• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tận cùng của cô đơn
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 14
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 14
  • Sau

Thu hoạch(1997-1998)

T

rong ký ức của tôi, tôi thấy mình trong bữa tiệc đính hôn của chị gái. Thật không may, tôi không phải là người lịch lãm, quyến rũ, khiến mọi người xung quanh cười. Tôi cũng không phải là một gã trai đào hoa lắc lư đôi giày Air Jordans của mình theo nhịp điệu Charleston và tán tỉnh một sinh viên nào đó. Không: tôi chỉ là một thanh niên hai mươi bốn tuổi không thân thiện ngồi ở quầy rượu, kẻ rõ ràng đang không thoải mái khi đứng giữa tất cả những người xa lạ này, tôi xin lỗi. Khi tôi vắt kiệt nước của quả chanh cắt làm bốn vào món đồ uống của tôi, tôi đã nghĩ về những lễ kỷ niệm sinh nhật và những bữa tiệc thời thơ ấu của mình, khi tôi luôn là trung tâm của sự chú ý. Và tràn đầy năng lượng. Chính xác thì tôi đã mất tất cả những thứ đó khi nào? Tôi đã bỏ bằng luật và tôi cũng không thành công với tư cách là một nhiếp ảnh gia. Đúng như vậy, tôi nghĩ; bởi vì sự ghê tởm bản thân đã bùng cháy trong tôi từ rất lâu rồi.

Người đàn ông duy nhất trong phòng trông lạc lõng như tôi là chồng chưa cưới của Liz, Robert Schwan. Là một nghệ sĩ dương cầm nhạc Jazz thành công, nhưng Liz lại không thích nhạc Jazz. Nhìn chung, thật khó hiểu khi chị tôi lựa chọn anh ta. Điểm yếu của chị gái tôi chính là những người đàn ông đẹp trai, thú vị và chị ấy luôn giành lấy tất cả những gì chị ấy muốn với sự tham lam mà tôi vẫn thường ngưỡng mộ. Tuy nhiên, vị hôn phu của chị ấy lại là một người đàn ông xương xẩu, tóc đen, ở độ tuổi ngoài bốn mươi với đôi mắt gay gắt như Paul Auster và bộ ria mép ngớ ngẩn khiến anh ta trông khá gian xảo.

“Thật là buồn.” Giọng của một người đàn ông bên cạnh tôi vang lên. “Tôi chỉ nói chuyện với anh ta trong mười phút. Không biết cô ấy ưng điểm gì ở anh ta.”

Cùng có mặt trong buổi tiệc hôm ấy là anh trai tôi và bạn gái của anh ấy. Elena nhỏ nhắn, tóc đen, khá săn chắc, với đôi mắt quan sát nhìn thấu mọi thứ. Cô ấy ngượng ngùng ôm tôi và nhặt giúp tôi một chút lông tơ ra khỏi áo khoác.

Tôi lúng túng chào Marty. Lần cuối cùng tôi gặp anh ấy là tại đám tang của bác tôi, nơi chúng tôi chia tay trong bất hoà.

“Chúc mừng nhé, Tiến sĩ Moreau.” Tôi nói

“Không tệ, phải không? Chưa bao giờ anh nghĩ một ngày nào đó mình sẽ lấy được bằng tiến sĩ.” Nét cười tự phụ thoáng qua khuôn mặt của Marty. “Mặc dù thực ra, anh vẫn luôn nghĩ về điều đó.”

Chúng tôi quan sát chị gái tôi. Chị ấy hai mươi bảy tuổi; tối nay, chị ấy mặc một chiếc váy màu xanh lam, mái tóc vàng được búi lên và trên đôi giày cao gót của mình, chị ấy lướt qua tất cả mọi thứ và tất cả mọi người. Liz nhìn thấy được vẻ đẹp của mình phản chiếu trong đôi mắt của tất cả những người có mặt và cho phép tất cả họ yêu mình. Chị ấy có một bài phát biểu khoa trương và âu yếm hôn vị hôn phu của mình; rồi chị ấy vo ve như ong từ vị khách này sang vị khách khác, phát tán sự quyến rũ của mình ra mọi hướng. Chị ấy liên tục cười phá lên, và ngay cả tiếng cười của chị ấy cũng thật quyến rũ, như thể tất cả mọi điều mà chị tôi làm đều quyến rũ hết vậy. Tuy nhiên, điều đó khiến tôi luôn có cảm giác Liz đang thực hiện theo chỉ dẫn của một đạo diễn quay phim vô hình. Cười rạng rỡ lần nữa nào, hoàn hảo lắm, bây giờ bĩu môi một chút đi, liếc mắt đưa tình thật nhanh nào... Khi chị ấy hướng ánh nhìn về phía bạn, bạn sẽ có cảm giác chị ấy đang hướng toàn bộ sự chú ý vào bạn và thứ duy nhất bạn muốn làm là làm hài lòng chị ấy. Ngay cả tôi cũng vậy.

Và dường như đã bao lâu trôi qua rồi; đột nhiên, những ngày đó hiện về, những ngày tháng khi còn nhỏ, tôi lẻn vào phòng chị ấy vào ban đêm. Thường thì Liz đang đọc hoặc vẽ truyện tranh và để tôi chui vào chăn. Tôi luôn bị cuốn hút bởi đôi chân thật ấm áp của chị ấy; chúng dường như phát sáng. Thường thì chị ấy sẽ kể cho tôi nghe về những đứa con trai cùng lớp, đứa này ngọt ngào thế nào, đứa khác táo tợn ra sao. Tôi sẽ lắng nghe những giai điệu này đến nghẹt thở, và tự hào khi chị gái tâm sự tất cả những điều này với tôi. Tuy nhiên, đôi khi tôi chỉ nằm bên cạnh chị ấy trên giường trong khi chị ấy đọc sách và nghe nhạc. Tôi thấy yêu những khoảnh khắc đó. Phòng của bố mẹ tôi ở cuối hành lang, của Marty ở bên cạnh, mọi thứ thật an toàn và ấm cúng; tôi ôm lấy Liz trong khi chị ấy yên tĩnh lật giở những trang sách bên cạnh tôi, rồi chìm vào giấc ngủ…

Ký ức tiếp theo mang một màu sắc khác, u ám hơn.

Bốn tháng sau bữa tiệc đính hôn của chị gái, một cuộc điện thoại khủng khiếp khiến tôi mất ngủ. Không có thời gian để dừng lại và suy nghĩ. Tôi đang sống ở Hamburg, trong một căn phòng trọ tồi tàn gần cảng, và ngay lập tức tôi bắt một chuyến tàu đến Berlin để gặp Liz. Trái ngược với lần tôi đến thăm gần đấy nhất, căn hộ của chị ấy im lặng đến đáng sợ. Tuy nhiên, sự im lặng không bao giờ hợp với chị gái tôi. Ánh nắng ban mai chiếu mờ ảo qua các ô cửa sổ trong sảnh; trong nhà bếp, một núi sành sứ bẩn thỉu chất trong bồn rửa chén; tôi suýt vấp phải một cây đàn bị đập nát trên lối vào.

Phòng ngủ có mùi nhang và mùi nôn. Liz đang ngồi trên sàn, mắt nhắm hờ. Một vài người đang ở cùng chị ấy, rõ ràng là bạn của chị ấy, hầu hết trong số họ tôi đều không biết. Không có dấu hiệu gì về sự có mặt của chồng sắp cưới của chị ấy.

“Có chuyện gì với chị ấy vậy?”

Tôi quỳ xuống bên cạnh Liz. Chị ấy chỉ mặc một chiếc quần đùi và áo len, mắt thâm quầng. Chị ấy dường như không nhận ra tôi và lầm bầm điều gì đó về một bộ khuếch đại trong não có thể điều chỉnh thành phố.

Một trong những người bạn của chị ấy, một người phụ nữ mà tôi nhận ra là đã từng gặp trong tiệc đính hôn, nói: “Cô ấy suy sụp lắm. Cô ấy bán khỏa thân đứng ngoài đường và hét vào mặt mọi người.”

