Khi Horace đi vào cánh cổng nhà cô Reba và tiếp cận cái cửa mắt cáo, một người nào đó gọi tên anh phía sau lưng. Đang là buổi tối, những ô cửa sổ trên bức tường tróc vảy, dầm mưa dãi nắng đang đóng kín, xám xịt. Anh dừng bước và ngoái lại. Ở một góc phố liền kề, cái đầu của Snopes nhô ra, như một con gà tây. Ông ta bước tới, nhìn lên căn nhà, rồi rảo bước. Ông ta đi dọc theo hàng rào và bước vào cổng với vẻ cảnh giác.
“Ái chà, luật sư”, ông ta nói. “Những cậu bé sẽ luôn là những cậu bé, không phải sao?”
“Bây giờ thì là chuyện gì?”, Horace hỏi. “Ông muốn gì ở tôi?”
“Này, này, luật sư. Tôi sẽ không kể chuyện này ở nhà đâu. Bỏ hết ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí của anh đi. Nếu đấng nam nhi chúng ta bắt đầu kể lể những gì chúng ta biết, sẽ không ai trong chúng ta có thể xuống khỏi chuyến tàu hỏa ở Jefferson một lần nữa, phải không nào?”
“Ông cũng biết rằng tôi đang làm gì ở đây. Ông muốn gì ở tôi?”
“Chắc chắn, chắc chắn mà”, Snopes nói. Tôi biết một anh chàng kết hôn và không hiểu được vợ của anh ta đang ở đâu, sẽ cảm thấy thế nào mà.” Ông ta nháy mắt với Horace. “Thoải mái đi. Tôi cũng hiểu mà. Chỉ là tôi ghét phải thấy một người tốt...” Horace tiếp tục đi về phía cửa. “Luật sư”, Snopes khẽ gọi. Horace quay lại. “Đừng ở lại.”
“Đừng ở lại?”
“Gặp cô ta rồi rời đi luôn. Đó là chỗ cho những thằng ngu dễ bị lừa. Chỗ cho những anh chàng nông dân... Tôi sẽ đợi ở ngoài này và chỉ cho anh một chỗ...” Horace tiếp tục đi và bước vào cái cửa mắt cáo. Hai tiếng sau, khi anh đang ngồi nói chuyện với cô Reba tại phòng cô ta trong khi bên ngoài cánh cửa, tiếng bước chân và thi thoảng những giọng nói vọng đến trôi đi trong cái hành lang và trên những bậc cầu thang, Minnie đi vào với một mảnh giấy nham nhở và đưa nó cho Horace.
“Cái gì đó?”, cô Reba hỏi.
“Cái ông mặt bánh nướng to phồng hung tợn đó gửi nó cho ông này”, Minnie nói. “Ông ta bảo ông đi xuống dưới đó.”
“Cô có để cho ông ta vào không?”, cô Reba hỏi.
“Không. Ông ta không muốn vào trong.”
“Anh có biết ông ta không?”, cô ta hỏi Horace.
“Có. Tôi dường như không có cách nào thoát khỏi ông ta”, Horace nói. Anh mở mảnh giấy. Nó được xé từ một tờ thông cáo phát tay, trên đó có một địa chỉ được viết bằng bút chì với nét chữ nắn nót, uyển chuyển.
“Ông ta xuất hiện ở đây chừng hai tuần nay”, cô Reba nói. “Vào đây tìm hai cậu trai và ngồi lì ở phòng ăn, thư giãn và sờ mông mấy đứa con gái, nhưng ông ta có tiêu một xu hay không thì tôi không biết. Ông ta có bao giờ gọi đồ gì không, Minnie?”
“Không”, Minnie nói.
“Và một, hai đêm sau ông ta lại tới. Không bỏ ra lấy một đồng, không làm gì cả và chỉ nói nên tôi bảo ông ta: ‘Này ông, những người sử dụng phòng đợi này bây giờ hoặc chút nữa đều sẽ say mèm cả đấy’. Thế là lần sau ông ta mang theo nửa lít whiskey. Tôi không quan tâm đến chuyện đó, nếu là một khách sộp. Nhưng khi một thằng cha như ông ta đến đây ba lần, cấu véo mấy cô gái của tôi, mang theo nửa lít whiskey và gọi bốn lon Coca… Chỉ là một gã rẻ tiền, thô bỉ. Vì thế tôi bảo Minnie không để cho ông ta vào đây bất kỳ lần nào nữa và rồi một buổi chiều tôi đang ngả lưng định chợp mắt thì… Tôi không biết ông ta đã dùng cách gì với Minnie để lọt vào đây. Tôi biết ông ta chẳng bao giờ cho Minnie thứ gì cả. Làm sao mà ông ta làm được chuyện đó, Minnie? Hẳn là ông ta đã cho cô xem thứ cô chưa bao giờ nhìn thấy. Đúng không?”
