S
. T. giải thích rằng trước đây ông đã đọc đôi điều chúng tôi trình bày và đã suy nghĩ về chúng. Nhưng ông nhận thấy trong ông có một rào cản, một tảng đá ngăn chặn khiến ông không thể làm gì được. Ông đã chiến đấu với nó một thời gian, song không thể phá hủy và cũng chẳng thể vượt qua nó. Ông rất tuyệt vọng. Ông muốn thảo luận rốt ráo về nó và biết đâu chúng tôi có thể tìm ra giải pháp để phá vỡ bức tường tự khép kín này.
S. T. là người lịch thiệp, một kiểu người gọi là trí thức với những thói tự phụ và những kết luận tự mãn của mình, vốn là những điều thỉnh thoảng mới được bộc lộ. Ban đầu ông không nhận ra chúng, nhưng dần dần khi chúng tôi trò chuyện thì ông thấy được, và ngay lập tức, ông muốn tìm ra một lý lẽ phù hợp cho chúng. Ông không đủ kiên nhẫn để chờ kết quả, và chúng tôi chỉ ra rằng trí tuệ không nằm ở đích đến mà được góp nhặt trên đường đi. Để có được trí tuệ, người ta phải gạt đích đến qua một bên. Kiên nhẫn mới là điều cần thiết, chứ không phải lòng tham muốn đạt được kết quả. Nếu có nhận thức thụ động, thì nó sẽ giúp khám phá những nguyên nhân góp phần dựng lên các bức tường tự khép kín. Kiên nhẫn không phải là một phẩm hạnh có thể trau dồi, nhưng nếu không có nó, việc hiểu biết sẽ trở nên khó khăn. Xét cho cùng, tính nhẫn nại không phải là thứ có thể tích lũy được mà phải được lĩnh hội một cách sâu sắc ở hiện tại. Không cần hợp lý hóa, không cần biện minh cho tính thiếu kiên nhẫn, giờ hãy thử tĩnh lặng một lúc để trải nghiệm sự nhẫn nại. Một khi người ta đã trải nghiệm sự cần thiết của tính kiên nhẫn, nó sẽ luôn luôn khắc sâu vào tâm thức.
Chẳng phải việc hiểu người suy nghĩ, người thực hiện, và người hành động là cần thiết hay sao? Bởi vì những suy nghĩ, hành vi và hoạt động của một người không thể tách rời khỏi người đó để được nghiên cứu riêng. Người suy nghĩ chính là suy nghĩ, người thực hiện chính là hành vi, người hành động chính là hoạt động. Từ suy nghĩ, người suy nghĩ sẽ được tỏ lộ. Thông qua những hành động của mình, người suy nghĩ tạo ra cái tốt, cái xấu và bị chúng kìm hãm. Người suy nghĩ gây ra sự đau khổ, vô minh và xung đột của mình. Người họa sĩ vẽ nên bức tranh, bức tranh này nói về hạnh phúc thoáng qua, về đau khổ, về sự rối loạn. Tại sao họ vẽ bức tranh đầy đau thương này? Đây là vấn đề phải được nghiên cứu, thấu hiểu và giải quyết. Tại sao người suy nghĩ lại nghĩ ra các suy nghĩ của mình, để khơi nguồn cho mọi hành động? Đây chắc chắn là bức tường đá mà ông đang đâm đầu vào. Nếu người suy nghĩ có thể vượt qua chính mình thì tất cả xung đột sẽ dừng lại. Để vượt qua, họ phải hiểu bản thân. Cái gì được biết đến và thấu hiểu, cái gì được thực hiện và hoàn thành sẽ không lặp lại chính nó. Chính sự lặp lại đã tạo nên tính liên tục cho người suy nghĩ. Tại sao họa sĩ lại vẽ bức tranh đau thương này? Có vài nguyên nhân chính và một trong số đó là thói quen.
Thông qua thói quen, thông qua sự lặp lại, thông qua việc sao chép, người suy nghĩ nghĩ ra những suy nghĩ của mình, điều đó gây ra vô minh và đau khổ. Chẳng phải thói quen là thiếu suy nghĩ sao? Nhận thức mới mang lại trật tự chứ không phải thói quen. Các khuynh hướng đã cố định sẽ gây ra tính thiếu suy nghĩ. Tại sao người ta lại không suy nghĩ? Suy nghĩ rất đau đớn, nó gây ra xáo trộn, nó tạo ra sự chống đối, nó có thể thay đổi quá trình hành động của một người, vốn có thể trái ngược với khuôn mẫu được thiết lập từ trước. Suy nghĩ-cảm xúc, nhận thức có thể dẫn tới những tầng sâu chưa biết đến và tâm thức thì chống lại những gì chưa biết. Vì vậy, nó cứ đi từ cái đã biết này sang cái đã biết khác, từ thói quen này sang thói quen khác, từ khuôn mẫu này sang khuôn mẫu khác. Một tâm thức như vậy không bao giờ từ bỏ điều đã biết để khám phá những gì chưa biết. Khi nhận ra sự đau đớn của suy nghĩ, thông qua sự sao chép, thông qua thói quen, người suy nghĩ trở nên thiếu suy nghĩ. Suy nghĩ là sợ hãi, vì vậy họ tạo ra các khuôn mẫu thiếu suy nghĩ. Nếu người suy nghĩ sợ hãi thì hành động của họ mang nỗi sợ. Họ để ý những hành động của mình và cố gắng thay đổi chúng. Họ sợ hãi những điều họ tạo ra, nhưng hành vi cũng chính là người thực hiện. Vậy nên người suy nghĩ lo lắng về chính mình. Người suy nghĩ chính là nỗi sợ, người suy nghĩ là nguyên nhân của vô minh, đau khổ. Người suy nghĩ có thể tự phân chia mình thành nhiều loại suy nghĩ, nhưng suy nghĩ cũng chính là người suy nghĩ. Người suy nghĩ và các nỗ lực của họ – nỗ lực để tồn tại, để trở thành – chính là nguyên nhân của mâu thuẫn và rối loạn. Bản thân người suy nghĩ là vô minh và đau khổ.
