Cuối năm, trời đất chuẩn bị giao hoà làm cho lòng người xốn xang, rạo rực. Tâm trạng đó lại càng trỗi dậy khi tôi bước chân lên chuyến tàu đêm để hành trình vào Cam Ranh - mảnh đất chứa chan biết bao kỷ niệm nơi tôi một thời gắn bó. Đã mấy năm xa Cam Ranh do điều kiện công tác, hôm nay trở lại bán đảo, trong tôi cứ đan xen những cảm xúc khó tả. Vừa gần gũi, thân quen, vừa linh thiêng, sâu nặng. Cam Ranh đón tôi như người thân đi xa trở về. Với tôi và anh em, bà con trong dòng họ, Cam Ranh luôn là nơi ngóng trông, day dứt bởi đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, ông tôi đã anh dũng ngã xuống tại nhà tù Cam Ranh dưới những đòn tra tấn dã man của kẻ thù. Và đến hôm nay, khi Tổ quốc đã vang lên khúc khải hoàn, Đài tưởng niệm liệt sĩ nhà tù Cam Ranh hiên ngang đứng đó cùng bao chứng tích bi hùng giữa mênh mang đồi cát nhưng gia đình vẫn chưa tìm thấy phần mộ của ông. Ông và đồng đội - những người cộng sản kiên trung như những khúc tráng ca đã cùng tấu lên góp phần làm thành bản hùng ca bất tử của dân tộc Việt Nam.
Cam Ranh vẫn nắng. Cái nắng chói chang, gay gắt càng làm cho những nụ mai vàng đua nhau chúm chím để chuẩn bị khoe sắc trước xuân. Nắng hòa quyện với từng cơn gió nhẹ làm lăn tăn những gợn sóng biếc xanh trên vịnh. Biển vẫn hiền hoà như những đứa trẻ đang vô tư nô đùa. Nắng và gió Cam Ranh đã làm cho nơi đây trở thành một mảnh đất mang nhiều nét đặc thù rất riêng của xứ Trầm Hương, mảnh đất mang nhiều hơi thở và nhịp sống sôi động đang được khơi dậy với nhiều tiềm năng rộng lớn. Trở về bán đảo tôi rất vui khi được gặp lại những đồng đội thân yêu đang ngày đêm giữ biển, những con người đang chung lưng đấu cật góp phần tạo dựng Cam Ranh, tạo dựng nơi đây thành điểm tựa vững chắc cho quần đảo Trường Sa - một phần máu thịt thiêng liêng không thể tách rời của đất mẹ Việt Nam. Chính những người lính của Vùng 4 Hải quân cũng đã làm nên những nét đặc trưng rất riêng với màu da sạm nắng và gió biển, nụ cười hiền hậu, lạc quan, sống thuỷ chung, tình nghĩa. Nét riêng đó nằm trong cái đẹp chung của Quân chủng Hải quân, của những người lính “Bộ đội Cụ Hồ”.
Trải qua chặng đường dài xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, có biết bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ từ khắp mọi miền của Tổ quốc đã đem sức lực, trí tuệ và cả máu xương của mình để đóng góp, xây dựng và bảo vệ Trường Sa. Trong số đó có không ít người đã gắn bó tuổi thanh xuân của mình với mảnh đất Cam Ranh và coi đó là quê hương thứ hai của mình. “Đất lành chim đậu”, họ đã cùng nhau tạo dựng nên những tổ ấm nhỏ nhưng ngập tràn hạnh phúc, là những bến đậu bình yên sau những chuyến công tác xa nhà. Những người lính nơi đây đã xây đắp nên mối tình quân dân gắn bó, sâu nặng như chính người thân trong nhà.