Minnie lắc đầu. “Ông ta chẳng có cái gì khiến tôi muốn xem cả. Tôi đã làm việc rất cực nhọc để mong đời mình khá hơn.” Chồng Minnie đã bỏ cô ta. Anh chàng không chấp nhận công việc của Minnie. Anh ta là đầu bếp của một nhà hàng và đã lấy tất cả quần áo cùng nữ trang mà những phụ nữ da trắng từng cho Minnie rồi bỏ đi với một cô tiếp viên trong nhà hàng đó.
“Ông ta cứ hỏi và gợi ý bóng gió về cô gái đó”, cô Reba nói, “và tôi bảo ông ta đi mà hỏi Popeye nếu ông ta nóng lòng muốn biết đến thế. Tôi chẳng nói gì với ông ta ngoại trừ đi đi và ra ngoài, anh thấy đấy, ngày hôm nay vào khoảng hai giờ chiều, khi tôi đang ngủ, Minnie đã để cho ông ta vào. Ông ta hỏi ai đang ở đây và cô ta đã trả lời rằng không có ai cả, rồi ông ta đi lên lầu. Minnie nói đúng lúc ấy Popeye đi vào. Cô ta nói cô ta không biết phải làm gì lúc đó. Cô ta sợ không dám để cho Popeye vào trong, vì cô ta biết nếu để Popeye vào thì cậu ta sẽ bắn tan xác gã đàn ông chó đẻ béo phị kia ra khắp sàn tầng trên và tôi sẽ đuổi cô ta ra khỏi đây trong khi chồng cô ta vừa bỏ rơi cô ta.
Thế là Popeye đi lên lầu một cách rón rén như một con mèo và tới gần chỗ bạn anh, nhòm trộm qua cái lỗ khóa. Minnie nói Popeye đứng sau lưng ông ta chừng một phút. Cậu ta lấy ra một điếu thuốc lá, đánh một que diêm lên móng tay cái mà không gây chút tiếng động nào và châm điếu thuốc, sau đó Popeye tới gần và để que diêm ngay phía sau gáy của bạn anh. Minnie nói cô ta đứng ở lưng chừng cầu thang và quan sát bọn họ: tên đàn ông đó quỳ ở đấy với bản mặt giống như cái bánh nướng bị lấy ra khỏi lò quá sớm, Popeye phun khói qua lỗ mũi và hằm hằm nhìn ông ta. Rồi cô ta đi xuống và độ mười giây sau, ông ta xuống cầu thang với hai bàn tay trên đỉnh đầu, đi ầm ầm nghiêng ngả giống như một trong những chiếc xe ngựa chở hàng lớn và cào cào cánh cửa khoảng một phút. Minnie nói ông ta rên rỉ như gió trong một ống khói, cho đến khi cô ta mở cửa và để ông ta ra ngoài. Đó là lần cuối ông ta nhấn chuông nhà này cho đến tối nay… Đưa tôi xem cái đó.” Horace đưa cho cô ta mảnh giấy. “Đó là nhà thổ của tụi mọi đen”, cô ta nói. “Đồ chấy rận… Minnie, bảo ông ta là bạn của ông ta không có ở đây. Bảo ông ta là tôi không biết anh ấy đi đâu.”
Minnie đi ra ngoài. Cô Reba nói: “Tôi đã từng tiếp đủ loại đàn ông trong nhà mình, nhưng tôi biết vị trí của mình là ở đâu. Tôi quen cả những tay luật sư. Một tay luật sư lớn nhất ở Memphis đang ở phía sau kia, trong phòng ăn tối của tôi, đang chiêu đãi mấy cô gái. Một tay triệu phú. Ông ta nặng hai trăm tám mươi cân Anh và tự đặt làm cho mình một cái giường đặc biệt rồi gửi đến đây. Lúc này nó đang nằm trên lầu. Nhưng trên hết là cung cách làm ăn của tôi, không phải của họ. Tôi sẽ không để cho bất cứ cô gái nào của tôi bị quấy rầy bởi những gã luật sư không có lý do chính đáng.”
