Có loại lực nào, yếu tố nào hoặc quyền năng hay bí quyết nào – bạn muốn gọi sao cũng được – mà chỉ có một vài người có thể thông hiểu và sử dụng nó một cách nhuần nhuyễn để vượt qua khó khăn trở ngại và gặt hái những thành tựu xuất sắc? Tôi tin là có. Đây chính là điều tôi muốn lý giải cùng các bạn qua quyển sách này để các bạn có thể ứng dụng vào cuộc sống của mình, nếu bạn khao khát làm điều đó.
Vào năm 1933, một biên tập viên tài chính của một tờ báo thuộc Los Angeles đã tham dự chuỗi thuyết trình của tôi dành cho các nhà đầu tư tại thành phố bờ Tây nước Mỹ này. Sau này, khi đọc quyển T.N.T. – It Rocks the Earth của tôi, ông ấy đã viết cho tôi rằng:
“Anh đã bắt được từ vũ trụ một điều có một phẩm chất khác thường – nó lý giải điều kỳ diệu của sự trùng hợp ngẫu nhiên, bí quyết tạo nên những người may mắn trên thế gian này.”
Tôi nhận ra rằng mình vừa chạm tới một điều vô cùng mới mẻ, rất thực tế và có thể thực hiện được. Nhưng tôi không xem đó là một phép màu, cho tới bây giờ vẫn vậy, ngoại trừ việc nó mang ý nghĩa của một điều chưa từng được biết đến đối với rất, rất nhiều người. Cái “điều gì đó” này thực ra đã được biết đến từ hàng trăm năm trước, nhưng không hiểu vì lý do gì mà nó vẫn còn rất bí ẩn đối với vô số người trong thời đại này.
Vài năm trước, khi tôi bắt đầu giảng dạy về chủ đề này, tôi không chắc một người bình thường có thể nắm bắt được các khái niệm của nó hay không. Nhưng kể từ đó, tôi đã nhìn thấy những người biết sử dụng nó đã làm tăng gấp đôi, thậm chí gấp ba thu nhập của họ. Họ còn dựng nên một cơ nghiệp cho riêng mình, họ sắm những ngôi nhà trong mơ và tạo lập vô khối của cải. Giờ đây tôi tin rằng những ai trung thực với chính mình đều có thể đạt đến mọi vị trí mà mình mong muốn. Tôi không có ý định viết cuốn sách thứ hai, mặc dù rất nhiều người khuyến khích tôi. Nhưng mới vừa mấy tháng trước đây, một người phụ nữ kinh doanh trong ngành sách, người từng bán rất nhiều bản cuốn sách đầu tay nhỏ bé của tôi đã trao cho tôi một “tối hậu thư” rằng:
“Anh có nghĩa vụ phải trao cho tất cả những người đang tìm kiếm một chỗ đứng trên đời cuốn sách mới, dễ hiểu, được tổng hợp từ các bài thuyết trình của anh. Những con người có hoài bão đều rất muốn vươn lên, và anh là người có đủ sức để trao cho họ cái họ cần. Vậy, viết hay không là tùy ở anh!”
Phải mất một thời gian khá lâu tôi mới tiêu hóa hết ý nghĩ này. Vốn từng là một quân nhân trong Thế Chiến I, chủ yếu đóng quân ở Pháp và Đức và đã từng làm việc nhiều năm liền trong các tổ chức dành cho những người lính phục viên và một ủy ban của chính phủ chuyên huấn luyện các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cho các quân nhân xuất ngũ, tôi nhận ra rằng việc tìm ra chỗ đứng cho bản thân thật quá khó khăn đối với những con người đã bị tách khỏi cuộc sống đời thường quá lâu như vậy. Vâng, chính vì rất muốn giúp họ và những người có nhiều ước mơ và hoài bão mà tôi đã quyết định viết cuốn sách này, một phiên bản đầy đủ và chi tiết hơn về Sức mạnh của Niềm tin. Đây là cuốn sách giúp bạn rèn luyện tư duy và hành động tích cực để thành công.
Vì cuốn sách này có thể lọt vào tay những người có thể cho tôi là lập dị hay gàn dở, xin thưa rằng tôi đã sống quá nửa đời người và cũng có khá nhiều năm kinh nghiệm kinh doanh thực tế - cũng như từng là một người làm việc trong ngành báo chí trong nhiều năm. Tôi vào nghề bằng một chân phóng viên cảnh sát. Các phóng viên cảnh sát được đào tạo để lấy tin và đó không phải là một công việc nhẹ nhàng. Có thời gian hai năm liền tôi làm biên tập viên chuyên mục tôn giáo cho một tờ báo lớn ở thủ đô. Nhờ đó mà tôi có điều kiện tiếp xúc gần gũi với giới tu sĩ và các nhà lãnh đạo của các tôn giáo và giáo phái khác nhau, các nhà trị liệu tinh thần, các nhà duy linh học, những người tin vào phép chữa bệnh bằng niềm tin, các nhà tư tưởng mới trong tôn giáo, các nhà lãnh đạo có quan điểm đồng nhất tôn giáo, những người tôn thờ vật thần và mặt trời, và thậm chí có cả một vài người không theo một tôn giáo nào cả.
Lúc ấy nhà truyền giáo nổi tiếng người Anh Gypsy Smith đang thực hiện một chuyến diễn thuyết vòng quanh nước Mỹ. Hết đêm này đến đêm khác tôi ngồi nơi bục giảng dưới chân ông ấy nhìn người ta bước thấp bước cao giữa hai hàng ghế nhà thờ, vài người trong họ khóc sụt sùi, số khác thì la hét điên loạn, và tôi tự hỏi…
Rồi một lần nữa tôi lại tự hỏi mình khi giúp cảnh sát trả lời một cuộc gọi báo có bạo động: một vài kẻ cuồng tín trong cơn bốc đồng đã ra tay cướp phá và phóng hỏa đốt luôn cả nơi hội họp của họ. Khi tôi tham dự cuộc họp đầu tiên (và duy nhất) của giáo phái Shaker (1) , tôi lại tự hỏi mình… Vâng, tôi thường xuyên tự hỏi mình như thế khi dự các cuộc tụ tập tâm linh thần bí của các giáo phái khác. Tôi tự hỏi khi nghe thấy lời nguyện thề của những người tin vào việc chữa bệnh nhờ đức tin Ki-tô giáo vào các buổi họp mặt tối thứ Tư. Tôi tự hỏi khi nhìn một nhóm người ngâm mình trong dòng nước băng giá của một con suối và bước lên bờ miệng hô vang “A-lê-lu-da!” (2) dù hai hàm răng họ va vào nhau lập cập. Tôi tự hỏi về các điệu nhảy mang tính tế lễ của người da đỏ và nghi thức múa cầu mưa của họ. Billy Sunday, và cả Aimee Semple McPherson vài năm sau đó, cũng làm tôi tự hỏi.
Tại Pháp thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ I, tôi lại tự hỏi về niềm tin thuần túy của những người nông dân nghèo và quyền năng của các thầy phù thủy trong làng của họ. Tôi từng nghe câu chuyện về phép lạ Đức Bà Maria hiện ra tại Lộ Đức (Lourdes) và những phép lạ tương tự như thế tại một vài lăng mộ nào đó. Khi đang ở bên trong một nhà thờ La Mã cổ kính, tôi nhìn thấy những ông lão bà lão cố leo bằng đầu gối lên hàng tam cấp dài dằng dặc chỉ để được ngắm nhìn bình tro hài cốt của đấng chí thánh – một cuộc leo tam cấp vốn chẳng dễ dàng gì ngay cả đối với một chàng trai trẻ được rèn luyện theo giáo án của vận động viên – Thế là tôi tiếp tục tự hỏi.
Chuyện kinh doanh đưa tôi vào những cuộc tiếp xúc với những người đàn ông đa thê. Khi tôi nghe câu chuyện về Joseph Smith và những sự khám phá ra các vỉa vàng, tôi lại có cơ hội tự hỏi. Gia đình nhà Dukhobor ở miền Tây Canada, những người có thể trút bỏ quần áo ngay khi bị làm cho tức giận, cũng làm tôi tự hỏi. Khi ở Hawaii tôi nghe nói nhiều về quyền năng của các thầy phù thủy, những người có thể làm cho người chết sống lại và người sống chết đi bằng lời cầu nguyện. Những quyền năng to lớn được ban cho các thầy phù thủy này đã gây ấn tượng rất sâu sắc đối với tôi.
