Trên thế gian này, cái mê hoặc con người nhiều nhất chính là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng và địa vị. Có của cải rồi, bạn có thấy đủ với số của cải đó chăng? Có sắc đẹp rồi, bạn vừa lòng với sắc đẹp đó chứ? Có danh vọng và địa vị rồi, bạn đã an phận hay chưa? Có quyền thế rồi, bạn có không mong muốn được hơn thế nữa?
Con người chỉ cần có nhân cách, tu dưỡng thì chính là người biết “an bần lạc đạo” vậy. Chẳng hạn, thời Xuân Thu, Nhan Hồi chính là người có tư tưởng an bần lạc đạo: “Một giỏ cơm, một bầu nước là nỗi buồn lo vô bờ đối với người khác, nhưng không hề làm thay đổi niềm vui của Hồi”; Thời Chiến Quốc, Nhan Xúc cũng là một người có tính cách như thế, đối với ông: “Đi bộ cũng xem như là đi xe, khi đói thì ăn gì cũng cảm thấy ngon như ăn thịt”; Thời Tấn, Đào Uyên Minh cả một cuộc đời sống với phong thái: “Nơi rào đông hái cành hoa cúc, tâm an nhàn ngắm cảnh núi Nam”; Đến thời cận đại, Đại sư Hoằng Nhất được xem là bậc chân tu lấy nếp sống thanh bần làm vui: “Mặn có mùi vị của mặn, nhạt có mùi vị của nhạt”, không bao giờ chê bai mà còn hết sức vui vẻ khi ăn.
Thời Trung Hoa Dân Quốc, Uông Tinh Vệ không an phận với vị trí của mình, muốn dựa dẫm nhờ vả quân phiệt Nhật Bản, cuối cùng thân bại danh liệt, mang lại nỗi nhục cho đất nước; Ông ta bị như vậy cũng là bởi vì không biết đủ với những thứ mình đang có. Đảng của Trần Độc Tú, Cù Thu Bạch nhiều lần đấu tranh tư tưởng nhưng họ đều giữ chủ trương an bần lạc đạo, tránh xa quyền thế, không màng đến lợi hại được mất.
“Thanh bần! Thanh bần! Thanh bần! Năm ngoái thanh bần vẫn còn có đất cắm dùi; năm nay thanh bần thậm chí đất cắm dùi cũng không có”. Đối với các vị Thiền sư, an bần lạc đạo được hiểu là “bớt tham dục, phát tâm thêm; bớt đi một phần chiếm hữu, tăng thêm một phần từ bi”. Các vị ấy đối với mọi thứ vật chất thế gian đều có thể thụ hưởng, song không nhất thiết phải chiếm hữu chúng. Chẳng hạn, có vị Thiền sư, bản thân Ngài còn chưa biết ngày mai có gì để ăn hay không vẫn nói rằng: “Không sao cả, tôi có gió mát trăng thanh”; có vị thiền sư khác một mực từ chối lời mời xuống núi tham gia triều chính, mà xem những quả tùng trên núi là thức ăn, lấy việc hòa mình cùng với thiên nhiên làm thú vui. Có câu:
Hôm qua hẹn đến ngày nay gặp
Trước lúc lên đường lại nghĩ suy,
Làm Tăng chỉ thích ngồi trong núi
Yến tiệc cung đình chẳng màng chi.
Nếu không phải là người sống vui với nếp sống an yên thanh bần, thì cho dù là giới luật nghiêm khắc của nhà Phật cũng không thể nào giữ được chân họ.
Có một phú ông đến một hòn đảo nhỏ, nhìn thấy nông dân nơi ấy bèn hỏi: “Các vị ở đây làm gì?” Người nông dân đáp: “Đang trồng lúa”. Phú ông nói: “Trồng lúa có ý nghĩa gì đâu, vất vả lắm đấy!” Người nông dân hỏi ngược lại: “Thế ông đến đây để làm gì?” Phú ông nói: “Tôi đến đây để ngắm cảnh, cùng hòa mình với tự nhiên. Tôi bình thường bận kiếm tiền, chính là vì muốn sống một cuộc sống như vậy”. Người nông dân nói: “Mấy chục năm nay, cho dù không có tiền nhưng chúng tôi vẫn có thể sống những ngày tháng như ông mong muốn, ao ước đó thôi!”
Từ xưa đến nay, có bao nhiêu văn nhân nhã sĩ quay về với cuộc sống điền viên, đều vì muốn thực hành cuộc sống an bần lạc đạo; bao nhiêu cao quan hậu tước rốt cuộc từ quan về quê, cũng là vì không muốn mê mờ lương tâm, tranh đoạt quyền lợi; Họ trở về với dân gian, sống những ngày tháng vui với ruộng vườn. Xã hội ngày nay, vật chất có phần đầy đủ hơn, nhưng lòng người càng lúc càng trở nên trống rỗng; thậm chí có lúc quá đam mê vào sắc dục vật chất. Có rất nhiều người thường có suy nghĩ: “Cười kẻ nghèo không cười ả kỹ nữ”, dẫn đến đạo đức suy đồi, lòng người bất an. Do đó, nếu muốn khôi phục lại luân lý đạo đức, thì cần xây dựng tư tưởng thanh bần, từ đó mới có thể giúp con người bỏ mê tìm ngộ, trở lại với bản tính chân tâm của chính mình.