Không có căn bệnh nào của cơ thể mà không liên quan đến tâm trí.
— SOCRATES
Nếu tôi nói rằng chăm sóc cơ thể là phần việc ít quan trọng nhất đối với sức khỏe của bạn... rằng để thực sự khỏe mạnh còn có các yếu tố khác quan trọng hơn thì sao? Nếu như điều quan trọng đối với sức khỏe không chỉ là ăn uống đầy đủ dinh dưỡng, tập thể dục hằng ngày, duy trì cân nặng hợp lý, ngủ đủ tám tiếng, uống vitamin, duy trì cân bằng nội tiết tố hay khám sức khỏe định kỳ thì sao?
Đương nhiên, những hoạt động kể trên đều quan trọng, thậm chí là những hoạt động thiết yếu để tối ưu hóa sức khỏe của bạn. Nhưng nếu như có điều gì khác thậm chí còn quan trọng hơn thì sao?
Nếu bạn có khả năng chữa lành cho cơ thể chỉ bằng việc thay đổi cách suy nghĩ và cảm nhận của mình thì sao?
Tôi biết điều này nghe có vẻ lạ lùng, nhất là khi nó được một bác sĩ nói ra. Tin tôi đi, tôi đã từng hoài nghi y như bạn khi lần đầu phát hiện các nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng điều này có thể đúng. Tôi thực sự đã nghĩ rằng một cơ thể khỏe mạnh không đơn giản như là nghĩ khỏe sẽ khỏe hay lo lắng sẽ bệnh.
Hay là thế thật?
Vài năm trước, sau mười hai năm học y khoa chính thống và tám năm thực hành lâm sàng, tôi đã hoàn toàn thấm nhuần các nguyên tắc giáo điều của y học dựa trên bằng chứng, mà tôi tôn thờ như Kinh Thánh. Tôi đã không tin bất cứ điều gì không thể chứng minh được bằng một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm soát. Hơn nữa, tôi đã được bố tôi nuôi dạy. Ông là một bác sĩ rất bảo thủ, thường cười nhạo bất cứ điều gì không liên quan đến khoa học chính thống, vì thế tôi cũng đã rất cứng đầu, bảo thủ và sẵn sàng chỉ trích những điều tương tự.
Y học mà tôi từng được đào tạo không ủng hộ ý tưởng rằng bạn có thể tự làm cho mình khỏe mạnh hay bị bệnh bằng sức mạnh của những suy nghĩ và cảm xúc. Chắc chắn, dù các giáo sư của tôi ở trường y đã chẩn đoán một số bệnh mà thiếu các kết quả sinh hóa là “bệnh tưởng”, nhưng những bệnh nhân đó nhanh chóng được giới thiệu đến gặp các các bác sĩ tâm thần trong khi họ chỉ biết tròn mắt ngạc nhiên và hoảng hốt lắc đầu.
Không có gì ngạc nhiên khi nhiều bác sĩ chính thống e ngại ý niệm sức mạnh của tâm trí có thể chữa lành cho cơ thể. Rốt cuộc thì chúng tôi đã dành mười năm để học các công cụ được cho là sẽ giúp chúng tôi điều chỉnh cơ thể người khác. Chúng tôi muốn tin rằng thời gian, tiền bạc và công sức mà chúng tôi đã đầu tư để trở thành bác sĩ là không lãng phí. Chúng tôi cũng thực sự tin rằng khi bạn gặp vấn đề nào đó về thể chất, bạn sẽ phải cậy nhờ đến chuyên môn của chúng tôi. Là bác sĩ, chúng tôi biết về cơ thể bạn rõ hơn chính bạn. Toàn bộ thiết chế y tế đã được dựa trên ý niệm như vậy.
Hầu hết mọi người đều vui vẻ vận hành trong mô hình này. Còn mô hình thay thế, mô hình mà bạn có năng lực tự chữa lành cho chính cơ thể mình hơn bạn nghĩ, lại đẩy trách nhiệm chăm lo sức khỏe về cho chính bạn, nhưng nhiều người lại cảm thấy quá nhiều. Việc trao quyền cho người khác và hy vọng rằng một ai đó thông minh hơn, khôn ngoan hơn, giàu kinh nghiệm hơn có thể “giải quyết vấn đề” thường dễ hơn nhiều.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu mọi nhận định của chúng ta đều sai lầm? Điều gì sẽ xảy ra nếu việc phủ nhận rằng cơ thể vốn đã được thiết kế để tự phục hồi, còn tâm trí hoàn toàn có khả năng tự vận hành hệ thống tự phục hồi đó cũng đồng nghĩa với việc chúng ta đang tự hủy hoại chính mình?