“Cô không xem đây là lý do chính đáng? Tính mạng của một người đàn ông đang bị đe dọa vì một việc mà ông ta không làm. Cô có thể bị kết tội ngay bây giờ về việc chứa chấp và che giấu một kẻ trốn tránh công lý.”
“Vậy thì hãy để họ đến bắt cậu ta. Tôi chẳng liên quan gì đến việc đó. Tôi có quá nhiều cảnh sát trong nhà này nên không việc gì phải sợ bọn họ.” Cô ta đưa cái cốc vại lên uống và chùi miệng bằng mu bàn tay. “Tôi không dính dáng tới việc mà tôi không biết. Những gì Popeye làm bên ngoài là việc của cậu ta. Khi nào cậu ta bắt đầu giết người trong nhà của tôi, khi ấy tôi sẽ nhúng tay vào.”
“Cô có con không?” Cô ta nhìn anh. “Tôi không có ý soi mói vào những mối quan hệ của cô”, anh nói. “Tôi chỉ đang nghĩ về người phụ nữ đó. Cô ấy sẽ lại phải ra đứng đường và chỉ có Thượng đế mới biết đứa bé đó sẽ trở thành cái gì.”
“Có”, cô Reba nói. “Tôi có bốn đứa, hiện đang ở quê nhà Arkansaw. Tuy nhiên, không phải là con của tôi.” Cô ta nâng cái cốc vại lên và nhìn vào trong đó, nhẹ nhàng lắc lư nó. Cô ta lại đặt nó xuống. “Tốt hơn là không một đứa nào trong bọn chúng ra đời.” Cô ta đứng lên và di chuyển nặng nề đến chỗ Horace, thở hổn hển phía trên đầu anh. Cô ta đặt tay lên đầu Horace và nâng mặt anh lên. “Anh không lừa dối tôi chứ, phải không?”, cô ta nói, đôi mắt sắc bén, chăm chú và buồn bã. “Không, anh không nói dối.” Cô ta bỏ tay ra khỏi mặt anh. “Chờ ở đây một phút. Tôi sẽ xem xét xem sao.” Cô ta đi ra ngoài. Anh nghe tiếng cô ta nói chuyện với Minnie trong hành lang, rồi tiếng cô ta khó nhọc đi lên những bậc thang.
Anh ngồi lặng im như lúc cô ta rời khỏi. Căn phòng có một chiếc giường gỗ, một bức bình phong có họa tiết, ba cái ghế bọc nệm, một két sắt gắn liền vào hốc tường. Bàn trang điểm bừa bãi với những vật dụng buộc bằng những cái nơ bằng sa tanh màu hồng. Trên mặt lò sưởi có một bông hoa loa kèn bằng sáp bên dưới một cái chuông thủy tinh, bên trên đó, phủ nhiễu đen, là bức hình của một người đàn ông trông hiền lành với bộ ria mép rậm rạp. Trên tường treo vài bức tranh bằng đá về những thắng cảnh của Hy Lạp và một bức tranh bằng đăng ten. Horace đứng lên và đi đến cửa. Minnie ngồi trên một cái ghế trong hành lang lờ mờ.
“Minnie”, anh nói. “Tôi phải uống một cái gì đó. Cho tôi một vại lớn.”
Anh vừa mới uống xong thì Minnie bước vào. “Cô ấy bảo anh đi lên trên đó”, cô ta nói.
Anh đi lên cầu thang. Cô Reba đang chờ ở tầng trên cùng. Cô ta mở một cánh cửa đi vào một căn phòng tối om. “Anh phải nói chuyện với cô ấy trong bóng tối”, cô ta nói. “Cô ấy sẽ không cho bật đèn đâu.” Ánh đèn từ hành lang hắt qua cánh cửa và vắt ngang giường. “Đây không phải phòng cô ấy”, cô Reba nói. “Cô ấy thậm chí không muốn gặp anh trong phòng của mình. Tôi nghĩ rằng anh nên chiều theo ý cô ấy cho đến khi anh tìm hiểu được điều anh muốn biết.” Họ đi vào. Ánh đèn hắt ngang qua giường, chiếu lên hình dáng ai đó đang nằm cong cong bất động dưới tấm chăn. Cô ấy sẽ ngạt thở mất, Horace nghĩ. “Cưng à”, cô Reba nói. Thân hình ấy không hề động đậy. “Anh ta đây này. Vì em trùm kín hết rồi, hãy để chị bật đèn nhé. Rồi chúng ta có thể đóng cửa.” Cô ta bật đèn lên.