Trong những ngày đầu làm phóng viên, tôi tận mắt chứng kiến một ông đồng nổi tiếng đang ra sức gọi “hồn” trong một phòng xử án đông nghịt những người chống đối và chế nhạo. Vị quan tòa trước đó đã hứa phóng thích ông đồng này nếu ông ta có thể gọi “hồn” lên nói chuyện ngay giữa sân tòa. Nhưng “hồn” không “lên” được và thế là tôi lại tự hỏi tại sao – phải chăng bởi vì những người đi theo ông đồng này đã tuyên thệ trước những cuộc gặp gỡ khác thường như thế này.
Nhiều năm sau đó, tôi được giao viết một phóng sự về cái mà cảnh sát gọi là “trò ma mãnh của thầy bói”. Tôi đã đi gặp tất cả mọi người từ các nhà não tướng học (phrenologist) cho đến các thầy bói bằng tinh cầu thạch anh (crystal-ball gazer), từ các nhà chiêm tinh học cho tới các thầy phù thủy. Tôi nghe thấy dường như có một giọng nói của người da đỏ thời cổ xưa như “chỉ bảo” về quá khứ vị lai của tôi. Tôi nghe tiếng của những người bà con họ hàng mà tôi chưa bao giờ biết là họ đã từng tồn tại trên đời.
Rất nhiều lần tôi đã ở trong các buồng bệnh mà quanh tôi là những người đã chết trong khi những người khác bệnh nặng hơn họ nhưng vẫn sống khỏe – và lạ lùng hơn nữa là họ khỏi bệnh hẳn chỉ sau một thời gian ngắn. Tôi từng chứng kiến nhiều người bị liệt một phần cơ thể nhưng lại hồi phục hoàn toàn trong vài ngày. Tôi cũng biết nhiều người từng nói rằng họ đã khỏi bệnh thấp khớp chỉ nhờ đeo một sợi dây đồng quanh cổ tay họ - một số người khác thì khỏi bệnh nhờ khả năng tự chữa lành về mặt tinh thần. Qua họ hàng và những người bạn thân, tôi nghe những câu chuyện về những mụn cóc trên tay một số người đột nhiên biến mất. Tôi rất quen thuộc với những câu chuyện về những người dám cho rắn chuông cắn thẳng vào tay mình nhưng không hề hấn gì, và còn hàng trăm câu chuyện khác về những sự kiện và những người tự khỏi bệnh một cách hết sức kỳ lạ.
Hơn thế nữa, tôi thường tập cho mình quen với cuộc đời phi thường của các bậc vĩ nhân trong lịch sử cũng như đã gặp và phỏng vấn rất nhiều người xuất sắc, đàn ông có, phụ nữ có thuộc đủ mọi giai tầng xã hội. Rồi tôi tự hỏi rằng điều gì đã làm họ trở nên nổi bật hơn những người khác? Tôi từng thấy một số huấn luyện viên nhận những đội bóng yếu kém thể chất và bạc nhược tinh thần nhưng họ đã truyền vào đội bóng một “phép màu” giúp họ giành được chiến thắng. Trong thời kỳ Suy thoái, tôi từng nhìn thấy các công ty bỗng chốc đã chuyển tình cảnh kinh doanh èo uột của mình thành sôi động và đạt lợi nhuận lớn hơn bao giờ hết.
Dường như tôi được sinh ra cùng với tính hay tò mò vì tôi luôn luôn khao khát tìm kiếm câu trả lời cho mọi vấn đề hay sự kiện mà tôi nhìn thấy. Cuộc tìm kiếm này đã đưa tôi đến những “vùng đất” xa lạ, giúp tôi đưa ra ánh sáng nhiều trường hợp rất dị kỳ và làm tôi đọc tất cả những cuốn sách trong tầm tay của tôi về tôn giáo, tín ngưỡng và các ngành khoa học về vật chất và tinh thần. Thực lòng mà nói tôi đã đọc hàng ngàn cuốn sách về tâm lý học hiện đại, siêu hình, phép thuật cổ, tà thuật, yoga, Thuyết Thần trí (Theosophy), thần học, Thuyết Nhất thể (Unity), Chân lý, Tư tưởng mới (New Thought) và nhiều sách khác viết về cái mà tôi gọi là Tiềm thức (Mind-stuff) cũng như các triết lý và những bài thuyết giảng của các nhà tư tưởng bậc thầy thời trước.
Rất nhiều trong số đó là vô lý, một số kỳ lạ nhưng số khác rất sâu sắc. Dần dần tôi khám phá ra rằng có một sợi chỉ vàng chạy xuyên suốt các triết lý này và hỗ trợ đắc lực cho những ai chấp nhận và áp dụng nó. Sợi chỉ xuyên suốt này có thể được gọi tên bằng một từ duy nhất: Niềm tin . Chính nhân tố này – Niềm tin – đã giúp những người bệnh tự chữa lành bằng phép chữa trị tinh thần, giúp những người khác lên đến đỉnh thành công và tạo ra những kỳ tích đột phá. Tại sao niềm tin lại tạo ra phép màu là điều hầu như không ai có thể giải thích một cách thỏa đáng, nhưng rõ ràng đó là sự kỳ diệu có thật từ niềm tin. “Sức mạnh của niềm tin” vì thế mà khắc sâu vào tâm trí tôi.
Tôi bị thuyết phục rằng cái gọi là bí mật mà các hội kín giữ gìn và xem là “thiên cơ bất khả lộ” thực ra chỉ rất ít thành viên của họ hiểu được và tôi có thể đi đến một kết luận rằng: “Không một đầu óc nào có thể tiếp nhận được chân lý nếu nó không sẵn sàng mở ra để đón nhận”. Một giáo sĩ nào đó có thể trao cho những người muốn tìm hiểu một quyển sách chứa đựng nhiều triết lý cao siêu, nhưng thực tế, như câu thần chú “Vừng ơi, hãy mở ra!” mà họ có thể hiểu và thực hành theo. Nhưng một số người bảo rằng triết lý quá sâu xa đối với họ. Tôi cũng nhận thấy rằng một vài trong số các tổ chức này, và cả các hội kín đang sở hữu tri thức và sự hiểu biết về cuộc sống, lại đang sử dụng những diễn giải rất bí hiểm và sai lệch để lừa mị thiên hạ.
Khi quyển T.N.T. – It Rocks the Earth được xuất bản lần đầu tiên, tôi nghĩ nó rất dễ hiểu với mọi người vì tôi viết rất đơn giản. Nhưng rồi sau vài năm, một số độc giả phản hồi rằng họ phải nghiền ngẫm khá lâu mới hiểu được nó trong khi những người khác nói rằng họ hoàn toàn không hiểu gì cả! Tôi cho rằng phần lớn mọi người đều ít nhiều đã biết về sức mạnh của tư duy. Giờ đây tôi nhận ra rằng tôi đã hiểu sai về họ vì những người có được sự hiểu biết khả dĩ về chủ đề này thực ra chỉ chiếm một số lượng rất ít. Về sau, qua nhiều năm thuyết giảng cho các tổ chức, các câu lạc bộ, các công ty, xí nghiệp tôi mới phát hiện ra rằng đa phần mọi người đều rất quan tâm đến chủ đề này, nhưng tôi phải giải thích hết sức cặn kẽ cho họ. Cuối cùng, tôi đồng ý viết quyển sách này với cách diễn giải mà ai cũng có thể hiểu được – và với hy vọng rằng nó sẽ giúp nhiều người đạt được các mục tiêu trong đời họ.
Khoa học về tư duy cũng có tuổi bằng tuổi của nhân loại chúng ta. Tất cả những con người khôn ngoan nhất qua các thời đại đều hiểu rõ và đã sử dụng nó. Điều duy nhất tôi làm là diễn đạt chủ đề này bằng một thứ ngôn ngữ hiện đại hơn ngõ hầu mang đến điều mà nhiều bộ óc xuất chúng hôm nay đang nỗ lực chứng minh những chân lý vĩ đại vốn đã xuất hiện từ hàng thế kỷ trước.
May mắn thay, cuối cùng thì mọi người đã bắt đầu nhận ra rằng có điều kỳ diệu đằng sau cái gọi là “tiềm thức” này. Tôi tin rằng có hàng triệu người muốn đạt đến sự hiểu biết sâu hơn về nó – và đã chứng minh rằng nó có tác dụng tích cực.