Là bác sĩ, hẳn ai cũng từng chứng kiến những điều xảy ra trước mắt mình mà khoa học không thể giải thích được. Ngay cả những bác sĩ có tư tưởng bảo thủ nhất cũng từng chứng kiến những bệnh nhân hồi phục trở lại khi mọi cơ sở khoa học đều cho rằng họ không thể. Khi chứng kiến những điều như vậy, chúng ta không thể không đặt câu hỏi về tất cả những điều mà chúng ta đánh giá cao trong y học hiện đại. Chúng ta bắt đầu tự hỏi phải chăng điều gì đó thần bí hơn đã xảy ra.
Các bác sĩ hiếm khi thảo luận về khả năng này trước mặt bệnh nhân, nhưng họ thì thầm về nó trong phòng dành cho bác sĩ ở các bệnh viện và trong phòng hội thảo tại các trường đại học thuộc khối Ivy League của Mỹ. Nếu bạn cũng tò mò và quan tâm giống như tôi, bạn sẽ nghe được những câu chuyện khiến bạn kinh ngạc.
Bạn nghe người ta thì thầm về người phụ nữ có khối u ung thư teo nhỏ rồi biến mất hoàn toàn trong quá trình xạ trị. Sau đó, các bác sĩ mới phát hiện ra rằng máy phóng xạ đã bị hỏng. Cô ấy thực sự đã không nhận được bất kỳ tia phóng xạ nào nhưng cô ấy lại tin mình nhận được. Các bác sĩ của cô cũng đã nghĩ như vậy.
Họ nói về một người phụ nữ sốc vì bị nhồi máu cơ tim sau ca phẫu thuật bắc cầu, dẫn tới suy thận cấp tính, có khả năng tử vong nếu không điều trị. Khi các bác sĩ đề nghị lọc máu, cô đã từ chối vì không muốn phải chịu đựng thêm các biện pháp điều trị xâm lấn. Trong chín ngày, thận của cô không tạo được nước tiểu, nhưng vào ngày thứ mười, cô bắt đầu đi tiểu. Hai tuần sau, không cần điều trị gì, cô đã trở lại làm việc và chức năng thận của cô thậm chí còn tốt hơn cả trước khi phẫu thuật.
Còn nữa, một người đàn ông bị nhồi máu cơ tim đã từ chối phẫu thuật tim chỉ để các mạch máu bị nghẽn “bất trị” tự thông trở lại sau khi thay đổi chế độ ăn, bắt đầu một chương trình tập thể dục, tập yoga, tập thiền hằng ngày và tham gia các buổi trị liệu theo nhóm.
Một bệnh nhân khác đang điều trị ở Khu Chăm sóc Tích cực lại có trải nghiệm cận tử. Căn bệnh ung thư hạch bạch huyết giai đoạn bốn khiến các cơ quan trong cơ thể cô dần ngừng hoạt động. Cô đã trở thành một người thuần khiết, yêu thương vô điều kiện và ngay lập tức biết rằng nếu cô chọn không bước qua bờ bên kia, thì khối u ung thư của cô sẽ biến mất gần như tức khắc. Không đầy một tháng sau, kết quả sinh thiết các hạch bạch huyết của cô cho thấy không còn bất kỳ dấu hiệu ung thư nào.
Chưa hết, một phụ nữ khác bị gãy cổ. Sau khi được đưa đến bệnh viện và có kết quả chụp X-quang xác nhận bị gãy hai đốt sống cổ, cô đã từ chối can thiệp y tế và tìm đến một người chữa bệnh bằng đức tin dù bác sĩ của cô kịch liệt phản đối. Một tháng sau, dù không áp dụng bất kỳ phương pháp điều trị y tế nào, cô đã có thể ra ngoài chạy bộ.
Mọi người còn truyền tai nhau câu chuyện về nghiên cứu thử nghiệm loại thuốc hóa trị có tên là EPOH đang cho thấy những kết quả ít khả quan, nhưng một bác sĩ ung thư lại chứng minh rằng loại thuốc rất khả quan. Tại sao lại như vậy? Người ta đồn rằng ông đã đổi vị trí các ký tự trong tên thuốc khi nói chuyện với bệnh nhân. Thay vì tiêm EPOH, ông đã tiêm HOPE [HY VỌNG] cho bệnh nhân của mình.
