mình, thế nên tôi rời khỏi căn phòng đó sang phòng khách – nơi tôi cảm nhận một thứ gì đó hiện hữu. Tôi bước về phía sinh thể ấy, một vùng ánh sáng chói lòa – nó không phải dạng như đường hầm, mà là một điểm hội tụ. Nó là hiện thân của bình an, yêu thương, chấp nhận, tĩnh tại và hân hoan. Nó bao bọc lấy tôi và chưa bao giờ trong đời tôi cảm nhận niềm hạnh phúc bất tận như vậy, một cảm giác khôn tả mà tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in. Tôi không có ý niệm hiện thân này là Thượng Đế (tôi còn quá nhỏ để hiểu khái niệm Đấng Tối Cao), nhưng cảm nghiệm đó là ‘nguồn’ đã tạo nên con người tôi. Tôi sáng rõ mình là tạo vật được ban cho sự sống.”
Katie hồi tỉnh vào ngày hôm sau. Cô tiếp tục kể:
“Hôm sau tôi xác tín vào hai điều: (1) có đời sống sau cái chết, và (2) tôi là một thực thể sống. Tôi chẳng tài nào lý giải được ý niệm đó, và đã chuyển nỗi bức bối ấy thành hàng tá thắc mắc với mẹ tôi: ‘Ai đã tạo ra con? Vĩnh hằng là sao? Thượng Đế là gì?’. Bà ấy không trả lời được nhưng chỉ dẫn cho tôi đúng người có thể giải đáp được. Trải nghiệm mạnh mẽ ấy đã thôi thúc tôi dành cả đời nghiên cứu về triết học và tôn giáo.”(23)
“Tràn ngập cảm giác được yêu thương và được chấp nhận.”
Năm 14 tuổi, Demi đã cùng một người bạn đi chơi ở vùng bờ biển Oregon. Trong lúc mải mê tìm vỏ sò, cô bị sa chân vào một xoáy nước sâu khiến cả cơ thể lún sâu trong cát và không cách gì ngoi lên khỏi mặt nước. Biến cố kinh hoàng ấy nhiều thập kỷ sau đã trở thành một sự kiện phúc lành đã khai mở tâm thức và hy vọng với cô. Đây là câu chuyện của Demi:
“Tôi quẫy đạp một cách vô vọng để ngoi lên nhưng chẳng thể thoát được. Và rồi tôi ý thức linh hồn mình đang thoát ra khỏi cơ thể qua đỉnh đầu, cùng với đó là cảm giác bình yên và yêu thương. Tôi không hề cảm thấy chút luyến tiếc nào khi rời bỏ thể xác; Thậm chí tôi chẳng buồn quay lại.
Sau đó trong tôi bỗng ngập tràn cảm giác được yêu thương và được chấp nhận. Tôi thấy mình ở trong một đường hầm đầy những màu sắc và tiếng nhạc tuyệt trần – hơn mọi âm thanh và sắc màu sắc trên đời. Tôi không có chút mảy may sợ hãi – chỉ có cảm giác bất tận về tình yêu.
Phía trước tôi là một nguồn sáng chói lòa, những tưởng nó sẽ làm lóa mắt, song tôi không hề bị khó chịu khi nhìn vào. Tôi biết thứ ánh sáng đó là nơi mọi thứ đản sinh và cũng là chốn vạn vật trở về, và khi bước vào trong lòng nguồn sáng tôi sẽ thấu tỏ và hợp nhất với tất cả.
Tôi không thấy hay cảm nhận bất cứ sự hiện hữu nào của con người. Mắt tôi chỉ nhìn thấy toàn màu sắc tuyệt trần, tai tôi chẳng nghe được âm thanh nào khác ngoài thứ âm nhạc thần tiên. Tôi được trao ban những thông điệp – một cách tức thì, đơn giản tôi tiếp thu và thấu đạt ngay – và càng tiến gần về ánh sáng, tôi càng nóng lòng được hiệp thông với nó, để được ‘trở về’ với cội nguồn tình yêu và trí tuệ toàn thể.
Thông điệp đầu tiên tôi nhận được là về sự thật tối quan trọng của vũ trụ: tình yêu là chất liệu duy nhất làm nên vạn vật; tất cả chúng ta đều giống nhau, và chúng ta đều là tình yêu. Thông điệp nói rằng tôi từng là một thể thức y hệt như mọi tạo vật trong vũ trụ này, từ các thiên hà vĩ đại đến một cọng cỏ bé nhỏ. Nhưng, lúc này vẫn chưa phải thời điểm cho tôi ở đây, vẫn còn những việc tôi cần hoàn tất ở cõi trần thế. Tin này khiến tôi bất mãn, bởi chưa bao giờ trong đời tôi có được cảm giác tràn đầy yêu thương và trọn vẹn như ở đây. Tôi không muốn rời bỏ và kháng cự lại, nhưng rồi được nhẹ nhàng truyền rằng mình phải trở về để hoàn thành sứ mệnh còn dở dang.