“Cô ấy sẽ ngạt thở mất”, Horace nói.
“Cô ấy sẽ chui ra trong vòng một phút thôi”, cô Reba nói. “Tiếp tục đi. Nói cho cô ấy biết anh muốn gì. Tôi nên ở lại đây. Nhưng đừng quan tâm đến tôi. Tôi không thể tồn tại trong công việc làm ăn này nếu không học cách trở nên câm điếc từ bao lâu nay. Và nếu có bất kỳ sự tò mò nào, tôi đã bào mòn nó từ lâu trong căn nhà này rồi. Ghế đây.” Cô ta xoay người, nhưng Horace đã nhanh tay hơn và kéo ra hai cái ghế. Anh ngồi xuống bên cạnh giường và hướng vào khối chăn bất động, anh nói:
“Tôi chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Cô sẽ không phải cam kết gì cả. Tôi biết rằng cô không làm chuyện đó. Tôi hứa rằng cô sẽ không phải làm chứng trong phiên tòa trừ phi họ muốn treo cổ ông ta mà không cần điều đó. Tôi biết cảm giác của cô là như thế nào. Tôi sẽ không làm phiền đến cô nếu mạng sống của người đàn ông đó không bị đe dọa.”
Khối chăn không hề lay động.
“Họ sẽ treo cổ ông ta vì một tội ác mà ông ta không hề gây ra”, cô Reba nói. “Và người đàn bà đó sẽ không còn gì cả, ngay cả người thân. Em thì có những viên kim cương, còn cô ta chỉ có đứa bé tội nghiệp đó. Em đã thấy nó rồi, đúng không cưng?”
Khối chăn vẫn không hề lay động.
“Tôi biết cảm giác của cô là như thế nào”, Horace nói. “Cô có thể dùng một cái tên khác, hóa trang và đeo kính để không ai nhận ra cô.”
“Họ sẽ không bắt Popeye, cưng à”, cô Reba nói. “Cậu ta tinh ranh như thế. Em không biết tên cậu ta, tuyệt nhiên không, và nếu em phải đi làm chứng trong phiên tòa, chị sẽ gửi lời nhắn đến cậu ta sau khi em rời đi và cậu ta sẽ đến một nơi nào đó rồi liên lạc với em. Em và cậu ta không muốn ở Memphis này. Luật sư sẽ bảo vệ em và em sẽ không phải nói bất cứ điều gì mà em…” Khối chăn bắt đầu chuyển động. Temple hất tấm chăn ra và ngồi dậy. Mái tóc bù xù. Hơi thở dồn dập, hai má phớt hồng và miệng cô tạo thành hình cánh cung của thần ái tình. Cô nhìn chằm chằm Horace một lát với vẻ phản đối, rồi nhìn đi chỗ khác.
“Tôi muốn một ly rượu”, cô vừa nói vừa kéo vai áo ngủ lên.
“Nằm xuống”, cô Reba nói. “Em sẽ bị cảm lạnh đó.”
“Tôi muốn một ly rượu nữa”, Temple nói.
“Nằm xuống và đắp chăn lên tận cổ em đi”, cô Reba vừa nói vừa đứng lên. “Em đã uống ba ly kể từ bữa tối rồi còn gì.”
Temple lại kéo áo ngủ lên lần nữa. Cô nhìn Horace. “Vậy anh cho tôi một ly rượu đi.”
“Thôi nào, cưng”, cô Reba nói, cố đẩy cô nằm xuống. “Nằm xuống, đắp chăn lại và kể cho anh ấy nghe chuyện đó. Chị sẽ lấy cho em một ly rượu trong vòng một phút nữa.”
“Hãy để tôi yên”, Temple nói, lăn lộn để vùng ra. Cô Reba kéo mấy tấm chăn lên vai cô gái. “Vậy cho tôi một điếu thuốc đi. Anh có thuốc không?”, cô hỏi Horace.