Vì tôi đã viết một trang blog phổ thông và thu hút được một lượng độc giả tận tâm khá lớn ở khắp nơi trên thế giới, nên tôi thường xuyên nghe được những câu chuyện tương tự như vậy. Khi tôi bắt đầu chia sẻ những câu chuyện được cho là có thật này với độc giả của mình, hộp thư điện tử của tôi liền tràn ngập những câu chuyện thậm chí còn khó tin hơn. Một người phụ nữ mắc bệnh Lou Gehrig đến gặp nhà chữa lành John of God và sau đó bác sĩ thần kinh tuyên bố cô đã khỏi bệnh. Một người đàn ông bị liệt thực hiện một chuyến hành hương đến hồ nước chữa bệnh ở Lộ Đức và sau đó đã đi lại được. Một người phụ nữ mắc bệnh ung thư buồng trứng giai đoạn bốn “chỉ đơn giản biết rằng” cô sẽ không chết và với sự ủng hộ của những người thân yêu, mười năm sau cô vẫn còn sống. Một người đàn ông được chẩn đoán tắc động mạch vành sau cơn đau tim được thông báo là sẽ chết trong vòng một năm nếu không làm phẫu thuật tim. Sau khi từ chối phẫu thuật, ông sống thêm 20 năm nữa mới qua đời, nhưng không phải là do bệnh tim, ở tuổi 92.
Khi nghe những câu chuyện này, tôi không thể phớt lờ những day dứt tự đáy lòng mình. Chắc chắn là không phải tất cả những người này đều nói dối. Nhưng nếu họ không nói dối thì lời giải thích duy nhất phải là có điều gì đó vượt ra khỏi những gì tôi đã được học trong y học chính thống.
Điều này buộc tôi phải suy nghĩ. Chúng ta biết những cơn thuyên giảm tự phát, không thể giải thích được, thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Mọi bác sĩ đều đã từng chứng kiến chúng. Và chúng ta chỉ nhún vai rồi quay trở lại với công việc của mình, mang theo cảm giác buồn bã, không thoải mái vì đã không thể giải thích được chúng bằng lô-gíc.
Nhưng sâu thẳm trong tâm trí, tôi luôn băn khoăn tự hỏi liệu chúng ta có thể kiểm soát quá trình này không. Nếu “điều không thể” xảy ra với một người, thì chúng ta có thể học được bất cứ điều gì từ những việc mà người đó đã làm không? Có điểm tương đồng nào giữa những bệnh nhân may mắn đó không? Có phương cách nào để tối ưu hóa cơ hội thuyên giảm tự phát không, nhất là trong trường hợp chưa có phương pháp điều trị hiệu quả trong bộ công cụ y tế tiêu chuẩn? Và liệu có bất cứ điều gì mà các bác sĩ có thể làm để hỗ trợ tiến trình này không?
Tôi không thể ngừng tự vấn, liệu có phải việc tôi không xem xét khả năng mà bệnh nhân có thể phần nào kiểm soát được việc tự chữa lành đã khiến tôi vi phạm lời thề Hippocrates thiêng liêng và trở thành một bác sĩ vô trách nhiệm hay không. Nếu là một bác sĩ tốt, hẳn tôi đã sẵn lòng mở rộng tâm trí vì lợi ích của bệnh nhân.
Nhưng những câu chuyện đầy cảm hứng đóng khung trong phòng bác sĩ hay trôi nổi trên Internet đơn giản là không đủ để thuyết phục tôi. Là một nhà khoa học được đào tạo và có tính hoài nghi bẩm sinh, tôi cần có bằng chứng thiết thực, vững chắc. Và khi tôi bắt đầu hỏi về chúng, tôi đã không tìm được gì nhiều.
Tôi đã cố gắng hết sức để điều tra những tin đồn mà tôi nghe được. Tôi bắt đầu tìm bằng chứng từ những nhân vật chính trong các câu chuyện này. Liệu họ có thể cho tôi xem phim chụp từ kính hiển vi không? Tôi có thể nói chuyện với nhân viên kỹ thuật chịu trách nhiệm về máy xạ trị chứ? Tôi có thể xem hồ sơ bệnh án không?
Tôi gần như tuyệt vọng. Khi tôi hỏi về hồ sơ y tế hay những nghiên cứu hỗ trợ, hầu hết mọi người đều xin lỗi. “Điều đó đã xảy ra lâu lắm rồi.” “Chắc chắn là đã có có một nghiên cứu, nhưng tôi không có tài liệu.” “Bác sĩ của tôi đã nghỉ hưu nên tôi không thể liên lạc được.” “Họ đã làm thất lạc hồ sơ bệnh án của tôi rồi.”
Ngay cả những ca tự hồi phục tức thời mà tôi còn nhớ mang máng là mình đã chứng kiến khi mới hành nghề cũng nằm ngoài tầm tay của tôi. Tôi đã không ghi chú lại. Tôi không thể nhớ tên họ. Tôi cũng chẳng biết làm cách nào để liên lạc với họ. Tôi đã đi vào ngõ cụt.