Tôi vén những lọn tóc ẩm ướt đang vương trên khuôn mặt của chị ấy. “Chị ấy đã dùng thứ gì vậy?”

“Không biết. Coke, Ecstasy, một vài loại thuốc giảm đau và mescaline - thứ gì đó tương tự thế.”

“Chồng sắp cưới của chị ấy đâu?”

“Cậu không biết sao? Robert đã chia tay với cô ấy từ lâu rồi.”

Trong giây lát, tôi không nói nên lời. Sau đó, tôi gọi đến văn phòng của Marty ở Vienna.

“Em có thể làm bất cứ điều gì nhưng đừng đưa chị ấy đến bệnh viện.” Anh ấy nói. “Anh sẽ nhờ một bác sĩ giúp, là một người bạn của anh, và anh sẽ đến ngay khi có thể.”

Đột nhiên, Liz vui vẻ trở lại. Chị ấy đưa tay về phía tôi và nói chuyện với tôi như thể tôi là một đứa trẻ.

“Ôi, em trai bé bỏng của chị, em đang làm gì ở đây vậy?”

Rồi chị ấy cười vào mặt tôi. Một tiếng cười chói tai, điên cuồng. Rồi chị ấy nhìn thẳng vào tôi. Nhưng cái nhìn ấy không phải là cái nhìn thân thương của một người chị gái; nó là cái nhìn cứng rắn, thích ý và kiêu ngạo vô hạn mà tất cả đàn ông và phụ nữ phải vật lộn để có được nó trong nhiều năm, cái nhìn chỉ Robert Schwan mới có thể chịu được. Chị ấy tiếp tục cười điên cuồng, và điều đó khiến tôi nổi da gà. Đôi mắt của Liz đen đặc khiến tôi không thể nhìn rõ được. Đôi mắt của ai đó đang rơi xuống, rơi xuống, rơi xuống.

Và chị ấy yêu cú rơi đó.

“Khi nào thì anh đến đây?” Tôi hỏi Marty.

“Anh sẽ bắt chuyến bay tiếp theo.” Giọng anh ấy nghe có vẻ khó chịu; tôi nghe thấy tiếng anh ấy chạy xuống bậc thềm và mở cửa. Như mọi khi, anh ấy đẩy tay cầm xuống vài lần. Tám tiếng lục lạc lớn. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi, em nghe anh nói không?”

Ngay sau đó, Liz ra hiệu cho tôi đến gần hơn để chị ấy có thể thì thầm vào tai tôi điều gì đó. Bây giờ chị ấy có vẻ phấn khích, giống như một đứa trẻ vừa nhớ ra điều gì đó quan trọng. Tôi nghiêng người, điện thoại vẫn cầm trên tay và khi tôi đến gần, chị gái tôi thì thầm: “Sdedikildit.”

“Cái gì hả chị?” Tôi hỏi.

“Nó chết rồi, chị đã giết nó.” Chị ấy lặp lại.

***

Vào mùa hè năm 1998, lần đầu tiên tôi trở lại Berdillac cùng với anh chị tôi kể từ khi còn thơ ấu. Đó là ý tưởng của Marty. Chúng tôi được thừa kế ngôi nhà từ bà nội và anh ấy đã sửa sang lại nó. Anh ấy nói anh ấy có thể làm việc từ Pháp; Elena sẽ bay sang cùng vài ngày sau đó. Chúng tôi nói về chuyện này như thể đó là một kỳ nghỉ mà chúng tôi đã lên kế hoạch từ lâu, nhưng lý do thực sự của chuyến đi là vì chúng tôi lo lắng cho Liz. Chị ấy vẫn chưa thực sự đứng vững trở lại sau lần phá thai và đổ vỡ trong chuyện tình cảm.

Ở Pháp, một cơn bão đang chờ đợi chúng tôi; cái gạt nước kính chắn gió quất qua lại. Anh trai tôi lái chiếc Mercedes dọc theo những con đường quê trong khi Liz ngủ. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và nhận ra rất nhiều thứ: những lâu đài quen thuộc đến lạ, những cánh đồng màu sắc tươi tắn. Tôi nghĩ đến những đồng bạc franc mà tôi từng chơi khi còn nhỏ. Bố tôi lái xe, còn mẹ tôi nghe băng cát-xét The Beatles của bà.

Ở Berdillac, mưa đã tạnh; không khí trong lành và mát mẻ dễ chịu. Marty ra ngoài trước và đi về phía cửa chính. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi đã nghĩ về bố: ông cũng giống như Marty vậy - mặc chiếc áo khoác da, miệng ngậm tẩu - luôn là người đầu tiên tiến về phía cửa. Trở lại đây sau ngần ấy năm cảm giác giống như lần đầu tiên được xem một cuốn phim đen trắng cũ kỹ. Nhìn bề ngoài, ngôi nhà cuối phố trông chẳng có gì thay đổi. Mặt trước phủ đầy cây thường xuân; ghế và bàn ăn ngoài trời đặt ở hiên đá trong vườn; mái ngói đỏ hoe bẩn thỉu, lớp sơn xanh đen vẫn bong tróc trước cửa nhà. Tuy nhiên ở bên trong thì không thể nhận ra nữa. Bức tường giữa nhà bếp và phòng khách đã bị phá bỏ. Một căn phòng lớn được bài trí ấm cúng với giá sách, ghế xô-pha góc, lò sưởi ở phía trước, lò nướng, bồn rửa và bàn ăn bằng gỗ ở phía sau.

“Ngôi nhà hiện đã được tu sửa hoàn hảo.” Marty chỉ cho chúng tôi xem một vòng. “Phòng tắm được tân trang lại hoàn toàn, các tầng trên được lát gạch mới và giấy dán tường gớm ghiếc đã bị lột bỏ. Những thứ duy nhất anh giữ lại là tủ kéo, bàn và tủ quần áo của ông nội.”

Anh ấy đi trước chúng tôi. Anh ấy và Toni là một trong những người đầu tiên đánh giá đúng tiềm năng của Internet. Công ty của họ đã tạo ra một trang web uy tín, nơi các nhà quản lý, luật sư, chủ ngân hàng, chính trị gia hoặc nhà báo có thể tạo hồ sơ và móc nối quan hệ với nhau. Công ty khởi nghiệp của họ đã phát triển nhanh chóng. Trên đường lái xe đến đây, Marty đã nói với chúng tôi rằng Microsoft muốn mua nó với số tiền bảy con số. Không tồi, tôi nghĩ; có lẽ tôi có thể vay anh mình một chút.

Vào bữa tối, cuộc trò chuyện không thực sự trôi chảy, và cuối cùng chúng tôi ngừng nói chuyện với nhau. Tôi nghĩ về những bữa ăn tối ồn ào, vui vẻ thời thơ ấu, khi anh chị tôi cãi nhau ỏm tỏi hoặc tất cả chúng tôi cùng cười về một điều gì đó đã xảy ra. Và bây giờ chúng tôi đang ở đây, ngồi vào bàn như ba diễn viên gặp lại nhau sau một thời gian dài, không tài nào nhớ được kịch bản của vở kịch nổi tiếng nhất của họ.

Rồi đến lúc tôi không thể chịu đựng được sự im lặng nữa. Tôi lấy một danh mục các bức ảnh ra khỏi túi xách. “Em đã gửi chúng đến một phòng trưng bày.” Nó là dự án mới của tôi: một loạt ảnh về Vẻ đẹp không khoa trương. Một bức ảnh chụp một thung lũng bị bao phủ bởi sương mù, một màn sương trắng dày đặc, chỉ có những ngọn cây màu đen ló ra; những bức khác chụp một ngôi nhà bằng gỗ, rêu mọc um tùm và bị bỏ hoang đến mục nát, hoặc một cậu bé vừa buộc dây giày và đang chạy theo bạn bè với vẻ mặt phấn khởi. Tôi đã nhấn nút chụp ngay trước khi cậu bé chạy được đến chỗ bạn.