“Chị sẽ lấy thuốc cho em trong vòng một phút”, cô Reba nói. “Em sẽ làm những gì anh ta muốn em làm chứ?”
“Cái gì?”, Temple nói. Cô nhìn chằm chằm Horace với vẻ gây chiến.
“Cô không cần phải nói với tôi hắn ta đang ở đâu”, Horace nói.
“Đừng nghĩ là tôi sợ không dám kể”, Temple nói. “Tôi sẽ nói ở bất cứ đâu. Đừng nghĩ là tôi sợ. Tôi chỉ muốn một ly rượu.”
“Em hãy nói với anh ấy rồi chị sẽ lấy rượu cho em”, cô Reba nói.
Ngồi dậy trên giường, khoác tấm chăn trên vai, Temple kể cho anh nghe về cái đêm cô ở trong căn nhà đổ nát, từ lúc cô đi vào căn phòng và cố chặn cánh cửa bằng chiếc ghế, cho đến khi người phụ nữ đến bên giường và dẫn cô đi ra. Đó dường như là phần duy nhất của toàn bộ câu chuyện đêm hôm đó đã để lại chút ấn tượng với cô: cái đêm cô đã trải qua trong sự sợ hãi, lo lắng bản thân sẽ bị xâm phạm. Thi thoảng Horace cố gắng lái cô đến gần hơn vụ án mạng, nhưng cô lờ đi và quay lại với việc mình đang ngồi trên giường, lắng nghe tiếng của những người đàn ông ngoài hiên, hoặc đang nằm trong bóng tối những khi họ vào phòng, đến bên giường và đứng phía trên cô.
“Vâng, điều đó”, cô gái nói, “đã xảy ra. Tôi không biết. Tôi đã sợ hãi lâu đến nỗi tôi nghĩ rằng mình chỉ vừa mới được sinh ra. Vì vậy tôi chỉ ngồi đó, trên vỏ hạt bông và quan sát anh ta. Lúc đầu tôi cứ nghĩ đó là một con chuột. Ở đó có hai con. Một con đang ở trong một cái góc, nhìn tôi và con kia trong một cái góc khác. Tôi không biết chúng sống bằng gì, bởi vì ở đấy chẳng có bất cứ thứ gì ngoài những lõi ngô và vỏ hạt bông. Có lẽ chúng vào nhà để kiếm thức ăn. Nhưng trong nhà chẳng có con chuột nào cả. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng chuột trong nhà. Tôi nghĩ có thể đó là một con chuột khi tôi nghe thấy tiếng của chúng lúc đầu, nhưng anh có thể cảm nhận được có người trong một căn phòng tối: anh biết điều đó chứ? Anh không cần phải nhìn thấy họ. Anh có thể cảm thấy họ như lúc anh đang ở trong một chiếc ô tô khi họ bắt đầu tìm chỗ để xuống xe…” Cô tiếp tục như thế, trong một bản độc thoại phù phiếm mà những người phụ nữ có thể thao thao bất tuyệt khi họ nhận ra rằng họ đang ở trung tâm của sân khấu. Đột nhiên Horace nhận thức rằng cô đang thuật lại những trải nghiệm với lòng tự hào thực sự, một sự kiêu hãnh ngây thơ, như thể cô đang dựng chuyện, cô hết nhìn anh lại nhìn cô Reba với những cái liếc mắt sắc cạnh, nhanh như tên bắn hệt như một con chó đang chăn hai con gia súc trên con đường nhỏ.
“Vì thế bất cứ khi nào thở, tôi lại nghe thấy những tiếng gớm ghiếc đó. Tôi không hiểu sao người ta lại có thể ngủ được trên một cái giường như thế. Nhưng có lẽ anh sẽ quen dần với nó. Hoặc có thể họ quá mệt mỏi nên chỉ cần một cái giường để ngủ. Tôi nghe thấy bọn họ đang uống say trên cái hiên. Tôi bắt đầu nghĩ mình có thể biết được đầu họ tựa vào chỗ nào ở bức vách đằng sau lưng và tôi nói: Bây giờ tên này đang uống rượu từ cái bình. Bây giờ tên kia đang uống. Như một mớ hỗn độn trên giường sau khi anh thức dậy, anh hiểu không?