Ông hỏi: “Vậy làm sao tôi vượt qua nó, vượt qua chính mình đây?”.
Thưa ngài, tâm của ngài không đủ tĩnh lặng để đánh giá vấn đề mà ngài lại còn muốn vượt qua nó trước khi hiểu nó nữa. Nếu nghiên cứu một cách đúng đắn, thận trọng, thì vấn đề đó đã ẩn chứa câu trả lời. Ở đây lại đang thiếu sự kiên nhẫn, mạn phép nói như vậy, mà tính tham lam muốn có được kết quả không phải là câu trả lời.
Như chúng tôi đã trình bày, người suy nghĩ chính là sự vô minh, chính là sự đau khổ, chính là nỗi sợ hãi. Điều này có ý nghĩa gì đối với ngài không, thưa ngài? Hình như nó không có ý nghĩa gì cả, bởi vì ngài chỉ quan tâm việc vượt qua nó mà thôi. Làm sao người suy nghĩ vượt qua được chính mình nếu bản thân họ là vô minh? Họ phải chấm dứt tình trạng đó. Sự vô minh và thù hận không thể biến thành sự khai sáng và yêu thương bất cứ lúc nào được. Vô minh và đau khổ phải chấm dứt.
“Tôi phải bắt đầu thế nào để có thể hủy diệt chúng?”
Lại một lần nữa, suy nghĩ của ông là về kết quả, thành tựu, về việc tống khứ cái này để đạt được cái kia. Bây giờ, vui lòng lắng nghe nhé. Ông không cảm nhận được cú sốc khi biết được rằng chủ thể suy nghĩ, tức là “ông”, chính là độc tố tự thân. Bất cứ điều gì ông mong muốn và thực hiện đều là độc hại. Tại sao ông không cảm nhận được cú sốc khi nhận ra điều này? Hoặc là vì ông không nghĩ rằng chủ thể suy nghĩ, tức là “ông”, lại là độc tố, hoặc là ông đã mụ mẫm rồi. Ông đã đồng ý từ đầu rằng chủ thể suy nghĩ là suy nghĩ, rằng chúng không hề tách biệt, rằng chúng cùng nhau tồn tại. Nếu khi ngắm nhìn ngọn núi mà ông không có phản ứng trước vẻ đẹp của nó, và ông nhận ra rằng mình không phản ứng, thì sự nhận ra đó sẽ khiến ông sốc, phải vậy không? Tương tự, khi nhận ra bản thân chủ thể suy nghĩ là vô minh, ông không giật mình với điều đó: Ông bỏ qua để chuyển sang những thứ khác. Ông chống sốc cho bản thân nhờ vào các lý lẽ, sự giải thích, các quyết định, kết luận. Trí năng của ông đã xây dựng những bức tường tự vệ nhằm chống lại mọi sự khám phá và tính tự phát, chống lại sự tự do và hiểu biết. Trí năng sẽ không bao giờ tìm thấy câu trả lời. Nhưng nếu tự cho phép mình tìm hiểu lý do vì sao ông không giật mình trước ý nghĩ rằng chủ thể suy nghĩ là đau khổ, thì ông sẽ có thể phá vỡ những bức tường tự khép kín đó. Nếu sống với tình trạng mụ mẫm khô chết này của trí năng mà không đào thoát khỏi nó, thì ông sẽ nhận thấy rằng tảng đá mà ông đang đâm đầu vào sẽ tan biến. Ông đã trở nên mụ mẫm và ông không cho phép chính mình nhận ra điều đó, cảm nhận điều đó. Và chỉ khi ông bàng hoàng trước thực tại của nó – thực tại của sự mụ mẫm – thì đó là lúc bắt đầu cho việc chấm dứt chủ thể suy nghĩ và suy nghĩ của chủ thể ấy. Chỉ khi đó mới có điềm báo cho cái vĩnh cửu.