Dù vậy, khi tôi càng đặt nhiều câu hỏi trên mạng thì càng có nhiều câu chuyện được gửi đến. Khi tôi bắt đầu dò hỏi những người bạn là bác sĩ, mỗi người đều kể tôi nghe về những trường hợp tự khỏi bệnh không thể giải thích được, các bệnh nhân mắc bệnh “nan y” đã được chữa khỏi, khiến cho ai chẩn đoán bệnh của họ đã vào “giai đoạn cuối” trông giống như những kẻ ngốc. Dù vậy, họ vẫn không có bằng chứng.
Đến lúc này, tôi đã bị thu hút, gần như ám ảnh. Sự tò mò khiến tôi cố công tìm hiểu sâu hơn. Sau hàng trăm email và hàng tá cuộc phỏng vấn, tôi tin rằng có điều gì đó thực sự đã xảy ra với những bệnh nhân này. Những câu chuyện của họ bỗng trở thành “truyền thuyết” trong những cuốn sách siêu hình và trên Internet. Dù sẽ dễ dàng hơn rất nhiều cho các bác sĩ nếu phớt lờ đi những câu chuyện này, nhưng nếu là một bác sĩ thật sự quan tâm đến việc giúp người khác chữa lành thì bạn không thể bỏ qua chúng. Càng lắng nghe, bạn càng bắt đầu ngạc nhiên về khả năng của cơ thể.
Hầu hết các bác sĩ, nếu tránh xa những đồng nghiệp hay chỉ trích và phán xét, sẽ thừa nhận điều này: Từ sâu thẳm, thần bí và sinh lý “gặp gỡ” rồi kết nối nhờ tâm trí vĩ đại và mạnh mẽ. Nhưng ít ai dám lên tiếng vì sợ bị gán cho là lang băm.
Trong nhiều thập kỷ, các nhà tiên phong trong lĩnh vực y học đã công khai ủng hộ mối liên kết giữa cơ thể và tâm trí. Cho dù vậy, họ vẫn không thể đưa mối liên kết này vào cộng đồng y học chính thống. Là một bác sĩ trẻ, tôi đã nhận bằng y khoa sau khi các bác sĩ nổi tiếng như Bernie Siegel, Christiane Northrup, Larry Dossey, Rachel Naomi Remen và Deepak Chopra nâng cao nhận thức về mối liên kết giữa cơ thể và tâm trí, và bạn có thể nghĩ rằng những điều họ thuyết giảng là một phần trong chương trình đào tạo y khoa của tôi. Nhưng, tôi hầu như không biết gì về công việc của họ, phải đến khi tôi học xong, bắt đầu thực hiện nghiên cứu của chính mình tôi mới đọc những cuốn sách họ viết.
Lần đầu đọc những cuốn sách đó, tôi đã rất giận. Làm sao tôi có thể không biết đến những bác sĩ có tâm hồn khoáng đạt và trái tim rộng mở như họ? Và vì sao những cuốn sách của họ lại không phải là tài liệu đọc bắt buộc cho sinh viên y khoa và sinh viên nội trú năm nhất?
Khi tìm hiểu sâu hơn, tôi đã rất bức xúc và chính cảm giác đó trở thành sứ mệnh thôi thúc tôi nghiên cứu và viết lách trong nhiều năm. Tôi bắt đầu đọc mọi cuốn sách y học về cơ thể-tâm trí mà tôi có thể tìm được. Tôi cũng bắt đầu viết blog, đăng tin trên Twitter và Facebook về những gì mình đang nghiên cứu, và tôi càng được nghe nhiều câu chuyện từ những người đã trải nghiệm phép màu trong y học thường xuyên hơn. Tôi bị mắc kẹt. Có nhiều bằng chứng hơn. Nhưng không điều gì tôi được nghe có thể được xem là “khoa học”. Tôi khao khát tìm được bằng chứng khoa học chỉ ra điều đó không hoàn toàn vô nghĩa.
Thế nên, tôi tiếp tục nghiên cứu, sẵn lòng rộng mở tâm trí mình vì tôi đã biết nhiều hơn về cách mà tâm trí có thể ảnh hưởng đến cơ thể. Một phần trong tôi đón nhận trọn vẹn khái niệm cơ thể-tâm trí. Điều này có ý nghĩa trực quan với tôi. Nhưng một phần khác trong tôi đã kháng cự dữ dội. Việc tin vào những gì đang nghiên cứu đòi hỏi tôi phải từ bỏ phần lớn những gì mình đã được dạy, cả từ người bố bác sĩ rất truyền thống và từ các thầy cô ở trường y của tôi.