Chị gái tôi chộp lấy những bức ảnh. “Chị thực sự thích chúng.” Chị ấy nói vậy; nhưng tôi không thể ngừng được cái cảm giác rằng chị ấy đã không xem đủ kỹ các bức ảnh để thấy được độ sâu và chi tiết của chúng.

Ngược lại, Marty đã xem chúng một cách cẩn thận. “Chúng không tệ chút nào. Em bắt chước phong cách của Salgado hay Cartier-Bresson khá tốt đấy…”

“Nhưng sao?” Tôi nói.

“Nhưng anh vẫn không biết em định kiếm sống bằng cách nào khi làm những việc này.”

Tôi không biết tôi hy vọng phản ứng của anh ấy sẽ như thế nào nhưng một câu “Anh tin em” sẽ rất tuyệt. Chị gái tôi thì không có vẻ gì là sẽ giúp đỡ được tôi cả. Tình hình tài chính của chị ấy cũng lận đận, mặc dù có ổn định hơn tôi. Đôi khi chị kiếm được tiền bằng việc làm người mẫu; đôi lúc chị ấy dạy ghita hoặc làm việc tại một công ty quảng cáo trong vài tháng.

“Anh sao vậy?” Tôi khẽ hỏi.

Marty thở dài. “Anh không có ý can thiệp vào cuộc sống của em, nhưng anh nghĩ em không nên từ bỏ tấm bằng đại học của mình.”

“Em ghét nó.” Tôi nói. “Nếu có một điều mà em cảm thấy hối tiếc thì đó chính là bắt đầu học đại học.”

“Nhưng nó sẽ mang lại cho em sự ổn định. Anh biết ban đầu không hề dễ dàng nhưng em phải kiên trì với những điều đó. Biết đâu về sau em lại thích nó.”

“Xin lỗi, nhưng làm sao anh biết được em thích gì? Anh hoàn toàn không biết gì về em cả nên xin anh, hãy ngừng diễn vai người bố đi.”

Tôi bực bội lấy lại những tấm ảnh. Tôi đã trò chuyện với Marty rất nhiều trong những năm gần đây và lần nào nó cũng khiến tôi cảm thấy mình giống như một thiếu niên nóng tính. Đặc biệt là khi anh trai tôi không bao giờ để tôi thoát khỏi vai trò này.

Đêm đó tôi không ngủ được. Tôi nhìn chằm chằm vào mặt trăng tròn một lúc, nó tỏa sáng như một ô cửa sổ tròn hoàn hảo trên bầu trời đen, rồi tôi đứng dậy và gõ cửa phòng chị tôi. Liz mở cửa, chị ấy đang mặc đồ ngủ. Trên giường của chị ấy là một cuốn sách trẻ em cũ mà chị ấy rõ ràng đã tìm thấy ở đây và một gói kẹo cao su rượu vang.

“Em vẫn còn giận à?” Chị ấy vừa nhai kẹo vừa hỏi. “Đừng lo xa như vậy chứ. Marty càng ngày càng giống bố. Lúc nào cũng quan trọng hoá vấn đề lên. Tuy nhiên, nó không phải là một kẻ thua cuộc. Nó chính là phiên bản của bố khi bố thành công đấy.”

Tôi gật đầu, nhưng thật đau lòng khi nghe chị ấy gọi bố là kẻ thua cuộc.

“Liệu em có thể thành công trong triển lãm Kunsthaus không?”

Tôi chỉ biết lắc đầu.

“Jules, chị có thể hỏi em vài điều không?” Liz nhìn tôi như một người mẹ. “Cho đến bây giờ em đã cố gắng trở thành một nhiếp ảnh gia bao lâu rồi - ba năm? Em làm tất cả những điều này là vì bố phải không? Bởi vì em cảm thấy tội lỗi?”

Tôi nhớ rõ rằng câu hỏi này đã khiến tôi rất bất an và có thể tôi đã lớn giọng khi trả lời chị ấy.

“Tại sao em phải cảm thấy tội lỗi? Em không nợ bố bất cứ điều gì. Em biết ông ấy rất thất vọng vì em không dùng máy ảnh trước khi ông ấy mất, nhưng em và bố đã làm hoà sau đó rồi.”

“Chị không có ý đó…”

“Em không chụp hình vì bố, em chụp vì nó khiến em thích thú. Chị cũng giống như Marty vậy.”

Tức tối, tôi quay đi chỗ khác. Trên tường là một bức vẽ được đóng khung; bức vẽ vẽ một người đàn ông với đôi cánh đại bàng bay trong không khí và phác họa đường nét của một lâu đài ở phía xa. Bên cạnh nó là một dòng chữ viết tay trẻ con: Ông ấy phải giải thoát nàng công chúa đang bị nhốt trong một tòa tháp tăm tối… Không thể tin được rằng bức vẽ này vẫn tồn tại! Nó được vẽ sau khi bố mẹ tôi qua đời vài tuần. Chúng tôi đã ở Pháp với bà của chúng tôi; đó là thời kỳ mà chúng tôi vẫn bí mật tin rằng bố mẹ sẽ bước qua cửa bất cứ lúc nào nhưng tất cả chỉ là một sự hiểu lầm lớn. Để cổ vũ tôi và Marty, Liz đã nghĩ ra một trò chơi có tên là Chi nhánh Ước mơ. Chị ấy là tổng biên tập và họa sĩ minh họa tận tâm của nó; chúng tôi đã cùng nhau nghĩ ra những giấc mơ vô lý hoặc đẹp đẽ mà sau đó chúng tôi đã vẽ và viết cả lời dẫn cho nó. Sau đó, chúng tôi sẽ đốt các trang giấy đi. Theo Liz, khói bay đi và những người khác sẽ hít chúng vào. Đêm đó, họ sẽ mơ những thứ mà chúng tôi đã nghĩ ra.

“Nếu chúng ta lớn lên ở Montpellier thì sao nhỉ?” Tôi hỏi Liz. “Em thường tưởng tượng chị sẽ như thế nào khi là một cô gái Pháp điển hình. Em nghĩ rằng nơi này sẽ phù hợp với chị. Chị sẽ hoàn thành việc học trung học ở đây và sau đó học lên cao nữa.”

“Và chị sẽ học gì chứ?”

“Chắc chắn là một cái gì đó liên quan đến nghệ thuật. Có thể là vẽ tranh, hoặc văn học. Hoặc chị sẽ trở thành một nhà giáo như mẹ, cũng có thể lắm chứ.”

Liz nhìn tôi chằm chằm. “Tiếp tục đi.” Chị ấy nói nhỏ.

“Chà, lúc nào chị cũng sẽ cầm một cuốn sách trong tay; chị thích đọc sách và vẽ tranh. Đôi khi mẹ sẽ giúp chị, nếu bà ấy vẫn còn sống; chị sẽ nấu cháo điện thoại rất nhiều. Sau khi học trung học xong, chị sẽ đi học đại học ở Paris. Chị đã có một vài người ngưỡng mộ, nhưng chị cứ nghĩ rất nhiều đến người yêu thời trung học của mình, một anh chàng tên là Jean hoặc Sébastien, người mà chị đã hẹn hò trong nhiều năm. Bạn trai đầu tiên của chị. Nhưng anh ấy đi du học nên hai người chia tay. Chị đã buồn, nhưng đó là một nỗi buồn đẹp đẽ, là thứ tốt đẹp duy nhất. Và bằng cách nào đó chị biết rằng chị sẽ gặp lại anh ấy vào một ngày nào đó. Anh ấy chỉ không ở đây lúc này thôi, anh ấy sẽ quay trở lại sau này, chị sẽ nói với chúng em như thế. Chị mặc đẹp giống như mẹ. Tất nhiên, chị sẽ tổ chức tiệc tùng vào cuối tuần, nhưng chị sẽ kiềm chế hơn nhiều so với ở Đức. Chị sẽ có một vài người bạn luôn chăm sóc chị chu đáo. Sau đó, vào những kỳ nghỉ, chị sẽ quay về Montpellier với chúng em, và em sẽ hỏi chị rằng ở trường đại học như thế nào, liệu có nhiều cô gái xinh đẹp không. Ngược lại, Marty sẽ nhận được học bổng đến Harvard, nơi anh ấy nghiên cứu sinh học, mổ xẻ bọ và ốc sên, và tất cả chúng ta sẽ trêu chọc anh ấy. Sau đó, ngay trước khi chị tốt nghiệp, chị sẽ… ồ, em không biết nữa, giúp em với...”

