Tôi thậm chí đã không thét lên.
Khi người khác hỏi tôi: "Em không sợ ư?", "Cậu không nghĩ mình sẽ bị cá mập ăn thịt ư?", tôi hiểu rằng trong trường hợp đó mà sợ hãi đến mức thét lên là phản ứng bình thường. Nhưng đó không phải là phản ứng của tôi. Có thể lúc đó tôi bị sốc hoặc tôi không chịu tin chuyện đang xảy ra với mình là thật – có thể lúc đó tôi đã bị tê liệt. Tôi không chắc chắn lắm, nhưng bây giờ khi nhìn lại sự việc, tôi mừng vì lúc đó đã không nhìn thấy con cá mập đang tiến đến gần mình. Tôi mừng vì tôi đã không có đến một giây để kịp hiểu là tôi đang bị cá mập tấn công. Nếu tôi có hơn một giây để nhận thức được chuyện gì đang xảy ra với mình, tôi không dám chắc tôi có thể bình tĩnh đến như vậy. Tôi không dám chắc tôi có thể sống với những cơn ác mộng hoặc có thể quay trở lại với biển nữa.
Ngày hôm đó, chúng tôi mới chỉ lướt sóng được khoảng nửa tiếng – sáng hôm đó sóng không đẹp lắm. Chúng tôi đang đợi những đợt sóng tiếp theo để lướt, và Alana đang đùa với biển ở cách chỗ tôi gần 5 mét, anh trai và bố của bạn ấy còn ở cách tôi xa hơn nữa. Lúc ấy, tất cả chúng tôi đều đang hướng ra phía biển và tôi đang ở sau mọi người.
Tôi đeo một chiếc đồng hồ hiệu Rip Curl màu xanh sáng loáng ở cổ tay trái, cánh tay đang thả lỏng dưới nước. Thỉnh thoảng nhớ lại, tôi tự hỏi liệu có phải ánh phản chiếu của cái đồng hồ đó trên mặt nước trong xanh đã hấp dẫn con cá mập ấy hay không. Tôi chỉ biết rằng bất thình lình tôi ý thức được một vật màu xám khổng lồ đang ở rất gần mình, ở phía bên trái. Nó lừ lừ, lừ lừ di chuyển không một tiếng động và bám sát đến chỗ tôi không biết tự bao giờ. Nếu lúc ấy tôi quay đầu sang phía bên trái thì tôi đã nhìn thấy tất cả: đôi mắt màu đen, những cái răng hình tam giác sắc nhọn, lớp da nhám giống như giấy ráp, cái mõm nhọn, vòm lợi gớm ghiếc của con cá mập. May thay, tất cả những gì tôi nhìn thấy là một mảng màu xám lờ mờ. Thật buồn cười – bạn sẽ nghĩ rằng bị cá mập cắn đứt một cánh tay chắc hẳn đau lắm. Nhưng lúc đó tôi đâu có cảm thấy đau đớn gì. Tôi chỉ cảm thấy một sức ép lớn và một cú giật mà giờ đây nghĩ lại, tôi biết đó là do những cái răng cá mập tạo ra. Những cái răng đó có cạnh sắc giống như một con dao răng cưa dùng để cắt thịt bò bít tết. Những cái răng đó cắn đứt ván lướt và xương của tôi một cách dễ dàng như thể ván và xương của tôi là những mảnh khăn giấy. Việc đó diễn ra chỉ trong vài giây. Tôi nhớ lúc đó tôi nhìn thấy nước ở xung quanh chuyển thành màu đỏ tươi của máu, rồi kế đó là nhận ra cánh tay của mình đã bị cắn đến tận gần vai. Cánh tay trái của tôi chỉ còn lại một mẩu cụt lủn dài khoảng 7-10 cm.