Một trong những cuốn sách đầu tiên tôi nghiên cứu, cuốn sách về lịch sử cơ thể-tâm trí trong y khoa của Giáo sư Anne Harrington thuộc Đại học Harvard,The Cure Within (Thuốc chữa từ bên trong), đã làm tôi chóng mặt và cảm thấy khó ở. Trong cuốn sách, bà đề cập đến hiện tượng “cơ thể hành xử không tốt”, nghĩa là đôi khi cơ thể không phản ứng theo cách mà nó “nên” làm, và cách duy nhất mà chúng ta có thể giải thích những bí ẩn đó là thông qua năng lực của tâm trí.1
Để minh họa cho việc “cơ thể hành xử không tốt”, Harrington kể những câu chuyện về các bé sống trong cô nhi viện, dù được đáp ứng đầy đủ toàn bộ nhu cầu vật chất nhưng các bé đều suy nhược thể chất lẫn trí tuệ vì đã không được yêu thương đúng cách. Cô cũng trích dẫn 200 trường hợp mù lòa trong một nhóm phụ nữ Campuchia bị Khmer Đỏ ép buộc phải chứng kiến những người thân yêu của họ bị tra tấn và sát hại. Mặc dù việc kiểm tra y tế không tìm thấy vấn đề bất ổn nào ở mắt của những phụ nữ này, nhưng họ nói rằng mình “đã khóc cho đến khi không thể nhìn thấy được nữa.”2
Rõ ràng là có điều gì đó đã xảy ra. Cảm giác nôn nao này khiến tôi muốn tìm hiểu sâu hơn, và khi đó, tôi trở nên hứng thú để tìm ra vì sao những điều này xảy ra. Chúng ta đã có bằng chứng gì về năng lực biến đổi cơ thể của tâm trí? Các lực sinh lý học nào có thể giải thích những việc như vậy? Và chúng ta có thể làm gì để khai thác những năng lực chữa lành này?
Nếu có thể trả lời những câu hỏi này, thì tôi có thể bắt đầu tìm ra manh mối, không chỉ về những câu chuyện ngoài sức tưởng tượng mà mọi người đã kể cho tôi nghe mà còn về mục đích của chính cuộc đời tôi và vai trò của tôi với tư cách là một người chữa lành.
Vào thời điểm tôi đang nghiên cứu mối liên hệ giữa cơ thể và tâm trí, vị trí của tôi trong ngành y vẫn chưa rõ ràng. Sau 20 năm học và làm việc trong lĩnh vực này, tôi đã không còn ảo tưởng về hệ thống chăm sóc sức khỏe đã mục ruỗng, hệ thống đòi hỏi tôi phải điều trị 40 bệnh nhân một ngày, thường được thu xếp một cách vội vã trong bảy phút rưỡi cho mỗi lượt, có rất ít thời gian để chúng tôi có thể thực sự nói chuyện hay tạo mối quan hệ. Tôi đã suýt nghỉ việc khi một bệnh nhân lâu năm nói với tôi là cô định thú nhận một vấn đề sức khỏe nhạy cảm mà cô đã giấu tôi. Cô đã nhẩm đi nhẩm lại những gì sẽ nói trong nhiều ngày với sự hỗ trợ của chồng mình. Nhưng đến lúc cô sẵn sàng thổ lộ mọi thứ, tay của tôi vẫn không rời khỏi tay nắm cửa phòng khám. Cô nói rằng tóc tôi bị rối còn đồ tôi mặc đã bị vấy bẩn. Cô đoán là tôi đã thức cả đêm để đỡ đẻ và có lẽ đúng là như vậy. Dù biết là tôi có thể đã mệt mỏi, cô vẫn cầu nguyện rằng tôi sẽ chạm vào tay cô, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh và cho cô đủ tế nhị lẫn gắn kết để cô cảm thấy an toàn khi nói về vấn đề của mình.
Nhưng cô nói khi đó mắt tôi trống rỗng. Tôi giống như một người máy quá bận rộn để có thể buông tay nắm cửa ra.
Khi đọc bức thư đó, tôi đã nghẹt thở, cảm nhận một tiếng nấc ở ngực và biết tự trong trái tim mình rằng, kiểu hành nghề y như vậy không phải là điều thu hút tôi đến với công việc này. Tôi đến với nghề y theo cách giống như thiên hướng đã đưa một số người trở thành thầy tu, để trở thành một người chữa lành thay vì phải đưa ra các đơn thuốc và lướt qua các kết quả kiểm tra thể chất như một cái máy. Tôi mong muốn được chạm vào những trái tim, được nắm những bàn tay, để mang đến sự an ủi giữa lúc đau khổ, để giúp hồi phục khi có thể và để giảm bớt sự cô đơn lẫn tuyệt vọng khi bệnh không thể chữa lành.