Tôi đã mỉm cười khi nói chuyện và nghĩ rằng điều đó cũng sẽ khiến Liz thích thú. Bấy giờ tôi nhìn chị ấy và nhận ra chị ấy đã rơm rớm nước mắt.

“Chị xin lỗi. Chị lại tiếp tục làm ra mấy cái khoảnh khắc ngớ ngẩn này.” Chị ấy lấy tay lau mặt. “Chị thậm chí còn không biết nó là con trai hay con gái. Nhưng dù nó là gì thì cũng không quan trọng. Chỉ chỉ thấy nhớ nó thôi.”

Tôi ngồi xuống bên cạnh chị ấy trên giường. “Chúng em ở đây là vì chị cơ mà. Tất cả những gì chị cần làm là nói cho chúng em biết chuyện gì đã xảy ra. Thậm chí, em còn không biết rằng anh chị đã chia tay.”

“Chị cảm thấy khó tin tưởng vào người khác.”

“Nhưng chị có thể tin tưởng những đứa em trai của chị mà.” Tôi nói và ngay lập tức tự hỏi liệu tuyên bố như vậy có chính đáng hay không.

“Chị có hối hận về chuyện đó không?”

Liz nhún vai. “Đôi khi có, đôi khi không.” Đột nhiên chị giống như một đứa trẻ mười tuổi. “Chị biết Robert không phải là người đàn ông phù hợp với chị. Chỉ là chị cứ nghĩ đến việc mẹ sẽ như thế nào khi trở thành bà ngoại. Chị ước gì chị có thể gọi điện cho bà ấy, bà ấy sẽ biết đâu là điều đúng đắn phải làm.”

Chị đi tới chiếc áo khoác đang treo trên ghế, lấy ra một điếu thuốc và châm lửa. Sau đó, chị ấy đột ngột vòng tay qua người tôi và trao cho tôi ba nụ hôn nhanh và quyết liệt vào má. Tôi vuốt tóc chị ấy, mùi khói quyện với hương mật ong của dầu gội đầu.

Tôi nhớ chồng chưa cưới của chị ấy hầu như không thốt ra một câu nào trong lần gặp cuối cùng của chúng tôi, thường thờ ơ nhìn chằm chằm vào khoảng không hoặc gõ gõ vào chiếc máy nhắn tin của anh ta. Chán vì sợ nhàm.

“Chị yêu anh ta vì điều gì?” Tôi hỏi. “Anh ta trông chẳng có gì cả.”

“Chị nghĩ đó lại là thứ chị thích đấy. Anh ta trống rỗng, rất đáng yêu và trống rỗng. Chị có thể biến anh ta thành bất cứ thứ gì mà chị thích. Và anh ta không có một lỗ hổng nào. Không gì có thể làm tổn thương anh ta. Điều đó khiến chị bị cuốn hút.”

***

Buổi sáng lung linh ảm đạm và xám xịt, nhưng dù sao thì chúng tôi cũng vẫn lái xe đến bờ biển. Liz mặc một bộ bikini màu đen và đeo kính râm. Chị ấy đang nằm trên bãi biển, đọc sách; mặt trời trắng sữa đã làm đỏ làn da của chị. Tôi chôn mấy ngón chân của mình xuống lớp cát và nhìn anh trai tôi bơi dưới vùng nước biển băng giá. Marty đang khua tay loạn xạ dưới nước; anh ấy có vẻ lo lắng, bồn chồn cả ngày. Sau đó, anh ấy nói với chúng tôi rằng anh ấy đã xét nghiệm máu nhiều lần trong năm và vẫn đang chờ kết quả của lần xét nghiệm cuối cùng.

Liz hỏi: “Tại sao em cứ đẩy mình vào mấy thứ phức tạp đến vậy?”

Anh ấy nhún vai.

“Đồ chó, em muốn sống mãi à?”1 Chị ấy khinh bỉ hỏi rồi miễn cưỡng xua tay. “Chị sẽ chết trẻ, nhưng chị không quan tâm đâu.” Sau những khó khăn trong vài tháng qua, đây chính xác là điều mà chúng tôi không muốn nghe.

1 Dogs, do you want to live forever: tên một cuốn sách của tác giả người Áo Fritz Wöss, một cựu chiến binh trong Thế chiến thứ hai.

“Không, chị sẽ không như vậy đâu.”

“Chị biết, chị biết điều đó.” Chị gái của chúng tôi căng tấm khăn tắm đầy khiêu khích và tự mình châm một điếu thuốc. “Chị sẽ chết trẻ thôi; đó sẽ là khoảnh khắc chị cuối cùng cũng tìm thấy được hạnh phúc. Rồi điều gì đó sẽ xảy ra, và đột nhiên chị sẽ chết.” Chị ấy lần lượt nhìn từng người chúng tôi. “Nhưng chuyện đó ổn mà. Chị đã đến khắp mọi nơi, chị đã thấy rất nhiều: sương sớm ở Manhattan, hay rừng rậm ở Ecuador; chị đã từng nhảy dù, chị đã có rất nhiều người yêu và một thời hoang dã, khó khăn, nhưng trước đó chị cũng đã là một người phụ nữ hạnh phúc, được che chở; và chị thực sự đã học được rất nhiều điều về cái chết. Chị chết trẻ hay không không quan trọng, bởi vì chị vẫn có thể nói rằng chị đã từng được sống.”

Marty chỉ lắc đầu. “Một người phải kiêu ngạo đến mức nào mới có thể nói ra những lời như vậy?”

“Một người phải thiếu tự tin mức nào mới có thể gọi đó là kiêu ngạo như vậy?”

Khi hai người họ tiếp tục tranh cãi, tôi đi dạo dọc theo bãi biển một mình. Liz đã đúng, tôi nghĩ. Chị yêu vô điều kiện, lãng phí bản thân vô điều kiện, thất bại vô điều kiện.

Còn tôi thì sao?

Một người bán kem đang tiến đến từ phía xa, đẩy xe hàng nhỏ phía trước mặt. Anh ta có một chiếc đài di động đang phát nhạc. Tôi hít một hơi thật sâu và cảm thấy không khí mặn mòi trong phổi. Trước mặt tôi là biển lấm tấm bạc. Anh bán kem đi ngang qua, và tôi nghe thấy bài hát đang phát.

Thật tuyệt vời, thật tuyệt vời, thật tuyệt vời, chúc con tôi may mắn

Thật tuyệt vời, thật tuyệt vời,

Ta đã mơ về con…

Vài năm gần đây, tôi nghĩ về Alva nhiều lần. Bỏ lỡ cô ấy và có ác cảm với cô ấy. Thức trắng vào ban đêm, nhắc nhở bản thân về cách cô ấy viết những lời bình luận nhỏ trong sách của tôi, hay luồn tay vào tóc tôi và cười rằng tôi có đôi tai nhỏ xíu…

Tôi chưa bao giờ có đủ dũng khí để giành lấy cô ấy mà chỉ có nỗi sợ hãi mất đi cô ấy.

Tôi đã không thừa nhận điều đó vào thời điểm đó, nhưng cuối cùng tất cả các mối quan hệ của tôi từ thời đi học đều thất bại vì tôi không thể quên được Alva. Tôi thường tự hỏi bản thân rằng cô ấy đang làm gì lúc này. Điện thoại di động vẫn là một thứ không phổ biến lúc đó, Internet vẫn còn sơ khai: hầu như không có dấu vết gì của cô ấy. Tại một thời điểm nào đó, tôi nghe nói rằng cô ấy đang sống ở Nga, nhưng tôi không biết chi tiết. Tôi chỉ cảm thấy rằng với cô ấy, mọi thứ sẽ khác. Những năm sau khi học trường nội trú, tôi đã học luật, một sai lầm không ai can ngăn; cuối cùng là động thái của tôi, không, là chuyến bay từ Munich đến Hamburg. Alva không còn xuất hiện trong bất kỳ bức ảnh nào trong số này, và không có cô ấy thì chẳng còn gì khác có thể cứu tôi khỏi cô đơn được nữa.