Tôi luôn nhớ mãi hình ảnh những đồng đội, người yêu, người vợ bế con xuống cảng để chia tay chồng ra đảo nhận nhiệm vụ trong những ngày giáp Tết Nguyên đán. Tiếng còi tàu hú vang chào cảng rẽ sóng ra khơi, những ánh mắt bịn rịn, lưu luyến đan xen những giọt nước mắt chia tay của người đi người ở thật cảm động thiết tha nhưng trong đó chứa đựng biết bao tình yêu thương, sự đợi chờ và niềm tin tưởng vào người thân của mình sẽ luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ để trở về với đất liền. Đã là người yêu, là vợ của những người lính, hơn nữa là lính biển thì họ đều luôn biết hy sinh những tình cảm riêng tư để làm điểm tựa cho người thân của mình an tâm công tác bởi biển là cuộc sống, là hơi thở và chính biển đã nuôi dưỡng tình yêu cho những lứa đôi hạnh phúc.
Khi biết tin tôi chuẩn bị đi công tác tại đảo Nam Yết thì Thuỷ, cô nhân viên văn thư của Lữ đoàn 146 vội vàng chuẩn bị mấy thứ để nhờ tôi chuyển giúp ra cho chồng đang làm nhiệm vụ “ngoài đó”. Những lá thư chan chứa yêu thương, những tấm hình chụp vợ và đứa con bé bỏng, rồi nào là chè, bánh kẹo và cô không quên gửi cho chồng can cà muối cho anh cùng đồng đội ăn để phần nào vơi đi nỗi nhớ đất liền. Chỉ bấy nhiêu thôi nhưng cũng đủ nhận ra rằng tình yêu của những gia đình hải quân ở đây thật đẹp và có ý nghĩa biết chừng nào.
Biển như một bầu sữa mẹ đã ban cho chúng ta biết bao giá trị của cuộc sống nhưng chính biển cũng là nơi ẩn chứa những hiểm họa khôn lường. Ngoài nhiệm vụ thiêng liêng mà Đảng và nhân dân giao phó, khi có thiên tai, bão lũ, khó khăn xảy ra với nhân dân, những người lính Vùng 4 Hải quân lại sẵn sàng lên đường và kịp thời có mặt tại những nơi hiểm nguy nhất, cam go nhất để sát cánh cùng nhau cứu dân, giúp đỡ dân. Đó vừa là tình cảm, trách nhiệm, nghĩa vụ cao cả, là đạo lý “thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt Nam. Biết bao lần những người lính biển Vùng 4 Hải quân đã hăm hở lên đường, lên với bà con dân tộc thiểu số Rắk Lây để giúp họ làm thuỷ lợi, làm đường giao thông, đào giếng nước, làm nhà tình nghĩa, tặng quà gia đình chính sách có hoàn cảnh neo đơn, quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai... Đó chính là mệnh lệnh xuất phát từ chính trái tim người lính biển và qua đó càng làm sáng ngời thêm tình người trong những lúc khó khăn, hoạn nạn, càng làm cho sợi dây tình cảm quân dân ngày càng thêm gắn kết keo sơn.
Chiều nay, khi mặt trời sắp tắt nắng, đứng dưới Đài tưởng niệm Di tích nhà tù Cam Ranh, tôi chăm chú đọc những dòng chữ như tạc vào thời gian, in sâu vào lịch sử hào hùng của dân tộc: “Nơi đây năm 1952 đến năm 1954, thực dân Pháp đã giam giữ 6.000 chiến sĩ cách mạng và đã tra tấn, thủ tiêu hơn 100 đồng chí cán bộ, chiến sĩ đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc”. Trong khói hương bảng lảng, tôi như thấy ông tôi và đồng đội đang mỉm cười, nụ cười và nét mặt rạng rỡ của những người chiến thắng. Ông và đồng đội của mình cũng đã coi Cam Ranh như quê hương thứ hai bởi thịt xương của họ đã hòa tan vào gió cát Cam Ranh, để cho màu xanh của cây lá, của biển trời, của con người nơi đây luôn trào dâng sức sống và mãi mãi xanh tươi. Mỗi khi xa Cam Ranh tôi lại càng nhung nhớ vô cùng vì mảnh đất này luôn thấm đẫm tình người, tình đời. Cam Ranh như luôn nhắc nhở với tôi rằng “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau...”.