Nếu đánh mất điều đó, tôi mất tất cả. Mỗi ngày làm bác sĩ đã lấy đi một phần lòng chính trực trong tôi. Tôi biết kiểu nghề y mà mình muốn làm nhưng tôi cảm thấy bất lực trong việc giành lại mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân mà tôi từng ao ước; tôi cũng là nạn nhân của các công ty quản lý trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, ngành công nghiệp dược, các luật sư bất chính, các chính trị gia và rất nhiều yếu tố khác có nguy cơ làm gia tăng sự rạn nứt giữa tôi với bệnh nhân.
Tôi cảm thấy mình như một kẻ lừa đảo, dối trá, một phiên bản nhựa nhái rẻ tiền của người bác sĩ mà tôi từng mơ ước trở thành khi còn là một sinh viên y khoa nhiều lý tưởng. Nhưng những lựa chọn thay thế của tôi là gì? Tôi là lao động chính của gia đình, chịu trách nhiệm trang trải khoản nợ tiền học ở trường y của tôi và tiền học sau đại học của chồng, tiền vay mua nhà và tiền quỹ học đại học của cô con gái mới sinh. Bỏ việc là điều không thể.
Sau đó, con chó của tôi mất, người em trai trẻ trung khỏe mạnh của tôi bị suy gan cấp tính do tác dụng phụ hiếm gặp của một loại kháng sinh thông thường, còn người bố yêu dấu của tôi qua đời vì một khối u ở não – tất cả những điều đó xảy ra trong hai tuần.
Đó là giọt nước làm tràn ly.
Không hề có kế hoạch dự phòng hay đảm bảo an toàn nào, tôi đã bỏ nghề y, dự định sẽ không bao giờ quay trở lại. Bán nhà, thanh lý tài khoản hưu trí và đưa cả gia đình về quê để sống một cuộc đời bình dị, tôi đã quy kết mọi thứ liên quan đến nghề bác sĩ thành một sai lầm lớn và dự định sẽ làm một họa sĩ, nhà văn toàn thời gian.
Tại thời điểm đó, tôi đã mất đi sự gắn kết với sứ mệnh thật sự của mình trên Trái đất. Tôi đã dành vài năm để viết blog, viết sách và làm nghệ thuật, nhưng vẫn không có gì thực sự thôi thúc như tiếng gọi đã đưa tôi đến với trường y. Một góc nào đó trong tâm hồn tôi vẫn khao khát được phục vụ. Việc vẽ tranh và viết dường như quá đơn độc, thậm chí là quá ích kỷ, như thể tôi đang nuông chiều những nỗ lực sáng tạo mà mình yêu thích nhưng với cái giá phải trả là tiếng gọi của tâm hồn mình.
Tôi bị mất ngủ suốt mấy tháng liền và khi ngủ tôi mơ thấy mình đang giúp đỡ bệnh nhân ốm yếu, ngồi bên giường bệnh, lắng nghe những câu chuyện của họ mà mắt không nhìn đồng hồ còn tay thì không để trên nắm cửa. Tôi đã thức dậy trong nước mắt như thể đang khóc thương cho một mảnh tâm hồn mình.
Năm 2009, tôi bắt đầu viết blog về những gì tôi nhớ từ nghề y, những gì tôi yêu thích trong nghề y, những điều đã thu hút tôi đến với việc hành nghề y. Tôi viết về cách tôi xem y khoa như là một dạng thực hành tâm linh. Tôi viết về mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân thiêng liêng như thế nào nếu dựa trên sự tôn trọng tương xứng, và tôi đã khao khát khôi phục lại nó đến dường nào. Tôi viết về cách mà nghề y đã làm tôi tổn thương và cách mà tôi đã vô tình làm tổn thương người khác.
Đủ kiểu bệnh nhân và những người chữa lành đã bắt đầu viết thư kể cho tôi nghe những câu chuyện của họ, đăng bình luận trên blog của tôi và một điều gì đó trong tôi đã sáng lên, một điều gì đó giống như là một cơ hội để được phục vụ. Những người mà tôi thu hút đã bắt đầu chữa lành cho tôi.
Trong khoảng thời gian này, những câu chuyện đáng chú ý về các bệnh nhân tự chữa lành khỏi những căn bệnh nan y và ở giai đoạn cuối bắt đầu xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Bất chấp sự kháng cự ban đầu về việc quay lại với thế giới y học, tôi đã bị cuốn vào những cuộc trò chuyện diễn ra trên trang blog của mình.
Tôi không hề tìm cách để quay lại với ngành y. Trong vài năm đầu, khi các dấu hiệu từ Vũ trụ bắt đầu hướng tôi quay trở lại với sứ mệnh của mình với tư cách là một người chữa lành, tôi đã lắc đầu và trốn chạy theo hướng khác. Nhưng bạn không thể lựa chọn sứ mệnh của mình. Nó chọn bạn. Mặc dù bạn có thể từ bỏ công việc, nhưng bạn không thể từ bỏ sứ mệnh của mình.