***

Sau một vài ngày, tôi đã thuyết phục được Marty đi chạy bộ cùng. Sáng nào chúng tôi cũng chạy qua làng, qua tháp nhà thờ và lên đồi, đến chỗ gốc cây khẳng khiu. Đó là điểm nghỉ chân của chúng tôi. Hài lòng, chúng tôi nghỉ ngơi trên chiếc ghế dài, nhìn xuống thung lũng và cánh đồng rộng ngập trong sương sớm mùa hè, sau đó chạy về ngôi nhà nơi chị gái chúng tôi và Elena, người vừa mới đến, đang ngồi trên sân thượng.

“Các cô gái ơi, chúng tôi đói rồi.” Chúng tôi nói với họ như thế khi chúng tôi đến gần hiên, thở hổn hển. “Phù, phù, các cô gái à, mang đồ ăn cho chúng tôi đi.”

Tôi đập ngực như một con khỉ đột và Marty tạo ra tiếng động của khỉ. Tôi nghĩ rằng anh ấy đã thực sự thích thú khi được làm điều ngốc nghếch một lần.

“Hai người nên chạy tiếp đi.” Liz nói. “Nếu em vẫn có thể nói chuyện như vậy thì tức là em chạy chưa đủ lâu đâu.”

Trước sự ngạc nhiên của tôi, hầu như lúc nào anh tôi cũng là người pha trò cho chúng tôi cười trong những bữa sáng sau đó trong vườn. Marty không thích tiểu thuyết, nhưng anh là một người say mê đọc tiểu sử và báo chí. Không phải là người có trực giác để thấu hiểu cuộc đời, anh ấy phải chăm chỉ nâng cao sự hiểu biết của mình bằng việc đọc. Tuy nhiên, anh ấy là một người kể chuyện giỏi: khi chúng tôi ăn, anh ấy thường kể lại một cách sống động về một cuộc triển lãm mới lạ, một nhà phục chế tranh ảnh bậc thầy từ Anh, hoặc một khám phá quan trọng trong lĩnh vực số nguyên tố.

Sau bữa sáng, anh ấy thường về phòng để làm việc trong vài giờ. Liz, người luôn phải làm việc gì đó, sẽ đi dạo, chơi cầu lông với tôi hoặc tự mình đi vào thị trấn. Tôi thích lấy một cuốn sách và ngồi với Elena trên sân thượng trong khi chị ấy làm luận văn tâm lý học. Chúng tôi hòa thuận với nhau, ngay cả khi không nói nhiều.

Cuộc cãi vã đến hoàn toàn bất ngờ.

Tối hôm đó, Elena đi đến Marseilles để gặp một người bạn đại học. Anh chị tôi và tôi đã đến thăm nghĩa trang nhỏ ở Berdillac. Trời tối và vắng vẻ, Liz đã thắp sáng hai ngọn nến. Ánh sáng lập loè chiếu sáng tên của ông bà và bác Eric của chúng tôi. Tôi nhìn chằm chằm vào các bia mộ. Ba người đã khuất này luôn là những người xa lạ đối với tôi. Bác Eric đã mất nhiều năm trước khi chúng tôi được sinh ra; lúc đó bác ấy chỉ mới hai mốt tuổi. Chúng tôi luôn mù mờ về hoàn cảnh ra đi của người bác ấy. Chúng tôi cũng không biết nhiều về ông nội của chúng tôi, một người thợ mộc. Chỉ có một lần duy nhất bác Helene nhắc đến chuyện ông ấy là người khá nóng tính, và có vẻ như ông đã uống say đến chết. “Ông mất sau bác Eric chỉ vài tháng.” Anh trai tôi nói, như thể anh ấy đoán được tôi đang nghĩ gì.

Tôi rất vui khi chúng tôi rời nghĩa trang một lần nữa.

Trở lại ngôi nhà, cảm giác thật nhẹ nhõm. Chúng tôi đã uống ba, bốn chai Corbières và kể cho nhau nghe những giai thoại về những ngày xưa cũ. Liz nói về những người bạn trai cũ của chị (Họ đều quá đẹp trai, giống như một món quà được bọc gói đẹp đẽ. Nhưng khi em mở nó ra, nó chẳng có gì ngoài một chiếc giày cũ kỹ.) và không biết từ lúc nào, cuộc trò chuyện chuyển sang xoay quanh người bạn qua thư người Na Uy của Marty, Gunnar Nordahl, người mà chúng tôi chưa bao giờ tin rằng anh ấy tồn tại.

“Vậy Gunnar có thực sự tồn tại không hay anh bịa ra đó?” Chúng tôi hỏi.

“Tất nhiên là có Gunnar rồi.” Anh ấy nói. Rồi anh nhìn chằm chằm vào ly rượu của mình. “Được rồi, không, không có nhé.” Anh lắc đầu. “Anh chỉ viết thư, trong nhiều năm, cho một người Na Uy nào đó mà anh tìm thấy địa chỉ trong danh bạ điện thoại. Anh thường tự hỏi liệu anh ấy đã bao giờ đọc chúng chưa.”

“Ôi Chúa ơi, chị biết rồi!” Liz hét lên. Marty đã bình tĩnh đón nhận nó, giống như một người cảm thấy, từ trong sâu thẳm, không ai có thể công kích được anh.

Sau đó, Liz mặc một chiếc váy ngắn màu vàng rồi diễu hành qua lại trước mặt chúng tôi. “Nhìn này, chị mua được cái này từ một cửa hàng cạnh trường đại học toàn những cô bé mười chín tuổi.” Chị ấy cười toe toét. “Chúng ta sẽ đi chơi và đoán xem chị sẽ mặc gì nào.”

“Em chắc chắn sẽ không ra ngoài nữa.” Marty bồn chồn đẩy đẩy cặp kính của mình. “Và em không có ý làm chị thất vọng, nhưng em e rằng chị không còn là cô gái ở tuổi mười chín nữa.”

“Ờ thì sao đâu? Em nói ai vậy?”

Chị ấy tạo dáng ngớ ngẩn trước mặt anh ấy cho đến khi anh ấy cười và phải nhượng bộ lái xe đưa chúng tôi vào thị trấn. Anh tôi để lại ly rượu cuối cùng, đầy ắp của anh ấy trên bàn; ngược lại, chị gái của chúng tôi nhanh chóng uống một hơi cạn sạch ly của chị ấy.

Ba chúng tôi đã nhảy cho đến rạng sáng trong một câu lạc bộ ở Montpellier, và điều duy nhất mà tôi còn nhớ về buổi hôm đó là Liz đã thoải mái như thế nào giữa những người lạ mặt trên sàn nhảy. Không chỉ bởi vì chị ấy quá tự tin mà còn là vì chị ấy luôn cảm thấy mình được chào đón ở bất cứ nơi nào chị ấy đến.

Đã bảy giờ sáng và tôi vừa chợp mắt thì nghe thấy tiếng nói chuyện vang lên bên dưới. Tôi đi về phía đầu cầu thang và thận trọng lén nhìn vào khu vực phòng khách. Liz đang đứng giữa phòng; Marty ngồi, hơi khom người, trên ghế xô-pha. Họ không để ý là tôi đang nhìn.

“Đúng, chị muốn biết điều đó.” Liz nói. “Em hành động như lão vua Babar chết tiệt và đóng giả như thể em là một người anh trai, người em trai có lòng, nhưng em đã ở đâu khi chúng tôi cần em nhất?”

“Em xin lỗi, nhưng nếu như có ai đó ở đây sống buông thả, đàng điếm thì người đó là chị đó, chị gái.” Marty bình tĩnh nói. “Và ai đó trong gia đình của chúng ta buộc phải kiếm được nhiều tiền.”

“Tiền là thứ duy nhất khiến em quan tâm hơn cả, phải không? Tỉ giá thị trường, trang bất động sản, cổng Internet của em, tất cả những thứ chết tiệt đó.”