Vì vậy, xin cho tôi bắt đầu bằng việc liên hệ với một vài trải nghiệm của cá nhân tôi. Hy vọng rằng chúng sẽ mang đến cho các bạn một sự hiểu biết thấu đáo hơn về tri thức này.
Đầu năm 1918, tôi đặt chân lên đất Pháp với tư cách là một anh lính “trơn” và không có một người bạn đồng hành nào. Kết quả là, phải mất mấy tuần lễ hồ sơ quân nhân của tôi (rất quan trọng để được lãnh lương) mới tới nơi tôi phục vụ. Trong thời gian đó tôi không có một xu để mua bánh kẹo hay thuốc lá vì mấy đồng đô-la ít ỏi mang theo tôi đã “đóng góp” cho căng-tin trên con tàu chuyển quân để giảm bớt sự đơn điệu của cái thực đơn nhàm chán hàng ngày. Mỗi khi tôi nhìn thấy ai đó châm thuốc lá hay nhai một thỏi kẹo cao su là tôi lại nhớ rằng mình chẳng còn một đồng nào để tiêu. Tất nhiên tôi được quân đội lo cho cái ăn, cái mặc và một chỗ ngủ hàng đêm, nhưng tôi cảm thấy cay đắng vì không có tiền tiêu và cũng chẳng biết đào đâu ra. Trong một đêm hành quân ra mặt trận trên một chuyến tàu lửa chật cứng và dĩ nhiên không ai có thể nghĩ đến chuyện có một chỗ để ngả lưng, tôi đã quyết định rằng sau này khi quay về với cuộc sống đời thường, tôi phải làm ra thật nhiều tiền. Và toàn bộ cuộc đời tôi đã thay đổi từ giây phút đó.
Tôi từng là một con mọt sách thời trai trẻ. Kinh thánh là quyển sách bắt buộc phải có trong gia đình tôi. Khi còn nhỏ tôi rất thích nghiên cứu về vô tuyến điện, tia X, các loại máy móc tần số cao, các dao động điện và đã đọc tất cả những cuốn sách mà tôi có thể mượn hay tìm được về các lĩnh vực này. Nhưng trong khi tôi dần trở nên quen thuộc với những thuật ngữ như tần số bức xạ, độ rung hay độ dao động và sức điện động v.v. thì chúng gần như chẳng có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của tôi bên ngoài lĩnh vực cơ điện này. Có lẽ ý nghĩ đầu tiên của tôi về mối liên hệ giữa tinh thần và sức tác động của dòng điện hay độ dao động điện xuất hiện vào lúc tôi tốt nghiệp trường luật. Còn nhớ, khi đó một giảng viên đưa cho tôi quyển sách của Thomson Jay Hudson có tên là Quy luật về các hiện tượng tâm linh (Law of Psychic Phenomena). Tôi đã đọc cuốn sách nhưng kỳ thực nó được viết rất hời hợt. Hoặc, có thể tôi không đủ khả năng để hiểu được nó, hoặc đầu óc tôi chưa mở ra đủ lớn để đón nhận những chân lý sâu xa bên trong nó. Vào cái đêm định mệnh năm 1918 ấy, khi tôi ngồi trên tàu và tự nhủ rằng một ngày nào đó tôi sẽ trở nên giàu có, tôi không hề nhận ra rằng tôi đang đặt ra cho mình nền tảng cho một chuỗi những động cơ sẽ giải phóng các năng lực tiềm tàng giúp tôi đạt được những thành tựu sau này. Tất nhiên lúc đó ý nghĩ rằng tôi có thể tạo ra cả một gia tài lớn bằng cách suy nghĩ và tin tưởng vào khả năng của mình chưa bao giờ xuất hiện trong tâm trí tôi.
Trong thẻ quân dịch, tôi được phân loại là phóng viên. Tôi đã từng tham gia Trường Huấn luyện Quân sự và được công nhận đủ tư cách tác nghiệp, nhưng toàn bộ chương trình huấn luyện bị gián đoạn ngay khi chúng tôi hoàn thành khóa học vì chiến tranh. Vì thế hầu hết chúng tôi đặt chân lên đất Pháp như những anh lính binh nhì. Tuy nhiên, tôi tự xem mình là một nhà báo chính quy và cảm thấy có một chỗ thích hợp cho tôi ở Lực lượng Viễn chinh Mỹ. Nhưng rồi như nhiều người khác, tôi nhận ra rằng mình đang phải đẩy những chiếc xe cút-kít và thường xuyên mang vác trên vai đủ thứ nặng nề lỉnh kỉnh cùng các loại vũ khí đạn dược.
Một đêm nọ tại một kho đạn gần Toul, mọi thứ bắt đầu diễn ra. Tôi được gọi đến trước mặt một sĩ quan và ông ấy hỏi rằng tôi có quen biết ai ở Bộ Tổng Tham mưu Tiền phương hay không. Lính quèn như tôi làm sao quen biết được ai ở đó và thậm chí tôi còn không biết nó nằm ở đâu nữa kia! Tôi trả lời ông ấy đại loại như vậy. Sau đó ông ấy đưa ra mấy tờ công lệnh và bảo tôi phải có mặt ở đó ngay lập tức. Tôi được cấp ngay một chiếc xe cùng một tài xế và sáng hôm sau đã có mặt tại Bộ Tổng Tham mưu Tiền phương. Họ giao cho tôi phụ trách bản tin chiến sự hàng ngày. Tôi chỉ phải báo cáo cho một sĩ quan mang quân hàm đại tá.
Những tháng tiếp theo, tôi thường nghĩ về nhiệm vụ mà tôi may mắn được trao. Sau đó các mối liên hệ dần dần được liên kết lại thành một chuỗi. Một hôm, hoàn toàn bất ngờ, tôi nhận được lệnh chuyển sang Stars and Stripes , một tờ báo của Quân đội Hoa Kỳ. Từ lâu tôi đã mong muốn được trở thành phóng viên của tờ báo này, nhưng trước đó tôi chưa hề có bất cứ động thái nào để biến điều đó thành sự thật. Ngày hôm sau, khi tôi sẵn sàng lên đường đi Paris thì được gọi lên gặp ngài đại tá và ông ấy chìa ra trước mặt tôi một bức điện tín được gởi đi từ văn phòng của một viên tướng thuộc Bộ Tổng Tham mưu Tiền phương. Nội dung bức điện hỏi rằng tôi đã sẵn sàng nhận nhiệm mới hay chưa. Viên đại tá sếp của tôi bảo rằng việc thực thi một nhiệm vụ quân sự sẽ tốt hơn đối với tôi so với việc làm việc cho tờ báo quân đội Stars and Stripes. Vì đoán trước rằng chẳng bao lâu nữa chiến tranh sẽ kết thúc và tôi sẽ hạnh phúc hơn so với các phóng viên đồng nghiệp khác nên tôi trả lời tôi mong được chuyển sang tờ Stars and Stripes hơn. Tôi không bao giờ tìm hiểu xem ai là người đã ký bức điện ấy, song rõ ràng có một ai đó làm việc đó nhân danh tôi.
Tiếp theo lệnh ngừng bắn sau đó, khao khát giải ngũ của tôi ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Tôi muốn bắt đầu ngay việc xây dựng cái gia tài mà tôi mơ ước. Nhưng Stars and Stripes vẫn tiếp tục ra báo không sót một ngày nào cho đến tận mùa hè tháng Tám năm 1919, trước khi tôi được trở về nhà. Tuy nhiên, các lực mà tôi đã xác lập một cách vô thức trong tâm trí đã dọn sẵn một con đường cho tôi.
Vào khoảng 9 giờ 30 sáng hôm sau khi trở về nhà, tôi nhận được một cuộc điện thoại từ chủ tịch của một câu lạc bộ mà tôi từng tham gia. Ông ấy bảo tôi gọi cho một người rất có danh tiếng trong ngành ngân hàng. Người này biết tôi vừa xuất ngũ và tỏ ý muốn gặp tôi trước khi tôi quyết định bước vào nghề báo trở lại. Tôi gọi điện cho ông ấy và hai ngày sau, tôi bắt đầu dấn thân vào một nghề nghiệp hoàn toàn mới: nhân viên ngân hàng đầu tư. Đó cũng là điểm khởi đầu đưa tôi đến chức phó chủ tịch của một công ty nổi tiếng ở bờ Tây nước Mỹ.