Hết tình cờ này đến tình cờ khác đã đưa tôi đến một con đường không định trước, chưa được khám phá, dẫn lối để tôi đến với chiếc Chén Thánh của mình. Những cuốn sách rơi khỏi kệ. Các bác sĩ xuất hiện với những thông điệp dành cho tôi. Những bài báo được gửi từ cộng đồng trực tuyến của tôi. Những viễn cảnh bất chợt xuất hiện như những bộ phim trong tâm trí khi tôi đang đi bộ. Những giấc mơ cũng xuất hiện. Những vị thầy lên tiếng gọi.
Tôi bắt đầu tỉnh thức sau cơn mê sâu do những năm học hành và thực hành y khoa gây ra, và trong trạng thái hoang mang mờ mịt, tôi bắt đầu nhìn thấy ánh sáng. Câu hỏi này dẫn đến câu hỏi khác, và trước khi kịp nhận ra vấn đề thì tôi đã ngập chìm trong những bài báo, cố gắng tìm ra sự thật về những gì xảy ra trong cơ thể khi tâm trí khỏe mạnh và lý do chúng ta lại bị bệnh khi tâm trí không khỏe. Tôi nhận ra tôi không cần phải yêu cầu thực hiện các xét nghiệm, kê đơn thuốc hay phẫu thuật để có thể phục vụ như một bác sĩ. Tôi thậm chí còn có thể giúp được nhiều người hơn bằng việc tìm ra cách thức giúp họ tự chữa lành bệnh cho chính mình.
Bước tiếp theo là đi sâu vào tìm hiểu y học hiện đại thông qua các nguồn tài liệu có sẵn. Tôi đã tìm thấy bằng chứng khoa học về việc bạn có thể tự chữa lành trong các tạp chí như Tạp chí Y học New England (New England Journal of Medicine) và Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ ( Journal of the American Medical Association). Những gì tìm được đã vĩnh viễn thay đổi cuộc đời tôi, và tôi hy vọng rằng nó cũng sẽ thay đổi cuộc đời bạn và những người thân yêu của bạn.
Cuốn sách này ghi lại hành trình khám phá của tôi và chia sẻ với bạn những dữ liệu khoa học tôi đã phát hiện ra. Những dữ liệu này đã thay đổi hoàn toàn quan điểm của tôi về cách thức mà việc trao và nhận nên được thực hành trong y khoa. Một khi đã đọc chúng, tôi biết tôi sẽ không bao giờ có thể bịt mắt lại thêm lần nào nữa.
Có dữ liệu khoa học để hỗ trợ cho những câu chuyện dường như thần kỳ về việc tự chữa lành đang lan truyền hay không? Bạn thử đoán xem. Có bằng chứng về việc bạn có thể điều chỉnh toàn bộ sinh lý cơ thể mình chỉ bằng cách thay đổi tâm trí. Cũng có bằng chứng rằng bạn có thể khiến mình bị bệnh khi tâm trí có những suy nghĩ không lành mạnh. Và đó không chỉ là thay đổi về tinh thần mà còn là thay đổi về sinh lý. Nó xảy ra như thế nào? Đừng lo lắng. Tôi sẽ giải thích chính xác cách những suy nghĩ và cảm xúc không lành mạnh chuyển thành bệnh, cũng như cách những suy nghĩ và cảm xúc lành mạnh giúp cơ thể tự chữa lành.
Còn nữa. Có bằng chứng cho thấy các bác sĩ có thể hỗ trợ cho sự phục hồi của bạn, phần lớn không phải do các phương pháp điều trị họ chỉ định mà chủ yếu là vì thẩm quyền bạn gán cho họ. Cũng có bằng chứng về một yếu tố đáng ngạc nhiên có thể có lợi cho sức khỏe còn hơn cả việc bỏ hút thuốc, một tác nhân bạn có thể cho là không liên quan gì đến sức khỏe lại có thể làm tăng tuổi thọ của bạn đến hơn bảy năm, chỉ riêng điều thú vị đó có thể làm giảm đáng kể số lần khám bác sĩ mà bạn cần, chỉ cần một thay đổi tích cực trong thái độ tinh thần có thể giúp bạn sống lâu thêm mười năm, chỉ riêng thói quen làm việc có thể làm tăng nguy cơ tử vong, và một hoạt động giải trí thú vị mà bạn có thể chưa bao giờ nghĩ là có liên quan đến cuộc sống lành mạnh có thể làm giảm đáng kể nguy cơ bị bệnh tim, đột quỵ và ung thư vú.