Không được báo trước, tôi thình lình trở lại cơ thể mình. Ký ức đầu tiên là ai đó đã nắm tóc tôi và kéo cả người lên khỏi mặt nước. Tôi đã giận lắm vì tôi không muốn trở về – tôi muốn được ở lại cùng nguồn ánh sáng – và rồi cảm giác kinh sợ những gì mới xảy ra với mình đã xâm chiếm lấy tôi.”
Demi cho biết trong nhiều năm cô rất hạn chế tiết lộ những gì đã trải qua nhưng không ngừng tìm hiểu về ý nghĩa và các khả năng liên quan đến trải nghiệm của mình. Cô tiếp tục việc học và dành sự quan tâm đặc biệt tới vật lý, sinh học, hóa học, và toán học hòng lý giải ý niệm làm sao cô ấy lại có thể tương đồng với một cọng cỏ. Sau khi nghiên cứu về sự khác biệt giữa tế bào thực vật và tế bào con người, và không thể tìm ra bất cứ mối liên kết nào, cô hồ nghi thông điệp đó là điều bất khả.
Một ngày nọ, khi xem truyền hình, cô vô tình bắt gặp một chương trình về vật lý lượng tử và đề cập đến lý thuyết dây, đó là khoảnh khắc khai ngộ đối với cô.
“Sau bao năm trời trăn trở về thông điệp ngọn cỏ, cuối cùng tôi đã tìm thấy đáp án. Mọi chuyện thật quá đỗi rõ ràng – như thể một cú đánh mạnh vào đầu làm bật ra câu trả lời. Bên trong mỗi hạt quark, thành phần nhỏ nhất cấu thành nguyên tử, là hàng triệu sợi năng lượng thuần khiết. Tùy hình tướng của chúng mà hình thành nên một tảng đá, một con voi, một người hay một ngọn cỏ! Đó là lời giải cho tôi. Tôi biết tất thảy chúng ta đều được tạo nên từ năng lượng. Từ các quy luật vật lý, tôi biết hạt quark khả dĩ được chia tách nhỏ hơn nhưng mọi liên kết vẫn mang cùng một bản chất. Nói cách khác, chúng ta là cùng một dạng với mọi ngọn cỏ.”(24)
Demi phải đương đầu rất nhiều khó khăn trong cuộc sống liên quan tới các biến cố ấu thơ, áp lực công việc, vấn đề sức khỏe, nhưng dù trải qua bao nghịch cảnh thì “mối liên hệ” với TNCT của cô vẫn không phai mờ và cô vững tin “điều ấy có thật”.
VAI TRÒ CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG TRONG TNCT
Lý do tôi đưa các ca điển hình kèm tường thuật chi tiết vào chương này là nhằm giúp bạn đọc hình dung bức tranh toàn cảnh về sự vận hành của tình yêu và Thượng Đế trong TNCT. Hầu hết đều cùng mô tả về cảm nghiệm yêu thương bất tận và mang tính chuyển hóa, vượt trên mọi ý niệm thông thường của con người.
Đến đây tôi xin được đúc kết lại những gì đã điểm qua về vai trò của tình yêu thương trong TNCT. Chúng ta đã biết được một phần lớn những chủ thể TNCT cảm nghiệm cảm giác thăng hoa và choáng ngợp khi nhận diện bản thân là kết tinh của tình yêu và/hoặc khi đón nhận tình yêu thương tột bậc. Thứ tình yêu này thường được mô tả bằng các từ như ân sủng, chấp nhận và tha thứ. Thực tại này khuấy động tâm can và biến chuyển phần đời còn lại của rất nhiều người. Không ít cá nhân tin rằng tình yêu không đơn thuần chỉ là một cảm giác, mà nó còn là sự khải thị bản chất của thế giới và mục đích sâu thẳm của sự hiện diện trên cõi đời này của họ. Với một số khác, đây là hành trang quý giá nhất từ TNCT – nó nâng đỡ họ suốt nhiều năm về sau. Và phát hiện quan trọng nhất là những kiến giải này giống nhau đáng kinh ngạc ở đại đa số TNCT.
Nhưng tình yêu trong TNCT không chỉ có thế, và đó là điều chúng ta sẽ tìm hiểu trong chương tiếp theo.