Ngay từ đầu tôi đã nhận được mức tiền lương rất cao. Tôi cũng nhận ra rằng mình đang làm việc trong một ngành có rất nhiều cơ hội làm giàu. Không biết tôi đã làm thế nào, chỉ biết rằng tôi đã có sẵn trong đầu mình một gia tài như thế, như thế. Và rồi trong vòng chưa đầy mười năm, tôi đã có trong tay gia tài đó và trở thành một cổ đông chính của công ty và có nhiều nguồn lợi khác từ các hoạt động đầu tư bên ngoài. Những năm đó, trong đầu tôi luôn luôn có một bức tranh rõ ràng về khối tài sản mơ ước của mình.
Nhiều người trong khi ngồi tưởng tượng hay nói chuyện điện thoại thường nguệch ngoạc hý hoáy viết những ký tự, ký hiệu hay phác thảo những hình ảnh này nọ ra giấy. Tôi có thói quen viết ký hiệu của đồng đô-la như thế này $$$$-$$$-$$-$$$$ lên mọi mẩu giấy nằm trên bàn làm việc của tôi những lúc như vậy. Những tấm bìa hồ sơ, bìa danh bạ điện thoại thậm chí ngay cả trên những bức thư quan trọng trước mặt tôi cũng đầy những ký hiệu này. Tôi muốn các bạn, những độc giả thân mến của tôi, ghi nhớ kỹ chi tiết này, bởi nó sẽ chỉ ra cho các bạn những cách áp dụng hiệu quả điều kỳ diệu này vào cuộc hành trình đi tìm sự thịnh vượng, mà tôi sẽ giải thích cặn kẽ cho các bạn trong các chương sau.
Tôi nhận ra rằng cho tới bây giờ thì điều làm đa số chúng ta trăn trở và lo lắng nhất vẫn là vấn đề tài chính cá nhân.
Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, hàng triệu người đang phải đối mặt với những vấn đề giống nhau. Tuy nhiên, có một chút khác biệt trong kết quả giải quyết vấn đề của từng người tùy thuộc vào cách thức họ vận dụng bí quyết này như thế nào. Tôi xin kể tiếp một câu chuyện nữa.
Không lâu sau khi ý nghĩ về cuốn T.N.T. – It Rocks the Earth xuất hiện trong đầu tôi và trước khi tôi đặt bút viết những trang đầu tiên, tôi lên một chuyến tàu đi về Phương Đông có tên là Nữ Hoàng Nhật Bản (Empress of Japan). Con tàu này nổi tiếng với các món ăn được chế biến vào hàng tuyệt kỹ. Trong những lần đi đó đây dọc ngang Canada và châu Âu, tôi trở nên nghiền món phó-mát Trappist (3) được làm bởi các tu sĩ dòng Luyện Tâm (Trappist) ở Quebec. Cố tìm kỹ nhưng vẫn không thấy món này trên thực đơn nhà hàng, tôi cười và tỏ ý không vui với tiếp viên trưởng, rằng tôi chọn con tàu này là vì tôi muốn được thưởng thức món phó-mát “Luyện tâm” nổi tiếng đó. Anh ta xin lỗi và nói rằng thật tình trên tàu không có loại phó-mát mà tôi yêu thích.
Càng nghĩ về món phó-mát đặc biệt này, tôi càng muốn được ăn nó ngay. Một tối nọ, người ta tổ chức một buổi dạ tiệc trên tàu. Sau khi về phòng riêng vào lúc gần nửa đêm, tôi nhìn thấy một chiếc bàn lớn được dọn sẵn, trên đó là một bánh phó-mát lớn nhất mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy trước đây. Ngạc nhiên hơn nữa, đó chính là loại phó-mát “Luyện tâm” yêu thích của tôi.
Về sau, tôi hỏi tiếp viên trưởng rằng anh ta đã tìm nó ở đâu. “Tôi đã xác nhận với ông rằng chúng tôi không có loại phó-mát này trên tàu vào lần đầu tiên ông hỏi, nhưng vì ông đã định sẵn trong đầu mình rằng ông phải có món đó nên tôi quyết định tìm nó trong tất cả các kho thực phẩm trên tàu. Và chúng tôi đã thấy nó trong kho dự phòng khẩn cấp ở cuối khoang.” Anh ta đáp. Họ đã cố gắng thực hiện yêu cầu của tôi trên chuyến tàu đó, đơn giản là vì tôi chỉ yêu cầu một dịch vụ hết sức bình thường. Tuy nhiên, các bạn biết không, trong suốt chuyến đi đó tôi thường ngồi ở bàn dành cho thuyền trưởng và thường xuyên làm khách mời riêng của ông ấy trong những cuộc chuyện vãn bên mạn tàu và trong những cuộc tham quan khắp con tàu cùng ông ấy.
Lẽ tự nhiên những khoản đãi mà tôi nhận được mang đến cho tôi một cảm giác rất tuyệt vời. Tại Honolulu, thủ phủ của Hawaii, tôi nghĩ sẽ rất hay nếu tôi cũng nhận được một sự đối xử tương tự như thế trên một con tàu khác sẽ đưa tôi về nhà. Một buổi chiều, trong phút cao hứng tôi quyết định trở về. Khi tôi đến phòng vé thì họ sắp đóng cửa. Tôi hỏi và mua được tấm vé cuối cùng trên con tàu xuất phát vào trưa hôm sau.
Ngày hôm sau, chỉ vài phút trước khi tàu rời bến, bất thình lình một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi. Tôi nói với chính mình rằng: “Anh bạn ạ, họ đã từng đối xử với anh như một ông hoàng trên con tàu Nữ Hoàng Nhật Bản. Ít nhất lần này anh cũng phải được ngồi ở bàn thuyền trưởng. Mà không, anh phải ngồi ở vị trí đó”.
Tàu nhổ neo và chúng tôi từ từ rời bến. Sau đó tiếp viên nhà hàng đề nghị hành khách đến phòng ăn để được hướng dẫn chỗ ngồi cố định của mình. Khi tôi đến, đã có hơn một nửa số bàn đã được xếp chỗ. Anh ta hỏi vé tàu của tôi và chỉ vừa nhìn qua, anh ta đã nói: “Ồ, thưa ông, bàn A, ghế số 5”. Đó là bàn dành cho thuyền trưởng và tôi được xếp ngồi ngay hướng đối diện với ông ấy! Trong chuyến trở về này, có rất nhiều điều đã xảy ra và chúng là nguồn nguyên liệu chính để tôi viết cuốn sách này. Một trong những sự kiện nổi bật nhất trong số đó là buổi tiệc mừng sinh nhật được tổ chức cho riêng tôi – mà thực ra đó là “sáng kiến” của vị thuyền trưởng dành cho tôi, vì thực tế sinh nhật của tôi đã qua từ mấy tháng trước.
Về sau, khi đã chuyển sang lĩnh vực huấn luyện và thuyết giảng, tôi nghĩ có lẽ tôi cần xin một xác nhận của vị thuyền trưởng nọ về câu chuyện đó và tôi đã viết thư cho ông ấy. Ông đã trả lời tôi như thế này: “… Khi thì chúng tôi nói về cuộc sống, lúc thì chúng tôi bàn luận về việc nên làm điều này hay điều khác. Vâng, tôi nhớ trưa hôm đó tôi đang ngồi trong buồng lái nhìn hành khách bước qua tấm ván bắc lên boong tàu thì trông thấy anh. Không hiểu sao có điều gì đó thôi thúc tôi phải mời anh ngồi cùng bàn với tôi. Ngoài lý do đó tôi không biết phải lý giải thế nào nữa. Luôn có một sự thôi thúc giúp tôi cập đúng bến đúng lúc và đón đúng người nào đó!”.