“Đừng nói chuyện như một thanh niên ngỗ ngược nữa.” Marty nói. “Giọng điệu của chị nghe thật kinh khủng. Sự thật là những lúc em cần chị nhất, chị cũng đâu có ở bên em đâu. ”

“Khi nào chứ?”

“Khi bố mẹ qua đời. Chị đã bỏ rơi chúng em – chị chỉ quanh quẩn chơi bời với đám bạn bè của chị và chị không quan tâm đến chúng em nữa. Em không biết chị như thế nào, nhưng bọn em đã trải qua khoảng thời gian kinh hoàng khi đó, bọn em hầu như không có bạn bè, không có gì cả. Và chị muốn biết tại sao không? Bởi vì bọn em đã học cách không có bạn, bởi vì bọn em chỉ luôn cần có ba người chúng ta thôi. Và sau đó chị biến mất khỏi cuộc sống của bọn em, mặc dù chị đã hứa sẽ chăm sóc cho bọn em. Bây giờ chị có thể cho em biết lý do tại sao chị lại làm như vậy không, tại sao chỉ có chị được sai sót?”

Liz có vẻ đau đầu với câu hỏi đó. Chị lấy một quả đào từ giỏ trái cây trên bàn ăn và nghịch nó.

“Hồi đó chị vẫn còn trẻ con hơn em rất nhiều.” Chị nói. “Tất nhiên chị luôn nói chuyện về đám con trai và hành động như thể chị là một người chị trưởng thành. Nhưng thực sự chị chỉ muốn được làm một đứa trẻ mà thôi. Chị thích nói những điều vô nghĩa, ôm ấp mẹ, ngồi trong phòng hàng giờ để vẽ. Chị không muốn lớn lên, chắc chắn không nhanh như vậy. Và sau đó mọi thứ đã biến mất. Từ giây này sang giây khác. Jules còn quá trẻ để phải đối mặt với chuyện đó còn em là một đứa lập dị lúc nào cũng mặc đồ đen và quay lưng lại với mọi thứ trên đời, em có nhớ không?”

Marty nhún vai, miễn cưỡng thừa nhận chị ấy đúng.

Chị ấy nói: “Tất cả chúng ta đều bị tổn thương khi đó và tất cả chúng ta đều có cách phản ứng khác nhau. Chị chắc chắn rằng mọi thứ đều không thể yên bình trở lại được nữa, rằng tâm trí chị sẽ không bao giờ có cơ hội tĩnh lặng trở lại. Chị lao vào cuộc sống theo cách chị đã làm bởi vì bất cứ khi nào chị ngồi một mình trong phòng và suy nghĩ về mọi chuyện, chị chỉ muốn khóc đến cạn khô nước mắt thôi.”

“Nhưng tại sao chị lại bỏ rơi bọn em như vậy?”

“Nếu chị có thể chăm sóc cả hai em, chị sẽ làm. Nhưng chị không đủ sức. Em có biết lần đầu tiên của chị như thế nào không? Em có biết không?”

“Chị đã cùng với anh chàng lớn tuổi hơn đó và…”

“Không, đó là một lời nói dối. Em có biết lần đầu tiên của chị thực sự như thế nào không?”

Marty ngày càng trầm lặng hơn. “Không.”

“Chị thậm chí còn không biết tên anh ta.” Giọng Liz run rẩy. “Lúc đó chúng ta mới chuyển đến nhà nội trú được vài tuần. Mấy đứa con gái ở cùng tầng với chị thường xuyên trêu chọc chị - những con thú bông, những cuốn truyện tranh trẻ con và đống quần áo dễ thương của chị. Vì vậy, chị muốn chứng minh cho chúng thấy rằng chị mạnh mẽ, cứng rắn hơn chúng tưởng. Chị sẵn sàng đón nhận nhiều vết thương cho mình hơn bất kỳ cô gái nào khác. Đó là lý do tại sao chị là người duy nhất chấp nhận thử khi bọn chị được mời thử một thứ đồ lạ ở câu lạc bộ. Chị không biết nó là gì; chị hầu như không nhìn thấy hay cảm thấy bất cứ điều gì sau đó nữa. Và rồi thằng đó đi theo chị về. Nó ngoài hai mươi tuổi, có thứ gì đó lạnh lùng và rối rắm ở nó mà chị không tài nào hiểu nổi. Nó đột ngột kéo chị ra khỏi sàn nhảy, và khi bọn chị đã đi đủ xa, nó bắt đầu cởi quần dài. Chị không muốn, nhưng chị không đủ sức để chống lại. Mọi thứ trong đầu chị vẫn mông lung vì thuốc. Chị nghĩ về Munich, bố mẹ và hai đứa em. Đột nhiên tất cả mọi thứ trở nên xa vời với chị. Và trong lúc chị như thế, thằng kia vẫn tiến tới và làm tình với chị.”

Marty cắn môi và không nói gì cả.

“Đột nhiên chị trở thành con người mà chị không bao giờ muốn trở thành. Thời gian càng trôi, chị càng không thể quay lại với các em được nữa. Em không hiểu cảm giác nôn thốc nôn tháo trên sàn nhảy của một câu lạc bộ tỉnh lẻ vào lúc bảy giờ sáng là như thế nào đâu; em cũng sẽ không thể hiểu được cảm giác ngủ với ai đó khi em đang không tỉnh táo hay thức dậy bên cạnh người mà em mới gặp lần đầu vài giờ trước là như thế nào đâu. Em sẽ không bao giờ biết cảm giác đánh mất bản thân mình hoàn toàn là như thế nào. Em chỉ đắm chìm trong sách học và trò chơi máy tính, còn Jules thì đắm chìm trong thế giới ước mơ của nó. Có quá nhiều điều ngăn cách chúng ta. Đến bây giờ vẫn thế.”

Cả hai đều nhìn chằm chằm xuống sàn nhà và im lặng. Khung cảnh giống như một bàn cờ vua chỉ còn sót lại hai quân cờ đối lập không thể tấn công nhau, như hai quân Tượng trên hai ô trái màu.

“Nếu chúng ta làm cùng nhau thì sao?” Tôi hỏi vọng xuống từ cầu thang.

Họ nhìn lên, nhưng không quá ngạc nhiên khi thấy tôi.

“Chị nói đúng.” Tôi nói với Liz. “Bọn em không biết gì về những thứ chị biết. Chị đã có những trải nghiệm mà bọn em chưa có. Ma tuý chẳng hạn. Chị đã thấy và cảm nhận được những điều mà Marty và em thậm chí không thể tưởng tượng được. Ví dụ, chị thường nói với em rằng LSD1 đáng kinh ngạc như thế nào. Vậy tại sao chúng ta không trải nghiệm cùng nhau? Sau đó, ít nhất chúng ta sẽ có thể cùng trò chuyện với nhau về nó.”

1 Một loại thuốc gây ảo giác.

Liz cân nhắc, rồi lắc đầu. “Em không dùng ma túy, em không dùng gì cả...“

“Chị thấy đó,” tôi ngắt lời. “Đó chính xác là ý em. Em không giống chị là điều chị định nói, phải không? Bọn em không thể như vậy, nếu chị không cho phép. Thực tế là chúng ta hầu như không còn điểm chung nào nữa. Chúng ta đã không như thế trong nhiều năm. Thế cuối cùng chị có để cho bọn em là một phần trong của cuộc sống của chị không?”

Liz nghĩ về chuyện đó. “Ngay cả khi chị làm vậy, chúng ta lấy đâu ra axit chứ?”

“Đó không phải là vấn đề.” Marty nói, khá ngạc nhiên. “Em có thể sắp xếp; em quen biết đủ loại người, ở đây cũng thế. Câu hỏi đặt ra duy nhất là chuyện này có thể đi xa đến mức nào.”

Chúng tôi đã thảo luận về những cái được và mất rồi quyết định sẽ không thực hiện chuyến phiêu lưu này cho đến khi Elena trở lại và có thể chăm sóc cho chúng tôi. Khi cô ấy nghe về kế hoạch của chúng tôi, cô ấy không thực sự hài lòng nhưng cuối cùng vẫn để cho bản thân bị thuyết phục.