Theo lời kể của Alana, phản ứng đầu tiên của tôi là bình tĩnh đến mức đáng ngạc nhiên và không hề mất kiểm soát. Tôi chỉ thông báo bằng giọng vang to chứ không phải bằng giọng hoảng sợ: "Tớ bị cá mập tấn công", và bắt đầu chèo ván vào bờ bằng một tay còn lại. Lúc đó tôi cũng không nghĩ rằng con cá mập đó sẽ quay lại và tấn công tôi lần nữa. Tôi không cố bơi tránh xa chỗ nó đã cắn mình để thoát khỏi nó, tôi thậm chí còn không biết liệu nó có còn quẩn quanh ở đó hay không. Bây giờ tôi hiểu rằng tình trạng của tôi khi ấy sẽ dễ dàng bị nó tấn công lần nữa, thậm chí nhiều lần nữa. Người ta nói rằng khi một con cá mập đã nếm được mùi vị của bạn, nó thường quay lại để "kiếm chác" thêm.
Nhưng chuyện đó đã không xảy ra với tôi. Lúc bấy giờ, tôi biết bãi biển còn cách vị trí của mình khoảng 400 mét nhưng ý nghĩ "Vào bờ! Vào bờ!" cứ lặp đi lặp lại trong đầu tôi. "Vào bờ!", tâm trí tôi gào thét trong khi tiếng tôi rơi vào thinh lặng. "Phải vào bờ….". Rồi anh Byron và chú Holt nhanh chóng chèo ván đến chỗ tôi. Tôi nói to nhưng lại không phải với cụ thể riêng ai: "Không thể tin được chuyện này lại xảy ra". Mặt chú Holt trắng bệch, mắt chú mở to và kêu lên: "Ôi! Chúa ơi!". Nhưng chú không mất bình tĩnh. Thay vì thế, chú lập tức kiểm soát tình hình: Chú giúp tôi bằng cách đẩy đuôi ván lướt của tôi, và tôi bắt được một con sóng nhỏ để lướt qua rỉa đá ngầm trong khi vẫn nằm trên ván của mình. Đó là một phép màu nho nhỏ khi mà lúc đó thủy triều đang dâng. Nếu đó là lúc thủy triều xuống thì chúng tôi sẽ phải di chuyển vòng qua bãi đá ngầm để vào bờ và như thế thì sẽ mất đến mười phút. Anh Byron vượt qua dải đá ngầm trên cùng một con sóng với tôi trong tư thế nằm úp bụng trên ván. Dù chú Holt, Byron và Alana lúc đó có nghĩ gì chăng nữa, họ cũng nén lại cảm xúc của mình, không ai tỏ ra hoảng hốt hay mất bình tĩnh.
Cánh tay của tôi chảy máu nhiều, nhưng máu không phun xối xả như kiểu những vết thương nghiêm trọng đã chạm vào động mạch chủ. Mãi về sau tôi mới biết là những vết thương như vết thương của tôi thường khiến các động mạch bị cuộn lại, gia tăng áp lực lên thành mạch dẫn đến vỡ mạch máu. Lúc đó tôi không mất bình tĩnh, tôi cầu nguyện không ngừng: "Con cầu xin Chúa hãy cứu con. Xin Chúa hãy đưa con vào bờ". Tôi sợ nhưng lại không biết mình đang sợ điều gì. Đó chỉ là kiểu nỗi sợ chung chung như "Mình bị thương nặng và mình không biết chuyện gì sẽ xảy đến với mình". Chú Holt tháo tay áo bảo hiểm màu xám của chú ra, buộc cái tay áo bảo hiểm đó quanh vết thương của tôi theo kiểu thắt ga-rô để cầm máu. Sau đó chú nói: "Bám vào quần bơi của chú, chú sẽ đưa cháu vào bờ". Vậy là tôi bám lấy chú trong khi chú chèo ván đưa cả hai về phía bờ. Byron ở phía trước chúng tôi, chèo ván nhanh hết mức có thể để vào bờ gọi 911. Chú Holt bảo tôi phải nói chuyện với chú. Chú liên tục hỏi tôi các câu hỏi đại loại như: "Bethany, cháu vẫn bám vào chú đấy chứ? Cháu cảm thấy thế nào?". Tôi nghĩ chú muốn đảm bảo rằng tôi không bị ngất giữa biển, vậy nên tôi cố nói chuyện như chú yêu cầu mặc dù tôi không biết lúc đó mình đã nói gì. Tôi nghĩ tôi chỉ trả lời những câu hỏi của chú, cầu nguyện và dõi mắt đăm đăm về phía dải bờ biển đang mỗi lúc một gần. Và chính trong khoảng 15 phút hành trình trở lại bờ đó, nỗi sợ hãi bắt đầu bao trùm lên tôi. Một ý nghĩ lóe lên trong óc tôi: "Mày có thể chết". Nhưng tôi vội xua cái ý nghĩ tiêu cực ấy đi bằng một lời cầu nguyện. "Con đang ở trong tay của Chúa", tôi nhớ tôi đã nghĩ như thế, và tôi buộc mình phải tập trung, cố gắng bám giữ để vào bờ.