Những người nghe câu chuyện này – và họ cũng chưa biết gì về sức mạnh của niềm tin – bảo rằng việc thuyền trưởng chọn tôi làm người ngồi cùng bàn với ông ấy chỉ là một sự trùng hợp. Nhưng tôi tin rằng không phải thế, tôi chắc chắn rằng vị thuyền trưởng ấy (người cũng có hiểu biết chút ít về lĩnh vực niềm tin này) cũng đồng ý với tôi. Trên con tàu đó là hàng trăm con người và nhiều người trong số họ là những nhân vật quan trọng, vai vế hơn tôi bội phần. Tôi chẳng có gì nổi bật hơn họ mà chỉ là một hành khách bình thường giữa một đám đông. Cho nên rõ ràng là không phải bộ quần áo tôi mặc trên người hay vẻ bề ngoài của tôi đã thu hút ngay lập tức sự chú ý của vị thuyền trưởng để dẫn tới hành động ông ấy chọn tôi giữa hàng trăm con người như thế.
Khi giới thiệu với các bạn về tiềm năng có thể khai thác này của con người, tôi luôn nhận thức rằng chủ đề này đã từng được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Đồng thời tôi cũng nhận thấy rằng nhiều người có vẻ xấu hổ khi bàn về các phương pháp tiếp cận đụng chạm đến vấn đề tôn giáo, huyền bí hay siêu hình. Vì thế, tôi cố gắng sử dụng ngôn ngữ của một nhà kinh doanh và tin rằng lối suy nghĩ thẳng thắn, văn phong trong sáng và từ ngữ dễ hiểu sẽ chuyển tải một cách hiệu quả nhất mọi thông điệp của cuốn sách này.
Bạn thường nghe nói rằng bạn có thể làm được tất cả mọi thứ nếu bạn tin rằng bạn có thể. Có một câu ngạn ngữ La-tinh cổ nói rằng: “Nếu tin, ắt bạn sẽ có”. Niềm tin chính là lực đẩy giúp bạn đạt mục tiêu của mình. Nếu bạn ốm liệt giường nhưng bạn có ý nghĩ hay niềm tin mạnh mẽ rằng bạn sẽ khỏi bệnh, chắc chắn bạn sẽ nhanh chóng khỏi bệnh. Chính niềm tin hay sự tự tin bên trong bạn sẽ tạo ra những kết quả vật chất trong cuộc sống của bạn. Tôi đang nói về những con người bình thường về thể chất và lành mạnh về tinh thần. Tôi không nói rằng một người cụt tay có thể chơi bóng rổ hay bóng chày xuất sắc. Tôi cũng không nói rằng một phụ nữ có nhan sắc trung bình có thể trở thành hoa hậu hoàn vũ chỉ sau một đêm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không thể, vì luôn tồn tại những khả năng rất đáng để chúng ta lưu ý. Khi có những hiểu biết sâu hơn về sức mạnh tinh thần, tôi tin chắc rằng thế nào bạn cũng sẽ chứng kiến những phương thức chữa lành kỳ diệu mà nền y học hiện đại của chúng ta cho rằng không thể xảy ra. Cuối cùng, tôi không muốn làm nản lòng bất cứ ai, vì rằng trên đời này, chuyện gì cũng có thể xảy ra – và điều làm cho mọi thứ xảy ra chính là Hy vọng .
Tiến sĩ Alexander Cannon là một nhà khoa học và vật lý học xuất sắc người Anh, ông đồng thời là tác giả của nhiều quyển sách về chủ đề tư duy con người vốn tạo ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi trên khắp thế giới. Ông khẳng định rằng con người ngày nay không thể mọc thêm chân mới (như cua có thể mọc lại càng mới sau khi bị gãy càng cũ) vì rằng trong ý nghĩ của mình, con người không chấp nhận khả năng đó tồn tại. Các nhà khoa học tên tuổi nói rằng nếu ý nghĩ của con người được thay đổi từ gốc rễ sâu xa nhất trong tiềm thức của mình, khi đó anh ta có thể dễ dàng mọc thêm chân như cua mọc thêm càng vậy. Tôi biết, những tuyên bố như thế này nghe thật khó tin, nhưng ai biết rằng một ngày nào đó nó sẽ trở thành sự thật?
Tôi thường ăn trưa với một vài người bạn làm trong ngành y. Họ là chuyên gia trong nhiều lĩnh vực y tế và phẫu thuật khác nhau. Tôi biết rằng nếu tôi phát biểu những câu tương tự, họ sẽ bảo tôi đi khám thần kinh. Tuy nhiên, tôi nhận thấy một vài người trong số các bác sĩ nói trên, đặc biệt là những người gần đây tốt nghiệp từ các trường danh tiếng hơn, không còn có khuynh hướng đóng chặt đầu óc mình trước lập luận rằng ý nghĩ con người có khả năng tạo ra hay chữa lành bệnh tật.
Vài tuần trước khi tôi viết chương này, một người hàng xóm đến gặp tôi nhờ giải thích về việc tại sao các mụn cóc trên người anh ta bỗng nhiên biến mất. Số là, trong thời gian nằm viện, anh ta lang thang và tán gẫu với một bệnh nhân khác và người này lại đang trò chuyện với một bệnh nhân khác nữa. Bệnh nhân thứ hai này nói với bệnh nhân thứ nhất rằng: “Anh có muốn thoát khỏi đám mụn cóc trên người anh không? Ừmmm, hãy để tôi đếm chúng và chúng sẽ biến mất cho xem!”.
Anh hàng xóm của tôi ngạc nhiên nhìn bệnh nhân vừa nói trong giây lát rồi nói: “Vậy, anh có thể đếm cả các mụn cóc của tôi được không?”. Người bệnh nọ đồng ý đếm và sau đó anh hàng xóm của tôi không để ý gì đến câu chuyện này nữa cho đến khi anh ra viện về nhà và một ngày nọ vô tình nhìn vào tay mình. “Đám mụn cóc hoàn toàn biến mất như không hề có trước đây vậy!” Anh kể với tôi.
Tôi kể lại câu chuyện này với một nhóm bác sĩ sau đó. Một chuyên gia nổi tiếng – cũng là một người bạn thân của tôi – nhún vai nói: “Phi lý!”. Nhưng một bác sĩ khác vốn đang làm giảng viên tại một trường y nọ, đứng về phía tôi và bảo rằng trên thực tế đã có nhiều trường hợp mụn cóc được chữa lành nhờ vào phép ám thị.
Tôi muốn nhắc họ rằng nhiều năm về trước, báo chí và các tạp chí y học đã đưa tin về việc Heim, một nhà địa chất học người Thụy Sĩ, đã làm biến mất các mụn cóc của mình bằng phép ám thị như thế nào. Tôi cũng muốn dẫn chứng phương pháp tâm lý học và phép ám thị mà Giáo sư Block, một chuyên gia người Thụy Sĩ khác, đã sử dụng với mục đích tương tự như thế nào. Ngược về tháng Giêng năm 1945, Trường Dược và Phẫu thuật thuộc Đại học Columbia thành lập một bệnh viện chuyên chữa trị bằng phép phân tâm học và tâm thần học để tiến hành nghiên cứu mối liên hệ giữa tiềm thức và cơ thể con người. Nhưng, tôi đã im lặng vì cảm thấy rằng mình khá đơn độc trong cuộc tranh luận này.
Từ sau cuộc nói chuyện này, dư luận nổi lên sự quan tâm đến các phát hiện của Tiến sĩ Frederick Kalz, một chuyên gia có uy tín người Canada. Ông tuyên bố dứt khoát rằng phép ám thị có tác dụng chữa trị trong nhiều trường hợp, trong đó có việc chữa mụn cóc mắc phải do lây nhiễm virus. Trong một bài báo năm 1945 đăng trên Tạp chí Y Khoa Canada , Tiến sĩ Kalz công bố: “Tại mỗi quốc gia trên thế giới này, có nhiều cách chữa trị mụn cóc dân gian nổi tiếng và rất công hiệu… Chẳng hạn, người mắc bệnh có thể đứng giữa các ngã ba, ngã tư đường vào thời điểm trăng non và dùng kén nhện đắp lên các mụn cóc, phép chữa trị này rất có tác dụng, nếu người bệnh có niềm tin vào nó ”. Mô tả việc chữa trị các bệnh nhân mắc các chứng bệnh khác nhau về da, ông nói: “Tôi thường cho các bệnh nhân này cùng một loại thuốc bôi ngoài da cùng với đôi lời động viên để tạo niềm tin cho họ và thế là họ khỏi bệnh một cách nhanh chóng”. Ông chỉ ra rằng biện pháp chiếu tia X cũng đặc biệt hiệu nghiệm. Biện pháp này kỳ lạ thay vẫn có tác dụng khi chuyên viên xạ trị quên bật nguồn điện! Các thí nghiệm giả tia X đã xác nhận kết quả quan sát này của ông. Như vậy, qua công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Kalz, chúng ta có thể thấy rằng sức mạnh của niềm tin trong chữa trị mụn cóc và các chứng viêm nhiễm về da là có thật.