Đây chỉ là một vài trong số những sự thật có thể kiểm chứng về mặt khoa học đã thay đổi hoàn toàn cách nghĩ của tôi về y học mà tôi chia sẻ trong cuốn sách này.
Cuốn sách được chia làm ba phần. Trong Phần Một, tôi sẽ đưa ra lập luận rằng tâm trí có khả năng thay đổi sinh lý cơ thể thông qua sự kết hợp mạnh mẽ giữa niềm tin tích cực và sự nâng đỡ từ những người chăm sóc sức khỏe phù hợp. Trong Phần Hai, tôi sẽ chỉ cho bạn cách mà tâm trí có thể thay đổi sinh lý cơ thể từ những lựa chọn trong cuộc sống của bạn, bao gồm các mối quan hệ bạn chọn để nuôi dưỡng, đời sống tình dục, công việc bạn làm, lựa chọn tài chính của bạn, mức độ sáng tạo, lạc quan, bi quan, hạnh phúc của bạn và cách bạn sử dụng thời gian tiêu khiển của mình. Tôi cũng sẽ chỉ cho bạn một công cụ hữu ích mà bạn có thể sử dụng ở bất cứ đâu – một công cụ có thể cứu lấy cuộc đời bạn.
Tất cả những điều này sẽ chuẩn bị để bạn đến với Phần Ba, nơi tôi giới thiệu với bạn một mô hình chăm sóc sức khỏe hoàn toàn mới mà tôi đã tạo ra và hướng dẫn bạn đi qua sáu bước để tự chữa lành. Khi đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ có thể đưa ra được chẩn đoán của riêng mình, viết đơn thuốc cho chính mình và thiết kế một chương trình hành động rõ ràng để giúp cơ thể sẵn sàng cho các phép màu.
Xin hãy nhớ rằng những lời khuyên tôi đưa ra không chỉ dành riêng cho người bệnh mà cho cả những người khỏe mạnh quan tâm đến việc ngăn ngừa bệnh tật. Tôi không muốn bạn đợi đến khi cơ thể bắt đầu gào thét vì những căn bệnh đe dọa đến tính mạng. Thay vào đó, tôi muốn chỉ cho bạn cách lắng nghe những lời thì thầm từ cơ thể: Có những chuẩn mực trên con đường đến với sức khỏe tối ưu, giúp bạn tránh xa những gì làm cho mình dễ bị bệnh và hướng tới những gì đã được khoa học chứng minh là giúp cải thiện sức khỏe và tuổi thọ.
Những gì tôi sắp tiết lộ có thể làm bạn ngạc nhiên, thậm chí, có lẽ làm bạn sợ hãi. Nhưng xin hãy làm ơn, cho cơ thể bạn một ân huệ và khi đọc cuốn sách này, cố gắng đừng đưa ra phán xét, hãy cởi mở và sẵn sàng thay đổi cách bạn nghĩ về cơ thể và sức khỏe của mình. Những gì tôi sắp chia sẻ có thể thách thức những niềm tin cố hữu nơi bạn, đẩy bạn ra khỏi vùng an toàn và khiến bạn nghi ngờ rằng phải chăng tôi đã thêu dệt ra điều này. Nhưng tôi thề là không. Trong suốt cuốn sách này, tôi đã cố gắng tối đa để hỗ trợ cho những tuyên bố có vẻ hoang đường bằng các tham chiếu khoa học.
Thực ra, tôi đã viết cuốn sách này cho bạn, cho tất cả những ai đã từng bị bệnh, bất cứ ai đã từng yêu thương một người mắc bệnh và bất cứ ai muốn ngăn ngừa bệnh tật. Bạn là người mà tôi mong muốn giúp đỡ, bởi trong trái tim mình, tôi khao khát chấm dứt đau khổ và giúp bạn tối ưu hóa cơ hội để sống một cuộc sống lâu dài, tràn đầy sức sống và khỏe mạnh. Đó chính là sứ mệnh đã thôi thúc tôi đến với nghề y ngay từ ban đầu.
Khi đọc, tôi chỉ yêu cầu bạn ở lại với tôi. Hãy cho tôi một cơ hội để mở rộng tâm trí bạn theo cách mà tâm trí tôi đã được khai mở. Hãy để tôi giúp bạn chữa lành những suy nghĩ của mình để cơ thể bạn cũng có thể làm như vậy. Và cho phép bạn từ bỏ những quan niệm lỗi thời về sức khỏe và thuốc men. Tương lai của y học phụ thuộc vào chúng ta. Hãy đến, nắm lấy tay tôi. Chúng ta hãy cùng nhau khám phá.