Rồi tôi phải nghĩ đến một chuyện buồn cười. Anh sẽ biết phải làm gì khi sợ hãi. Tôi nhìn vào hai chân và cố ra vẻ mình là một thằng con trai. Tôi nghĩ giá mà mình là một thằng con trai và rồi cố gắng biến mình thành con trai bằng ý nghĩ. Anh biết anh làm được những việc như thế bằng cách nào... Tôi đã nghĩ về những gì họ kể cho trẻ con, về chuyện hôn khuỷu tay* và tôi đã cố thử. Tôi đã thực sự làm thế. Tôi đã rất sợ hãi, và tự hỏi liệu tôi có thể nói được khi điều đó xảy ra hay không. Ý tôi là, trước khi điều đó xảy ra, tôi sẽ đi ra ngoài và chỉ cho bọn họ thấy… anh biết đấy. Tôi sẽ bật một que diêm và nói: Nhìn đây. Thấy không? Giờ thì hãy để tôi yên. Và rồi tôi có thể đi ngủ. Tôi nghĩ khi đó tôi có thể lên giường và đi ngủ, bởi vì tôi buồn ngủ. Tôi buồn ngủ đến nỗi hầu như không thể điều khiển nổi hai mắt mở ra.
* Truyền thuyết cho rằng khi bạn hôn khuỷu tay mình, bạn có thể thay đổi giới tính.
Vì vậy tôi nhắm nghiền mắt và nói ‘Bây giờ tôi là con trai’. Bây giờ tôi là con trai. Tôi nhìn vào hai cẳng chân mình và nghĩ về chuyện tôi đã đối xử với chúng như thế nào. Tôi đã nghĩ tới biết bao cuộc khiêu vũ mà tôi đã tham dự, tôi đã hành hạ chúng… Thật là điên rồ. Và bây giờ chúng đưa tôi vào trong hoàn cảnh này. Cho nên tôi nghĩ về chuyện cầu nguyện để biến thành một thằng con trai, tôi cầu nguyện và rồi ngồi hết sức yên lặng, chờ đợi. Sau đó, tôi nghĩ có lẽ mình không thể nói được gì nếu chuyện đó xảy ra và tôi đã sẵn sàng để nhìn. Rồi tôi nghĩ có lẽ hãy còn quá sớm để nhìn, nếu nhìn quá sớm tôi có thể làm hỏng mọi chuyện và nó sẽ không xảy ra, chắc chắn thế. Vì vậy tôi đếm. Ban đầu, tôi nói trước hết phải đếm đến năm mươi, rồi tôi nghĩ vẫn còn quá sớm, phải đếm thêm năm mươi nữa. Sau đó, tôi lại nghĩ nếu tôi không nhìn đúng lúc, có thể sẽ quá muộn.
Rồi tôi nghĩ đến chuyện tự buộc chặt mình lại bằng cách nào đó. Có một cô gái từng ra nước ngoài nghỉ hè đã kể tôi nghe về một loại đai sắt trong một viện bảo tàng được một ông vua hay gì gì đó dùng để khóa hoàng hậu lại khi ông ta phải đi xa và tôi nghĩ giá mà tôi có cái đó. Đó là lý do tôi lấy cái áo mưa và mặc nó. Cái bi đông treo kế bên nó, tôi lấy luôn cả nó và để nó trong…”
“Bi đông?”, Horace nói. “Tại sao cô làm vậy?”
“Tôi không biết tại sao mình lại lấy nó. Tôi sợ không dám để nó lại đó, tôi cho là vậy. Nhưng tôi đã nghĩ giá mà tôi có cái vật của Pháp đó. Tôi đã nghĩ có lẽ nó phải có những cái đinh dài nhọn hoắt, anh ta sẽ không biết điều đó cho đến khi quá muộn và tôi sẽ thọc mạnh nó vào anh ta. Tôi sẽ thọc mạnh hết cỡ và nghĩ về chuyện máu chảy lên người tôi và tôi sẽ nói: Tôi nghĩ cái đó sẽ cho anh một bài học! Tôi nghĩ bây giờ anh sẽ để tôi yên! Tôi sẽ nói vậy. Tôi không biết sự việc lại diễn biến theo một cách khác… Tôi muốn một ly rượu.”
“Chị sẽ lấy cho em sau một phút nữa”, cô Reba nói. “Tiếp tục kể cho anh ấy đi.”