Lần khác, tôi và nhóm bạn y khoa của mình bàn luận với nhau về các phương pháp chữa bệnh từ xa. Tôi lưu ý họ rằng một trong những sinh viên và học giả xuất sắc nhất trong thời đại chúng ta rất tin tưởng vào phương pháp này. Bác sĩ Alexis Carrel thuộc Viện Nghiên cứu Y khoa Rockefeller không chỉ là người hoàn toàn tin vào cách chữa trị này mà còn tuyên bố có những bằng chứng khoa học xác đáng rằng con người có thể truyền ý nghĩ của mình đến những người khác đang ở cách xa họ hàng ngàn dặm!
“Ồ, ông ấy chỉ là một ông già lẩm cẩm!” Một chuyên gia có uy tín thuộc Hội Y học Hoa Kỳ đang ngồi bên bàn lên tiếng nhận xét.
Tôi sửng sốt nhìn ông ấy, vì Bác sĩ Carrel là người từng nhận Giải Nobel Y học cho công trình nghiên cứu của ông. Khi ông viết những ý nghĩ của mình trong quyển sách có nhan đề Con Người và Những Điều Chưa Biết (Man and the Unknown) , được xuất bản vào năm 1935, ông được xem là một trong những nhà khoa học hàng đầu thế giới lúc bấy giờ.
Tôi không muốn tranh cãi với các thành viên của Hội Y học. Lý do không phải vì họ đối đầu với tôi, mà ngược lại vì các thành viên trong hội này đều là những người chân thành, có năng lực, tư tưởng rộng mở và một vài người trong số họ là bạn bè rất thân thiết của tôi. Tuy nhiên, một vài chuyên gia y học, nhất là những người có xu hướng chỉ gói gọn công trình nghiên cứu của họ trong một số lĩnh vực tương đối hẹp, từ chối chấp nhận những gì có thể gây bối rối cho việc giảng dạy và những niềm tin vào các học thuyết giáo điều mà họ từng được dạy hay nghiên cứu. Sự phản kháng này không chỉ nhìn thấy trong ngành y, vô số các chuyên gia trong những lĩnh vực khác, kể cả kinh doanh, đều hiểu biết rất hạn chế về những gì nằm ngoài phạm vi chuyên môn của họ và đầu óc họ đóng chặt trước bất kỳ ý nghĩ mới mẻ nào nằm ngoài khả năng tưởng tượng của họ. Thường khi gặp những trường hợp này, tôi luôn đề nghị cho họ mượn sách để họ tự tìm hiểu thêm, nhưng buồn thay, sau khi được giới thiệu về nội dung, họ bảo họ không quan tâm.
Nghịch lý nằm ở chỗ, nhiều người học hành rất bài bản, thành công trong chuyên môn, có hoài bão lớn chẳng những không bận tâm đến chủ đề này mà còn chỉ trích kịch liệt ý tưởng về sức mạnh của ý nghĩ và không hề thử tìm hiểu gì về nó – dù rằng ai trong số họ cũng đang sử dụng nó một cách vô thức! Một lần nữa, rất nhiều người chỉ tin vào những gì họ muốn tin hay những gì phù hợp với cách nghĩ đã đóng khung của họ và phản bác mọi thứ, nhất là những ý tưởng mới lạ. Vô số người với những ý tưởng đột phá, táo bạo ngay trong chính thời đại chúng ta đã từng bị la ó, phỉ báng, thậm chí bị đối xử thô bạo bởi những kẻ tối tăm, ngu dốt. Tôi nhớ đến lời của Marie Corelli, tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng thế giới thế kỷ 19:
Cái ý nghĩ cho rằng mỗi người đều có đủ may mắn để giành lấy một lợi thế nào đó so với những người khác (bằng sự biếng nhác hay thói lãnh đạm của chính họ) đã không còn nữa đủ để kích động lòng đố kỵ của những kẻ tiểu nhân hay cơn giận dữ của bọn ngu dốt… Việc một người khác ở bên ngoài bước vào sự minh triết của thế giới tinh thần huyền diệu của họ là điều bất khả thi. Cả ý kiến cho rằng những lời thuyết giảng và giáo lý của thế giới đó cần phải được ít nhiều cụ thể hóa thành một cuốn sách, mà họ hiếm khi quan tâm hay mở ra đọc lấy một dòng, cũng là điều không tưởng. Vì lý do này mà các bậc hiền triết thường giữ lại trong lòng mình phần lớn tư tưởng uyên thâm của họ trước những kẻ phàm phu, vì họ nhận ra ngay lập tức sự hạn chế của những đầu óc thiển cận và những định kiến hẹp hòi… Kẻ ngu dốt thường cười nhạo những gì họ không biết và cho rằng tiếng cười đó thể hiện sự uyên bác của mình, chứ không phải sự dốt nát cố hữu của họ. (4)
Các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học và các nhà tư tưởng nổi tiếng của thế giới rộng lớn ngày nay đang thảo luận về vấn đề này và trao đổi kết quả các cuộc thí nghiệm của họ. Không lâu trước khi qua đời, Charles P. Steinmetz (1865 – 1923), vị kỹ sư nổi tiếng của Hãng General Electric, tuyên bố rằng: “Tiến bộ quan trọng nhất trong nửa thế kỷ tới là lĩnh vực tâm linh – hay giao tiếp tâm linh – ý nghĩ”. Tiến sĩ Robert Gault, trong thời gian làm giáo sư của Đại học Northwestern, đã khẳng định: “Chúng ta đang ở ngưỡng cửa của tri thức về sức mạnh tinh thần tiềm ẩn của loài người”.
Người ta đã nói và viết rất nhiều về những năng lực bí ẩn, các lực chưa biết, những điều huyền bí, siêu hình ngoài tầm nghiên cứu của khoa học, vật lý học tinh thần (mental physics), tâm lý học, những phép màu rõ ràng và nhiều chủ đề tương tự. Những chủ đề này làm cho nhiều người tin rằng họ đang nghiên cứu về các hiện tượng siêu nhiên thần bí. Nhưng đối với tôi, điều duy nhất không thể lý giải được là tại sao niềm tin lại làm cho những điều kỳ diệu như thế xảy ra.
Như tôi đã nói ở trên, nhiều người đã sử dụng “nó” để gia tăng gấp đôi, gấp ba hoặc thậm chí gấp bốn mức thu nhập của họ. Tôi còn lưu giữ nhiều thư từ của rất nhiều người thuộc đủ mọi thành phần xã hội, những người đã trở nên giàu có nhờ áp dụng “nó” vào cuộc sống của họ. Một trong số đó là Ashley C. Dixon, người một thời nổi tiếng trên các làn sóng phát thanh ở bờ Tây nước Mỹ. Cách đây vài năm, ông ấy viết thư cho tôi nói rằng ông ấy đã từng nghiên cứu về chủ đề này một cách hàn lâm, nhưng không bao giờ tin vào “nó” cho đến năm ông 43 tuổi. Khi đó, ông chỉ có 65 đô-la trong tay, thất nghiệp và rất khó xin việc làm. Rồi ông ấy chứng minh rằng niềm tin có tác dụng như một lực thúc đẩy về mặt tinh thần và giúp con người biến không thành có. Tôi xin trích một đoạn trong bức thư của Dixon:
“Quyển T.N.T. của ông đưa ra cho độc giả một hình thức có thể sử dụng được mà tôi đã biết. Tôi như được nhìn thấy thác Niaraga lần đầu tiên trong đời mình. Ai cũng biết có một nơi hùng vĩ như thế, nhưng việc “tận mắt chứng kiến” mới nói lên mối liên hệ xác tín giữa cá nhân ta với nó. Xin lặp lại rằng, TNT mang đến cho tôi những dữ liệu mà tôi đã biết và đã sử dụng, nhưng với một cách diễn giải rõ ràng hơn nhiều. Đó là những gì tôi có thể đọc và sử dụng hàng ngày: giữ lại các ý nghĩ trong đầu cho tới khi nào chúng được giải thích một cách trọn vẹn.