Tôi nhớ lúc ấy tôi nhìn thấy Alana. Bạn ấy đang chèo ván bên cạnh tôi như mọi lần, hầu như chỉ nhìn vào bờ nhưng thỉnh thoảng lại liếc nhìn sang để kiểm tra tình hình của tôi. Ánh mắt của bạn ấy biểu hiện sự sợ hãi nhưng Alana đã cố giấu nó đi. Khi chúng tôi tới gần bờ, tôi nghe thấy ai đó nói: "Nhanh lên! Gọi bảo vệ bờ biển đi!". Tôi biết lúc đó còn quá sớm nên bảo vệ bờ biển có thể chưa có mặt ở đó để làm nhiệm vụ, vì thế tôi nói to mấy lần: "Họ chưa đi tuần đâu!". Nhưng tôi không biết có ai nghe được những gì tôi nói hay không.
Vào bờ
Khi chúng tôi vào đến sát bờ, chú Holt rời khỏi ván lướt của chú và chú mất ít nhất năm phút để đẩy tôi vào bãi cát. Mọi người xúm lại quanh tôi, chú Holt thì nhấc tôi khỏi ván lướt, đặt tôi nằm xuống bãi cát. Lúc đó tất cả mọi thứ trước mắt tôi tối sầm lại, và tôi không nhớ mình đã ở trong tình trạng đó bao lâu. Tôi cứ thoáng tỉnh rồi lại ngất đi, cố gắng đấu tranh để hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Chú Holt lấy được một cái dây buộc ván lướt từ chú Jeff Waba, một người đang lướt ván ở bãi Tunnels thì biết về tai nạn của tôi và vội vào bờ. Họ tháo mảnh tay áo của chú Holt ra và dùng dây buộc ván lướt (trông khá giống cái ống dùng trong phẫu thuật) buộc ga-rô cho tôi.
Tôi không phân biệt được một cách rõ ràng, rành mạch những gì xảy ra sau đó, tất cả là sự trộn lẫn của hình ảnh, âm thanh, cảm giác. Nhớ lại lúc đó cũng giống như nhớ lại một giấc mơ vậy: Trong khi đang mơ, tất cả đều rõ ràng, nhưng khi tỉnh giấc rồi cố gắng nhớ lại giấc mơ đó tất cả những gì bạn nhớ được chỉ là những mẩu nhỏ, những mảnh vụn mà thôi.
Tôi nhớ lúc đó tôi cảm thấy lạnh lắm. Tôi nghe người ta nói rằng khi bạn bị mất nhiều máu bạn sẽ cảm thấy lạnh. Mọi người mang những chiếc khăn tắm đến quấn quanh người tôi. Ai cũng lo lắng nhưng dường như tất cả đều cố gắng làm tôi yên tâm, giúp tôi giữ bình tĩnh và khiến cho tôi cảm thấy dễ chịu.
Rồi tôi bắt đầu cảm thấy đau ở gốc chi và nghĩ: "Đau quá!". Và tôi biết mình đã nói "Cháu muốn gặp mẹ!" đến mấy lần. Lúc sợ hãi, con người phản ứng thật buồn cười: cho dù nghĩ mình đã lớn, bạn vẫn muốn mẹ bạn ở bên bạn để làm bạn yên tâm hơn. Tôi nhớ lúc đó tôi khát nước lắm và tôi đã hỏi xin nước Alana. Vậy là bạn ấy vội chạy tới chỗ một người khách tham quan tên là Fred Murray, người đang đi dạo trên bãi biển trong khi những người thân cùng đến Hawaii với anh đang nghỉ ở một ngôi nhà họ thuê sát bãi biển.