“Ồ, vâng, đây là một chuyện buồn cười khác mà tôi đã làm.” Cô kể về chuyện nằm với Gowan đang ngáy bên cạnh trong bóng tối, lắng nghe tiếng cọt kẹt than vãn của cái giường và nghe thấy tiếng của tất cả những chuyển động trong bóng đêm, cảm thấy Popeye đang đến gần. Cô có thể nghe thấy máu mình chuyển động trong những tĩnh mạch, những cơ thịt bé nhỏ ở khóe mắt đang nứt rạn một cách yếu ớt và chiếc mũi hết lạnh rồi lại nóng. Rồi anh ta đứng phía trên đầu giường và cô nói: Nào. Chạm vào tôi đi. Chạm vào tôi đi! Anh là một tên hèn nhát nếu không làm thế. Hèn nhát! Hèn nhát!
“Lúc đó tôi muốn ngủ, anh hiểu đó. Mà anh ta cứ đứng đấy. Tôi đã nghĩ nếu anh ta tiến tới và làm cho xong chuyện, tôi có thể đi ngủ. Vì vậy tôi nói: Anh là một tên hèn nhát nếu không làm thế! Anh là một tên hèn nhát nếu không làm thế! Tôi có thể cảm thấy miệng mình đang gào lên và cái viên tròn tròn bé nhỏ nóng hổi đó bên trong anh ta cũng đang gào thét. Rồi nó chạm vào tôi, bàn tay nhỏ bé lạnh ngắt bẩn thỉu đó, nghịch ngợm vớ vẩn bên trong cái áo mưa nơi tôi đang trần truồng. Nó lạnh như nước đá và da tôi bắt đầu nhảy khỏi nó giống như những con cá chuồn bé xíu bơi đằng trước một con tàu. Như thể da tôi biết bàn tay đó sẽ đi đường nào trước khi nó bắt đầu chuyển động, da tôi cứ tiếp tục bật nảy mạnh ngay phía trước nó mỗi khi nó lại gần.
Rồi bàn tay ấy đưa xuống phía bụng, tôi chưa ăn gì từ bữa tối hôm trước, ruột tôi bắt đầu sôi ùng ục và tiếng cọt kẹt của cái giường bắt đầu phát ra liên hồi đến nỗi giống như nó đang cười nhạo. Tôi đã nghĩ rằng nó cười nhạo tôi bởi vì lúc đó bàn tay anh ta đang đi vào bên trong cái quần lót và tôi vẫn chưa biến thành một thằng con trai.
Đó là một chuyện thật buồn cười, bởi vì khi đó tôi không thở. Tôi đã không thở một lúc lâu. Vì vậy tôi nghĩ mình đã chết. Rồi tôi làm một chuyện rất buồn cười. Tôi có thể thấy chính mình trong cái quan tài. Tôi trông khá là dễ thương… anh biết đấy: mặc toàn màu trắng. Tôi đeo mạng che mặt như một cô dâu và đang khóc bởi tôi đã chết hoặc trông xinh xắn hay đại loại thế. Không: Tôi khóc bởi vì âm thanh cọt kẹt từ chiếc quan tài tôi đang nằm, lúc đó tôi có thể cảm thấy mũi mình hết lạnh lại nóng và hết nóng lại lạnh, tôi có thể nhìn thấy tất cả mọi người đang ngồi xung quanh quan tài và nói: Nhìn cô ta mà không xinh ư? Dễ thương đấy chứ!
Nhưng tôi cứ tiếp tục nói: Đồ hèn nhát! Đồ hèn nhát! Chạm vào tôi đi, đồ hèn nhát! Tôi nổi điên, bởi vì anh ta quá chần chừ. Tôi nói với anh ta: Anh nghĩ tôi sẽ nằm đây cả đêm, chỉ để chờ đợi anh ư? Tôi nói vậy đấy. Tôi nói: Hãy để tôi bảo cho anh biết tôi sẽ làm gì. Và tôi nằm đó, tiếng cọt kẹt của cái giường đang cười nhạo tôi, tôi bật nảy về phía bàn tay anh ta và tôi nghĩ mình sẽ nói với anh ta cái gì. Tôi sẽ nói chuyện với anh ta giống như việc giáo viên hay làm ở trường, tôi sẽ là một cô giáo và anh ta là một thằng bé da đen, kiểu như thế. Tôi hỏi: Mình bao nhiêu tuổi? Và tôi tự trả lời: Mình bốn mươi lăm tuổi. Tôi có mái tóc muối tiêu, đeo kính và đẫy đà như những người phụ nữ ở đây. Tôi mặc một bộ vest màu xám, tôi không bao giờ mặc được màu xám. Rồi tôi nói với anh ta là tôi sẽ làm cái gì và bàn tay ấy có vẻ nhích dần lên trên giống như nó có thể đã thấy được sự biến đổi.