Ba ngày sau, một chiếc xe tải màu xám dừng bên ngoài nhà chúng tôi. Marty thân thiện trò chuyện với người lái xe và quay lại với một chiếc túi ni-lông. Ngay sau đó, ba người chúng tôi ngồi cạnh nhau trên ghế xô-pha và cầm những mảnh giấy sáng màu trên tay. Liz giải thích rằng chúng tôi chỉ cần nuốt chúng là xong. Tôi nhìn chằm chằm vào thứ trên tay tôi. Nó có màu xanh nhạt và không có mùi vị gì.

Chúng tôi đã đợi khá lâu để nó có hiệu lực. Marty đã lấy cuốn Le Figaro và đọc. Liz ngả người ra sau và nhắm mắt lại. Tôi nhìn Elena, người đang ngồi đối diện chúng tôi, cô ấy nhìn lại. Sau đó, tôi nuốt nước bọt; và trong giây lát, hương vị cũ kỹ của tuổi trẻ tràn vào khoang miệng tôi: một hỗn hợp của khói, thức ăn ở căng- tin, bia rẻ tiền, và khoảnh khắc khi Alva nắm tay tôi. Tôi uống một cốc nước và dư âm xa xăm trên lưỡi tôi biến mất.

Anh trai tôi dường như là người tiếp theo nhận thấy điều gì đó. Anh nhìn chằm chằm, say mê vào tờ báo, thì thầm rằng các chữ cái đang chạy vào nhau, rồi đến chỗ Elena và gục đầu vào lòng cô ấy.

Vào lúc đó, một làn sóng ký ức tràn qua tôi; giống như có ai đó đang lướt qua cuộc đời tôi vậy. Quay lại một vài chương, đến đám tang của bác chúng tôi. Bác ấy đã mất vì một cơn đột quỵ vào năm trước đó, từ giã cõi đời. Trên đường đưa bác đến nơi an táng, Marty có vẻ không chú tâm, gần như vô cảm, mặc dù anh ấy rất yêu bác của chúng tôi. Anh ấy lái xe đến nghĩa trang trong im lặng trong khi tôi và Liz nói về việc Định mệnh đã phản bội chúng tôi một lần nữa.

“Rác rưởi!” Marty đột ngột nói. “Không có định mệnh gì hết, Chúa cũng thế. Chẳng có những thứ như thế trên đời này đâu, chỉ có con người chúng ta, ai cũng giống như ai mà thôi. Thế nên, thật vô lý khi cứ phải vật lộn với nó. Cái chết là một thống kê, và nó dường như đang chống lại chúng ta vào lúc này. Nhưng một ngày nào đó, khi tất cả mọi người xung quanh chúng ta, kể cả chúng ta, đều chết, nó sẽ cân bằng trở lại, chỉ thế thôi.” Tuy nhiên, nửa giờ sau, tại đám tang, khi chúng tôi ngồi nhìn chằm chằm vào quan tài của bác, anh trai tôi - trước sự ngạc nhiên của tôi - đã khóc trong cay đắng. Tiếng nức nở của anh thật đau lòng: mọi người trong nhà nguyện đều quay đầu nhìn Marty khi anh dựa vào vai Liz và để chị ấy ôm anh.

Sau đó, tâm trí tôi lộn lại những ký ức xa xăm hơn, tôi thấy mình khi còn là một đứa trẻ, đang đứng trong phòng khách và nghe bác tôi nói rằng bố mẹ tôi đã chết. Marty đang đứng bên cạnh tôi, xanh xao và bất động, nhưng có lẽ anh ấy đã đi xa ngàn dặm khỏi đó rồi. Từng lời của bác dần dần bắt đầu tác động khủng khiếp đến tôi; chúng thẩm thấu khắp nơi, tràn xuống mặt đất dường như đang trở nên không bằng phẳng, tràn vào mắt tôi, khiến tầm nhìn của tôi mờ ảo, rồi chúng tràn lên chân tôi, khiến tôi quay như guồng tơ khắp phòng. Sau đó, làn sóng kích nổ cũng đến với Liz, khi chị ấy bước vào cửa của căn hộ, nhìn thấy tôi và ngay lập tức khiếp sợ. “Có chuyện gì thế?” Chị ấy hỏi; nhưng tôi không thể nói với chị ấy, và tôi cũng không muốn, như thể điều đó có thể bảo vệ chị ấy khỏi sự thật này.

“Chị cũng đang nhìn thấy điều tương tự.” Liz thì thầm bên cạnh tôi. Ít nhất, tôi nghĩ chị ấy đã làm thế.

Tôi muốn nói với chị ấy rằng mọi thứ đã trở nên khác biệt như thế nào, tôi đã trở nên khác biệt như thế nào, nhưng tôi không thể. Tim tôi đập nhanh hơn, những hình ảnh tràn ngập tâm trí tôi. Bố tôi ném cho tôi một quả bóng. Liz bỏ túi một quân cờ Barricade nhỏ màu trắng, xem nó như một lá bùa may mắn. Mẹ tôi gọi tôi là ốc sên nhỏ và đọc to những câu chuyện cho tôi nghe. Tôi đang rây bột cho món “Bánh không thể cưỡng lại” của bà ấy. Tất cả trộn lẫn lại, tất cả đều thật gần, thật đẹp, thật nhanh, đến mức tôi khó có thể chịu đựng được.

Tôi hít vào thật sâu, thở ra thật sâu, hít vào thật sâu, thở ra thật sâu.

“Nhiều quá rồi!” Tôi liên tục nói. “Em không thể chịu đựng thêm được nữa. Làm ơn dừng lại đi.”

Liz nắm lấy tay tôi. “Hãy thư giãn đi.” Chị ấy nói. “Tất cả đều sẽ ổn thôi.”

Những giọt nước mắt chảy dài trên má, những gam màu trong phòng bừng lên thứ ánh sáng rực rỡ, tôi còn có thể nhìn thấy từng vết lõm li ti trên tay. Hơi thở của tôi dồn dập, lồng ngực tôi như thắt lại. Sau đó trong tích tắc, mọi thứ đều bung ra và tôi có thể thở bình thường trở lại. Sự nhẹ nhõm khiến tôi bật cười. Tôi liên tục liếc nhìn Elena, người đang theo dõi tôi, giữ cho toàn bộ căn phòng được kiểm soát bằng sự bình tĩnh của mình.

“Bây giờ thì chị đã biết bức tranh mà chị muốn vẽ khi chị mười hai tuổi là gì rồi.” Liz dựa vào tôi. “Chị đã lãng quên nó trong những năm qua, nhưng bây giờ nó quay trở lại với chị rồi. Chị sẽ vẽ bốn con chó chơi bóng trên bãi biển như con người. Chúng có những cái tên ngộ nghĩnh và mặc những bộ quần áo cũ.”

Tôi gật đầu, rất vui khi được gần chị ấy.

Giờ thì tất cả mọi thứ đều đang hiện lên rõ mồn một khi ý thức của tôi thoát ra khỏi dây neo của nó và du hành ngược thời gian.

Tôi đã… đột nhiên tôi là Marty, khi còn nhỏ, đang chế tạo một chiếc ô tô đồ chơi chạy bằng xăng. Sự chính xác tuyệt vời khi các bộ phận riêng lẻ được nối liền với nhau; khoảnh khắc vui sướng khi động cơ khởi động và trong tích tắc, công nghệ bên dưới thân xe trở nên có ý nghĩa.

Tôi là Liz, đang vẽ một thứ gì đó với màu sắc tươi sáng trên một tờ giấy, rồi đột nhiên chính tôi lại trở thành người tạo ra những sinh vật sống và thật đáng kinh ngạc khi tôi đánh mất bản thân mình trong đó. Trong đầu tôi hiện lên những hình ảnh rạng rỡ khác, nhiều đến mức đôi lúc tôi thấy đau lòng. Tôi không thể kể hay cho ai xem nên thỉnh thoảng tôi phải quay cuồng chạy loạn khắp phòng để giải phóng nguồn năng lượng này và rũ bỏ nó đi.