"Đi theo tôi!", anh ấy nói to và hai người bọn họ chạy về gặp một người thân của anh tên là Paul Wheeler, đội trưởng và là người phụ giúp việc y tế của một đội cứu hỏa ở Haywood, California. "Bạn em cần nước", Alana nói. Alana phải cố gắng lắm mới có thể giải thích cho những người đó biết chuyện vừa xảy ra bởi vì bạn ấy vẫn đang quá sốc.
Paul không chần chừ một giây. Anh lao ra cửa chạy đến bên tôi. "Đừng lo", anh nói, "tôi có thể giúp. Tôi là nhân viên hỗ trợ y tế. Mọi người hãy đứng lùi ra một chút nào". Tôi vẫn còn nhớ gương mặt và giọng nói tràn đầy trắc ẩn của anh. Tôi nghĩ mọi người lúc ấy cảm thấy nhẹ nhõm hơn vì tìm được một chuyên gia đến giúp tôi; ý thức được điều đó khiến tôi an tâm hơn. Paul kiểm tra vết thương của tôi và khuyên tôi không nên uống nước khi Alana mang nước tới. "Tôi biết em đang khát nước nhưng em cần phải phẫu thuật và vì thế em phải giữ cho dạ dày của mình trống", anh giải thích.
Một người nào đó mang đồ cứu thương được để trong một cái hộp nhựa đến và Paul ngay lập tức mang găng tay vào để có thể dùng tay kiểm tra kỹ hơn vết thương của tôi, rồi anh dùng gạc bịt vết thương lại. Tôi nhớ mình đã nhăn mặt lại khi anh làm việc đó, nhưng tôi biết anh buộc phải làm như vậy. Khi bắt mạch cho tôi, Paul lắc đầu và nói khẽ: "Cô bé mất nhiều máu quá!".
Tôi nhớ còn có cả một con chó len lỏi qua chân mọi người cố liếm người tôi: chắc hẳn nó cũng lo lắng cho tôi. Rồi tôi nghĩ: "Tại sao xe cứu thương lại lâu tới vậy chứ? Làm ơn đến nhanh đi, làm ơn đi!". Byron đã chạy đến chỗ để xe lấy điện thoại di động của anh ấy và báo cho người trực tổng đài cấp cứu, nhưng mãi vẫn chưa thấy ai đến cả. Tôi cảm thấy thời gian chờ đợi dường như vô tận và tôi có thể thấy Byron đi đi lại lại đầy vẻ sốt ruột.
Chú Holt quyết định rằng chúng tôi không thể chờ thêm nữa. Chú và những người lướt sóng khác nhấc tôi lên ván lướt sóng của chú và khênh tôi đến bãi đỗ xe, nơi họ đặt tôi vào thùng của chiếc xe tải nhỏ. Một lần nữa, tôi lại thoáng ngất đi, chỉ có thể thấy được một cách mơ hồ những gì đang diễn ra và nghe loáng thoáng những giọng nói hoảng hốt.
Tôi nhớ tôi đã nghe thấy tiếng còi xe cứu thương the thé, chói tai. Tôi nhớ tôi cảm thấy những mũi kim cắm vào da thịt và tôi được chuyển sang một cái cáng, được đưa lên xe cứu thương. Và tôi nhớ rõ nhất những gì người hỗ trợ y tế ở Kauai đã nói với tôi. Anh nói bằng giọng nhẹ nhàng và anh cầm tay tôi khi xe chuẩn bị di chuyển ra khỏi bãi đỗ xe của Tunnels. Anh thì thầm vào tai tôi: "Chúa sẽ không bao giờ bỏ mặc em đâu, em ạ".
Anh ấy nói đúng.