Rồi tôi nói: Điều đó sẽ không hiệu quả. Mình phải là một người đàn ông. Thế là tôi biến thành một ông già, với chòm râu dài trắng xóa, cái tên da đen nhỏ bé kia thì ngày càng nhỏ lại và tôi nói: Thế nào? Anh thấy chưa? Bây giờ tôi là một người đàn ông. Rồi tôi nghĩ đến việc làm một người đàn ông, nhưng ngay khi tôi nghĩ tới nó, điều đó đã xảy ra. Nó tạo ra một tiếng tõm. Tôi cảm thấy nó lành lạnh, như bên trong miệng anh khi anh mở miệng ra. Tôi có thể cảm thấy nó và tôi nằm thật yên để khỏi phải cười về chuyện anh ta sẽ bị ngạc nhiên như thế nào. Tôi có thể cảm thấy cái giật nẩy đang diễn ra bên trong cái quần lót chẽn gối của tôi và tôi nằm đó, cố gắng không cười về việc anh ta sẽ ngạc nhiên và nổi điên thế nào trong khoảng một phút nữa. Rồi đột nhiên tôi ngủ thiếp đi. Tôi thậm chí không còn tỉnh táo cho đến khi bàn tay anh ta đưa tới chỗ đó. Tôi chỉ ngủ thiếp đi. Tôi thậm chí không thể cảm thấy chính mình đã giật nẩy lên, nhưng tôi có thể nghe thấy tiếng cái giường. Tôi không thức dậy cho đến lúc người phụ nữ đó đến và đưa tôi xuống căn nhà nhỏ.”
Trong lúc anh rời căn nhà, cô Reba nói: “Tôi mong anh đưa cô gái ấy đi và đừng để cô ấy trở lại. Tôi sẽ tự tìm người nhà của cô ấy, nếu tôi biết. Nhưng anh biết đấy… Cô ấy sẽ chết, hoặc vào viện tâm thần trong vòng một năm, căn cứ theo cái cách Popeye và cô ấy tiếp tục ở trong căn phòng đó. Chuyện có vẻ gì đó khôi hài mà tôi chưa khám phá được. Có thể chính là cô ấy. Cô ấy không được sinh ra để sống kiểu như thế này. Số phận sẽ an bài anh được sinh ra để làm đồ tể hoặc thợ cắt tóc, tôi nghĩ vậy. Sẽ không có bất kỳ ai là đồ tể hoặc thợ cắt tóc chỉ vì tiền hoặc sự vui vẻ”.
Cô gái ấy có lẽ bây giờ đang sống nhưng không bằng chết, Horace nghĩ và tiếp tục bước.
Anh không quay về khách sạn. Anh đến nhà ga. Anh có thể bắt một chuyến tàu hỏa vào nửa đêm. Anh uống một tách cà phê và ngay lập tức thấy hối hận, bởi nó như một quả cầu nóng bỏng nằm trong dạ dày. Ba tiếng đồng hồ sau khi xuống tàu hỏa ở Jefferson, nó vẫn chưa được tiêu hóa. Anh đi bộ vào trung tâm thị trấn và băng qua quảng trường hoang vắng. Anh nghĩ về buổi sáng trước đó khi băng qua cái quảng trường này. Như thể thời gian chưa từng trôi qua: những cái kim chầm chậm quay trên mặt đồng hồ ngời sáng, cùng những cái bóng giống như loài chim kền kền trên khung cửa, có thể giờ vẫn là buổi sáng đó và anh chỉ vừa mới đi ngang qua quảng trường, quay đầu và trở lại, tất cả những chuyện vừa diễn ra chỉ là một giấc mơ đầy những hình dạng đáng sợ của chính anh. Thình lình anh bước nhanh, món cà phê vừa uống xóc nẩy lên như một hòn đá nóng bỏng, nặng nề bên trong dạ dày.