Vậy tất cả điều này có giá trị đối với tôi như thế nào về mặt tiền bạc? Đó là câu hỏi tất nhiên phải có ở một người bình thường. Anh ta muốn nhìn thấy ngay một con số nói lên sự thịnh vượng. Thì đây, câu trả lời: Tôi đã kiếm được 100.000 đô-la, và phần lớn trong số đó nằm trong các hợp đồng bảo hiểm và các khoản trợ cấp hàng năm của tôi. Tôi đã bán công ty của tôi với giá 30.000 đô-la (trước đó tôi mất 5.000 đô-la vay mượn để thành lập và điều hành nó, sau đó tôi ký hợp đồng điều hành chính nó trong 10 năm với mức thu nhập ròng tối thiểu 50.000 đô-la nếu tôi làm cho nó tiếp tục sinh lãi. Đây không phải là lời nói bốc đồng. Bởi vì 10 năm đó đã qua và những gì tôi vừa nói đều đã thành sự thật… Có thể một mục tiêu nào đó không thể được hoàn thành trong một ngày, một giờ, một tháng hay một năm, nhưng đối với tôi nó luôn được hoàn thành.”
Năm 1934, thời kỳ “đáy” của cuộc Đại Suy thoái, người đứng đầu Cục Xúc tiến Kinh doanh của một thành phố lớn thuộc bờ Tây Thái Bình Dương nghe thấy những điều đang xảy ra với những công ty và các cá nhân thực hành theo các hướng dẫn của tôi. Thế là ông ấy quyết định tim hiểu về công việc của tôi. Không lâu sau đó ông chúc mừng tôi trên mặt báo và viết thư cho tôi như sau:
“Tôi muốn nói rằng, những bài giảng của ông đã đem lại sự thay đổi lớn trong các ngành kinh doanh ở đây hơn bất cứ nhân tố hay cơ quan xúc tiến thương mại đơn lẻ nào. Đây chỉ là lời nói lại dựa trên tuyên bố của vô số giám đốc điều hành, những người đã và đang sử dụng bí quyết này một cách thành công mỹ mãn trong ngành nghề kinh doanh của họ… Lần đầu tiên khi tôi nghe về các kết quả kinh doanh mang tính hiện tượng đó, tôi thậm chí không muốn đặt câu hỏi gì cả, bởi chúng quá hoang đường. Nhưng sau khi nói chuyện với giám đốc các công ty đã sử dụng phương pháp của ông, cả những nhân viên kinh doanh đã tăng gấp đôi, gấp ba thu nhập của họ, rồi tự tôi nghe những bài thuyết trình và nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này, bỗng nhiên cái sức mạnh kỳ lạ và năng động chứa đựng bên trong nó hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết. Không phải ai cũng có thể hiểu được nó trong giây lát, nhưng công ty và cá nhân nào chấp nhận sự thật trong những lời ông nói và thực hành theo đều có thể kỳ vọng nhận được những kết quả phi thường và đáng kinh ngạc. Ông đã hoàn toàn minh chứng cho điều đó và tôi xin nồng nhiệt chúc mừng ông!”
Người này từ đó về sau đã đạt được vô số thành tích cao ngất ngưởng trong công việc kinh doanh của mình và tiếp tục viết cho tôi về những minh chứng khác với những kết quả xác thực từ những người đã áp dụng phương pháp niềm tin của tôi.
Khi bắt đầu viết quyển sách này, tôi quyết định viết thư cho các công ty và một số cá nhân đã từng xác nhận với các kết quả mang tính đột phá mà họ đạt được khi sử dụng phương pháp của tôi. Không có một ngoại lệ nào, tất cả mọi người đều tuyên bố rằng họ vẫn đang tiếp tục tiến bộ và gặt hái nhiều thành công trong sự nghiệp hay cuộc sống của mình. Một trong số họ là Dorr Quayle, một người rất nổi tiếng ở Hội Cựu chiến binh Mỹ trong thời gian ông ấy hoạt động cho hội này ở Northwest. Ông ấy viết:
“Thoạt tiên, chấp nhận hoàn toàn ý kiến của ông không phải là chuyện dễ dàng, nhưng hoàn cảnh và điều kiện thể chất của tôi buộc tôi phải tìm hiểu nó một cách liên tục cho đến khi mọi thứ sáng tỏ ra… Ông biết đấy, vào tháng Hai năm 1924, tôi bị ốm nặng và liệt một phần hai chân. Tôi phải sử dụng nạng để di chuyển trước mọi khoảng cách dù chỉ là một vài bước chân, và với tốc độ… rùa bò. Đối với một người từng là giám đốc ngân hàng, tình trạng khiếm khuyết khả năng như thế này thật là khó chấp nhận. Sở dĩ tôi còn chịu đựng được là vì tôi nhận được sự bồi đắp của chính phủ - sự bại liệt của tôi được xem là di chứng chiến tranh từ những năm tôi phục vụ trong quân đội trong Chiến tranh Thế giới I. Tuy nhiên, năm 1933, chính phủ đưa tôi ra khỏi danh sách nhận trợ cấp và tôi buộc phải tự kiếm sống. Nhà cửa và các tài sản khác của tôi lần lượt đội nón ra đi. Một viễn cảnh không lấy gì làm sáng sủa, một tương lai mờ mịt đang chờ đợi tôi phía trước.
Yêu cầu cuộc sống buộc tôi phải thực hành các nguyên tắc vốn được ông giải thích hết sức cặn kẽ. Cứ làm theo đó mà thành công. Cũng có thể tôi được ưu ái vì tôi không thể từ bỏ ngành kinh doanh tư vấn kế toán của mình – mà do tình trạng khiếm khuyết thể chất tôi không làm các ngành khác được. Sự kiên định tạo ra lòng tin, rồi tiếp sau nó là một thái độ tinh thần đúng đắn đi liền với những hành động cụ thể, nhất quán; tất cả hợp lại mang đến thành công. Tôi chưa đạt được mức độ thành công như bản thân mong đợi, nhưng điều đó không làm tôi bận tâm lắm, bởi hiện tại tôi có một cuộc sống khá tốt đẹp, giữ lại được các tài sản của mình và quan trọng hơn là tôi đã nắm được công thức bí mật của thành công trọn vẹn. Một khi bạn sở hữu tri thức đó bên trong bạn, mọi nỗi lo sợ đều tan biến và mọi chướng ngại trên đường đời của bạn đều bị dỡ bỏ.”
Tôi gặp Quayle lần đầu tiên ngay sau khi ông ấy khởi sự việc kinh doanh của mình với một cái bàn nhỏ kê phía trước một cửa hàng bán ống nước. Những năm tiếp theo, tôi vui mừng nhìn thấy ông ấy khi ở nơi này, lúc chỗ khác tư vấn cho khách hàng và công cuộc kinh doanh của ông ấy phát triển với những bước đi ngoạn mục, cho đến khi ông chiếm hẳn toàn bộ tầng trệt của một tòa nhà văn phòng tọa lạc tại một trong những vị trí tốt nhất của một thành phố lớn miền Tây nước Mỹ. Nhận thấy đây là một câu chuyện thành công sống động, tôi đã xin phép ông ấy được trích dẫn và kể lại nơi đây.
“Bằng bất cứ giá nào, xin cứ tiếp tục phổ biến bí quyết này nếu anh vẫn nghĩ rằng điều đó có ích cho người khác”, ông ấy nói. “Anh cũng có thể viết thêm rằng giờ đây tôi đã mua được toàn bộ khu nhà tại góc đường số 20 và đường Sandy. Tôi cũng vừa mua một lô đất khác trên đường Sandy để xây một tòa nhà văn phòng riêng cho chúng tôi. Tôi thành thật mong rằng mọi người sẽ chấp nhận và thực hành theo những chỉ dẫn của anh”.
Vào lúc tôi nắm bắt được bí quyết thành công này, tôi không hề có ý nghĩ sau này sẽ viết nó thành sách. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là dùng nó để cứu vãn tình hình kinh doanh đang rất bi đát, nếu không nói là đang trên bờ vực phá sản, của công ty chúng tôi. Hồi đó tôi là phó chủ tịch của một ngân hàng đầu tư và chúng tôi bị cuốn vào cơn khủng hoảng kinh tế cùng với hiểm họa sụp đổ ngay trước mắt.