Tôi là mẹ của tôi, nhìn các con của mình chơi đùa và lớn lên. Tôi hy vọng tôi sẽ giữ chúng bên mình lâu hơn một chút. Và tôi hài lòng khi tôi chấp nhận từ bỏ tự do của mình để đổi lấy cuộc sống này, mặc dù đôi lúc tôi thực lòng nhớ nó.

Và tôi là bố tôi, đang lái xe đi làm, mong muốn được quay lại ngay bây giờ và lái xe về nhà với gia đình hơn tất cả, nhưng cũng như nhiều người khác, tôi không thể làm được điều đó. Tôi tự hỏi bản thân mình kể từ khi nào thì mọi thứ bắt đầu trở nên sai trái hay liệu có phải chúng chưa bao giờ đúng ngay từ khi bắt đầu không. Và tôi nghĩ về việc ngay trước khi chết, tôi đã tặng cho cậu con trai nhỏ Jules một chiếc máy ảnh cũ vào dịp Giáng Sinh mà nó không dùng đến. Bởi vì chuyện này mà chúng tôi đã có cuộc cãi vã cuối cùng và...

“Con nhớ.” Tôi nói. Hình ảnh của bố tôi hiện lên sắc nét trước mặt tôi, tẩu thuốc trong tay, mặt chán nản, nhìn tôi với sự ngạc nhiên tột cùng. Tội lỗi của tôi. Tội lỗi đáng nguyền rủa của tôi.

“Trời ơi, giờ con nhớ ra hết rồi.”

Mắt tôi vẫn nhắm nghiền. Bây giờ tôi là chính mình, chạy ngang qua đồng cỏ, nhìn thấy những mảng màu xanh tươi đến lạ. Mũi tôi tràn ngập mùi thơm của cỏ khô, nhựa cây và rêu ẩm; các giác quan của tôi đang được lấp đầy. Trời đang mưa và tôi tiến đến một khu rừng, ướt sũng người. Trong vòng vài giây, ngày biến thành đêm. Đột nhiên trời tối sầm và lạnh cóng, tôi cảm thấy nguy hiểm đang rình rập quanh đây. Tôi phải đi xuyên qua những bụi rậm không thể xuyên thủng. Những nhánh cây đen sắc nhọn đâm thủng da tôi, tôi đang chảy máu.

“Có gì đó không ổn.” Tôi nói. “Có gì đó rất không ổn. Chuyện này sẽ không dừng lại.”

Tôi có thể cảm thấy ai đó đang lay mình, nhưng tôi vẫn nhắm chặt mắt, tiếp tục chạy. Tôi biết khu rừng này. Tôi đã không bỏ nó từ khi còn nhỏ. Nó trở thành nhà của tôi. Và nếu tôi không cẩn thận, khu rừng này là nơi tôi sẽ chết.

Tôi lao vào bên trong và nhìn thấy một hình ảnh rõ ràng trước mắt: cuộc sống của chúng tôi, thời điểm cha mẹ chúng tôi qua đời, đang đến gần một tập hợp điểm, chuyển sang con đường sai lầm; kể từ đó, chúng tôi bước vào một cuộc sống khác - một cuộc sống sai lầm. Lỗi hệ thống không thể sửa chữa.

Trên đường vào bên trong, tôi vấp ngã và đâm mình vào một cành cây nằm trên mặt đất. Cành đâm vào tim tôi. Tôi chảy máu chết tại chỗ; mọi thứ xung quanh trở nên ấm áp và tươi sáng, cảm giác này vừa dễ chịu lại vừa là cảm giác trống trải nhất mà tôi từng có, bởi vì tôi phải buông bỏ mọi thứ và mất đi tất cả…

***

Mắt tôi mở trừng trừng, mồ hôi ướt đẫm.

“Tôi không muốn chết.” Tôi khóc. “TÔI KHÔNG MUỐN CHẾT!”

Để chào tạm biệt bản thân mình. Tất cả suy nghĩ, hy vọng và ký ức của bạn phải bị xoá bỏ. Một tấm màn đen vĩnh hằng.

Tôi cuộn mình trên sàn và khóc. “Tôi không muốn chết.” Tôi tiếp tục lầm bầm. Liz nằm xuống bên cạnh tôi; Marty và Elena nắm tay tôi. Tôi cảm nhận được sự gần gũi của những người khác và cảm giác ấm cúng khi ở trong nhà của chúng tôi. Nhưng tất cả dường như rất xa vời, bởi vì tôi đang ở trong sâu thẳm bản thân mình và điều duy nhất tồn tại ở đó chỉ là nỗi sợ lạnh lùng.

***

Vào ngày cuối cùng của kỳ nghỉ, tôi ngồi trên bãi biển với anh trai mình. Trời mát mẻ và làn gió tươi mát thổi qua mái tóc của chúng tôi. Một chiếc thuyền đánh cá trôi dạt vào gần bờ, vẽ đường viền của nó trên mặt nước.

“Này.” Marty nói.

“Vâng?”

“Anh xin lỗi vì thời gian mà chúng ta ở bên nhau quá ít.” Anh ấy tháo kính ra, dùng ngón cái và ngón trỏ véo sống mũi thật mạnh. “Có lẽ anh đã không phải là một người anh tốt trong những năm qua.”

“Anh là một người thông minh.”

“Đúng, có lẽ vậy.”

“Một thằng thông minh nhưng tồi tệ.”

“Cảm ơn, anh đã nhận được tin nhắn.”

Chúng tôi nhìn nhau. Anh trai tôi vỗ vai tôi, và tôi nghĩ anh ấy bỗng trẻ hẳn ra. “Anh sẽ bù đắp cho nó.”

Chiều hôm đó, trong khi các anh chị của tôi đang xếp đồ chuẩn bị cho chuyến hành trình trở về, Elena và tôi đã đi dạo một vòng quanh làng lần cuối.

“Chứng rối loạn vận động của Marty thế nào rồi ạ?” Tôi hỏi. “Khóa cửa năm lần, đẩy tay cầm xuống liên tục theo một khuôn mẫu bí mật nào đó, không giẫm lên những vết nứt trên đá lát… Tất cả đã biến đi đâu mất rồi?”

Elena cụp mắt xuống. “Nó ngày càng trở nên tồi tệ hơn.” Cô nói. “Cuối cùng, anh ấy đã đi kiểm tra ung thư năm lần một năm và anh ấy không thể sử dụng thang cuốn hoặc thang máy vì anh ấy nghĩ rằng chúng mang lại vận rủi.”

“Xin lỗi, gì cơ ạ?”

Elena không thể nhịn được cười. “Đúng thế đó, thang cuốn và thang máy là quỷ dữ. Ban đầu, anh ấy đã giữ bí mật tất cả chuyện này với chị; anh ấy thậm chí còn nói đùa về nó nếu chị nhận ra điều gì. Nhưng đã đến thời điểm mà những cơn đau chi phối toàn bộ cuộc đời anh ấy. Anh ấy đã tham gia trị liệu được vài tháng rồi.”

Chúng tôi đang đi đến gần ngôi nhà. Từ xa, tôi có thể thấy Marty đã chuẩn bị khởi hành, đang huýt sáo một giai điệu từ bài Carmen như trước kia anh vẫn làm.

“Vậy bây giờ anh ấy đã khỏi chưa?” Tôi hỏi.

“Chị ước gì anh ấy khỏi. Chị nghĩ đã tốt hơn nhiều rồi, nhưng đôi khi chị có cảm giác chứng rối loạn vận động vẫn ở đó và anh ấy chỉ giỏi giấu giếm hơn thôi. Chị cố gắng theo dõi anh ấy để phát hiện ra điều gì, nhưng chị vẫn chưa làm được.”

Khi bước vào vườn, tôi gật đầu chào anh trai. Tuổi thơ khốn khó giống như kẻ thù vô hình, tôi nghĩ vậy. Bạn không bao giờ biết khi nào nó sẽ tấn công.