Không biết tôi có được truyền nguồn cảm hứng hay không, nhưng tôi đã viết liền một mạch bản thảo đầu tiên bài thuyết giảng của tôi trong suốt năm giờ liền mà không cần tham khảo bất cứ tài liệu nào, dù tôi đã để chúng sẵn trước mặt tôi. Đồng thời cũng trong lúc đó thì ý tưởng về tên đề tài hiện ra trong đầu tôi. Đó chính là các từ: “Ý thức vũ trụ” (cosmic consciousness). Tuy nhiên, chúng chẳng có ý nghĩa gì khi đó đối với tôi.
Nhưng sau khi cuốn T.N.T – It Rocks the Earth được xuất bản, nó đến tay một nữ tác giả sống ở New York, và cô ấy đã viết cho tôi như sau:
“Nghiêm túc mà nói, tôi đã từng ăn ngủ với triết lý của ông trong 10 năm qua. Nó đưa tôi đến New York mà không mất tiền. Nó giúp tôi bán được bản thảo của mình cho các nhà xuất bản và có được một công việc nho nhỏ nhưng được trả công hậu hĩnh 30 đô-la một tuần… Nó đưa tôi đến châu Âu đôi lần và giúp tôi có được những bộ áo choàng lông óng ánh.”
Trong thư, cô ấy còn giục tôi đọc quyển Ý thức vũ trụ (Cosmic Consciousness) của Tiến sĩ Richard Maurice Bucke, và bảo rằng nó có những kiến giải rất đáng chú ý về kinh nghiệm khai tâm mở trí thực tế. Quả thật khi đọc quyển sách ấy, tôi lấy làm sửng sốt trước ý nghĩ của chính mình trước đây về sự khai mở trí tuệ. Nó trùng hợp làm sao với những gì Tiến sĩ Burke giải thích. Trong bản thảo bài giảng của mình, tôi đã mô tả chi tiết kinh nghiệm mà tôi thu nhận được từ “nguồn ánh sáng trắng chói lọi của trí tuệ” (5) . Nhưng hệ quả là, khi tôi đưa bản thảo cho một người bạn thân, cậu ấy thúc giục tôi hãy giảm bớt cường độ của từ ngữ: “Người ta chẳng biết gì về cái mà anh gọi là ‘ánh sáng trắng’ đâu! – thậm chí một vài người còn nghĩ rằng anh đang nói về một đề tài quá khả năng hiểu biết của mình nữa đấy!”. Thế là tôi thay đổi cách dùng từ ngữ. Nhưng bạn nào có biết đôi chút về “sự khai sáng vũ trụ” và đã đọc cuốn sách nhỏ của tôi trước đây sẽ hiểu tôi muốn nói gì khi dùng từ “ánh sáng”. Tuy nhiên, ký ức về những kinh nghiệm đơn lẻ như thế sẽ chỉ tồn tại trong tôi mà thôi: chỉ trong một vài giây, tôi nhận được sự hiểu biết và tri thức nhiều hơn toàn bộ thời gian tôi đã từng đọc và nghiên cứu về mọi thứ trên đời.
Cũng trong giai đoạn này, một ý nghĩ bỗng lóe lên trong tôi, rằng tại sao công ty của tôi lại rơi vào tình cảnh khó khăn như thế? Nguyên nhân hoàn toàn không phải bởi sự đe dọa từ những sự kiện xảy ra bên ngoài – mà từ thái độ tinh thần của nhân viên của chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều ngừng kháng cự trước nỗi sợ chung của quảng đại quần chúng: chúng tôi sợ rằng cơn Đại Suy thoái sẽ làm suy yếu tinh thần chúng tôi và quét sạch mọi thứ thành một thảm họa tài chính tồi tệ nhất. Thế đấy, với ý nghĩ thường trực về sự suy tàn, chúng tôi đã tự đưa mình vào thảm họa.
Ý nghĩ đó đã đến với tôi đúng lúc, rằng nếu tôi muốn cứu công ty và chống lại cơn Đại Suy thoái, tất cả những gì tôi cần làm là thay đổi tinh thần và thái độ của từng nhân viên của tôi. Đó là điều cốt lõi cần làm trước hết. Frank W. Camp, người viết lời giới thiệu cho tập bài giảng của tôi, tuyên bố rằng: nó được theo sau “bởi sự biến chuyển lớn nhất của từng cá nhân và từng tổ chức”.
Tôi phải thừa nhận rằng một vài phát biểu của tôi có thể rất buồn cười trước các nhà tâm lý học hàn lâm. Nhưng sự thật là mỗi ngày có hàng ngàn người sẵn sàng tuyên thệ rằng bí quyết này có tác dụng đối với họ. Còn bạn, độc giả thân mến của tôi, điểm chính yếu bạn cần xem xét là nó có mang lại lợi ích cho bạn hay không. Và, cách duy nhất để bạn biết được điều này là hãy thử vận dụng nó cho chính bản thân bạn.
Tôi xin trao cho bạn bí quyết này, với niềm tin tuyệt đối rằng bất kể bạn sử dụng nó như thế nào, bạn cũng đạt được kết quả. Nhưng tôi xin lặp lại lời cảnh báo ngay đầu tập bài giảng của tôi: Đừng bao giờ sử dụng bí quyết này với mục đích xấu xa hay có hại cho người khác.
Ngay từ buổi bình minh của nhân loại, đã tồn tại hai lực hùng mạnh, hay hai thái cực - đó là thiện và ác. Cả hai lực này đều mạnh ngang nhau và có phạm vi hoạt động rất rộng và có chu kỳ hoạt động gần như vô hạn. Nhưng chúng có cùng một điểm chung: chúng đều được điều khiển bằng sức mạnh tinh thần của con người, hay sức mạnh trí tuệ nhân loại. Đôi khi, cái ác tỏ ra lấn át; nhưng đa phần cái thiện sẽ kiểm soát cuộc sống của chúng ta. Chính sức mạnh tinh thần đã tạo nên các đế chế và vương quốc, và chúng ta cũng đã nhìn thấy nó hủy diệt chúng như thế nào theo chiều dài lịch sử của chúng ta.
Nếu bạn đọc quyển sách này theo lối suy ngẫm, bạn sẽ hiểu làm thế nào sức mạnh này có thể được sử dụng như một công cụ hủy diệt, cũng như để đem lại những kết quả tốt đẹp đầy tính xây dựng. Nhiều lực tự nhiên khác cũng thế, chẳng hạn như nước và lửa, tuy chúng mang đến những lợi ích vô cùng to lớn cho con người (cung cấp nước sinh hoạt, tưới tiêu, thủy điện, giao thông thủy, lửa để đốt, nấu…) nhưng vừa có sức hủy diệt muôn phần tàn bạo (lũ lụt, cháy rừng, hỏa hoạn…), tùy thuộc vào mục đích mà chúng được sử dụng.
Vì thế, hãy hết sức cẩn thận và bảo đảm rằng bạn không sử dụng sai bí quyết tiềm thức này. Thiết nghĩ tôi không nên nhấn mạnh điều này hơn nữa, vì nếu bạn sử dụng nó vì mục đích “tối tăm”, nó sẽ như một chiếc boomerang quật ngược vào bạn và hủy hoại cuộc đời bạn như nó đã từng làm với những người khác trong những thế kỷ qua. Đây không phải là những lời nói vu vơ, mà là một lời cảnh báo nghiêm túc, chân thành nhất dành cho tất cả các bạn.
CHÚ THÍCH
(1) Giáo phái Shaker do Ann Lee sáng lập vào năm 1747 tại Anh. Tín đồ của giáo phái này tin rằng Chúa hay Thượng đế ở trong lòng mỗi người và ai cũng có thể tìm thấy Ngài trong chính mình mà không cần phải thông qua giới tăng lữ hay các nghi thức tôn giáo.
(2) Alleluia (hay hallelujah) là một thành ngữ gốc Do Thái, ghép bởi hai từ “hallelu” (“hãy ngợi khen”, động từ hillel) và “jah” (“Gia-vê”, “Thiên Chúa”). Như vậy, alleluia có nghĩa là “Hãy ngợi khen Chúa”.
(3) Trappist: Tu sĩ dòng Luyện Tâm, một giáo phái sống khắc khổ và phát nguyện không bao giờ nói. Một kiểu chơi chữ của tác giả.
(4) Trích từ cuốn The Life Everlasting của Marie Corelli, NXB Borden, Los Angeles.
(5) Nguyên văn: Brilliant white light.