T
rương Anh Tài cầm bàn chải, thuốc đánh răng đến bên một dòng suối nhỏ cạnh trường, cúi xuống vốc một vốc nước súc miệng, rồi dùng bàn chải cọ cọ răng. Tự nhiên thấy như có ai bên cạnh, nhìn lên hóa ra là Tôn Tứ Hải. Tôn Tứ Hải xách chiếc thùng gỗ nhỏ đến lấy nước, múc đầy xong vẫn chưa vội về.
Tôn Tứ Hải nói: “Cậu không nên đụng vào chiếc Phượng hoàng cầm đó.”
Trương Anh Tài nghe không rõ: “Chú nói gì cơ?”
Tôn Tứ Hải nói lại lần nữa: “Bọn tôi chưa bao giờ đụng vào chiếc Phượng hoàng cầm đó.”
Trương Anh Tài muốn hỏi thêm, vội vàng lấy nước súc bọt trắng trong miệng. Nhưng Tôn Tứ Hải đã đi khuất dạng.
Bữa sáng vẫn ăn ở nhà Hiệu trưởng Dư. Nói là bữa sáng chứ thực ra là cơm thừa tối qua nấu cùng rau xanh, cho ít muối và ớt vào cho có mùi. Không có rau, có học sinh với tay vớt vài cọng rau cải thảo muối trong vại, đưa lên miệng nhai. Có một học sinh cũng với tay để vớt nhưng chẳng vớt được gì, vại to quá, nó nhỏ con không với được đến đáy vại, tức quá, nói những bạn vớt trước “ăn hết phần người khác”, rồi bảo sẽ mách Hiệu trưởng Dư. Đứng giữa đám học sinh, Trương Anh Tài miễn cưỡng ăn vài miếng, đi ra ngoài, về phòng moi hai quả trứng bắc thảo ra, nhét vào túi áo, lại đi ra bờ suối. Sau khi đổ những thứ chẳng khác gì cám lợn đi và rửa sạch bát, Trương Anh Tài ngồi bóc vỏ trứng trên một tảng đá bên suối. Vừa bóc vừa nghêu ngao hát, đang hát đến “xin đừng hái hoa dại bên đường” thì có một cái bóng xuất hiện ngay trước mặt.
Trương Anh Tài giật thót người, hét về phía Tôn Tứ Hải đang tiến lại gần: “Chú có bị làm sao không đấy, chú thật là quái gở, chẳng khác gì hồn ma.”
Nhìn thấy quả trứng lăn lông lốc xuống suối, Tôn Tứ Hải vặc lại: “Tôi đã quá ngộ nhận, thấy cậu ăn không quen thức ăn nhà Hiệu trưởng Dư nên đã để phần cho cậu mấy củ khoai, nào ngờ cậu còn có cả sơn hào hải vị.”
Tôn Tứ Hải ném mấy củ khoai đang cầm trong tay xuống đất rồi bỏ đi luôn.
Trương Anh Tài nhặt mấy củ khoai lên, đến trước cửa nhà Tôn Tứ Hải, ăn ngấu nghiến. Tôn Tứ Hải nhìn thấy không nói năng gì, chỉ cắm cúi chặt củi. Khoai đã ăn hết sạch, Trương Anh Tài đành phải đi mở cửa lớp học.
Tôn Tứ Hải nói ở phía sau: “Thầy Trương, bài hôm nay do thầy dạy.”
Trương Anh Tài cũng chẳng nể nang gì: “Dạy thì dạy,” cũng chẳng thèm quay đầu lại nhìn.
Trẻ em vùng cao thật thà, hỏi rất ít. Tôn Tứ Hải cả buổi cũng không ló mặt, Trương Anh Tài cũng không hề cảm thấy lúng túng. Đứng trên bục giảng, trước tiên dạy học sinh từ mới, rồi đọc bài khóa dăm ba lần, sau đó chia đoạn, giải thích đại ý của từng đoạn, tư tưởng trọng tâm của bài khóa, sau cùng là dùng từ đặt câu hoặc viết một bài văn theo bài khóa mẫu. Hồi còn đi học, mẫu bài giảng thầy cô dạy cậu ta vẫn còn nhớ. Hiệu trưởng Dư đứng ngó ngoài cửa sổ vài lần, Đặng Hữu Mễ giả đò đến mượn phấn để vào lớp học một lần, lúc đi ra còn nói nhỏ: “Thầy Trương quả nhiên là được Trưởng phòng Vạn truyền thụ kiến thức.”
Sau khi tan học, Trương Anh Tài nhìn thấy Tôn Tứ Hải người đầy bùn đất từ sau núi đi xuống, chui vào nhà nấu cơm, cậu ta cũng bám vào theo.
Thấy Tôn Tứ Hải vẫn không đếm xỉa gì đến mình, Trương Anh Tài ngượng ngùng nói: “Chủ nhiệm Tôn, cháu qua chỗ chú góp gạo ăn chung, được không?”
Tôn Tứ Hải lạnh lùng nói: “Tôi không muốn nịnh bợ ai cả, cũng không muốn ai nói tôi đang nịnh nọt ai. Cậu cũng không cần phải ăn chung với ai cả, tự cất lấy cái bếp trong phòng mà nấu.”
Trương Anh Tài nói: “Cháu không biết xây bếp.”
Tôn Tứ Hải nói: “Cậu muốn xây bếp? Tôi sẽ nói với trò Diệp Bích Thu lớp 5 một tiếng, bố cô bé là thợ xây, có thể gọi lúc nào đến lúc đấy.”
Trương Anh Tài nói: “Thế thì không tiện nhỉ?”
Tôn Tứ Hải nói: “Nếu cậu tự xây thì mới là không thích hợp, phụ huynh học sinh biết sẽ cho là cậu coi thường ông ấy.”
Vừa dứt lời, có một bé gái bước tới. Cô bé này trông rất xinh xắn, ai nhìn cũng mến, quần áo tuy có chỗ vá nhưng xem ra lại giống như tự nhiên vậy. Cô bé mỉm cười, rồi tiến thẳng vào sau bếp giúp nhóm bếp.
Trương Anh Tài hỏi: “Đây là con gái ai hả chú?”
Tôn Tứ Hải trả lời: “Nó tên là Lý Tử, mẹ nó tên là Vương Tiểu Lan.”
Do từng nghe Đặng Hữu Mễ nói về chuyện giữa Tôn Tứ Hải và Vương Tiểu Lan, thấy Tôn Tứ Hải ngay thẳng như vậy lại khiến Trương Anh Tài cảm thấy ngại ngùng. Cậu ta chuyển luôn chủ đề, nói: “Bếp vẫn chưa xây, cháu sẽ ăn ở chỗ chú, chú có đuổi cháu cũng không đi.”
Tôn Tứ Hải trách bản thân nói dài thành ra nói dại: “Tôi bị cậu bắt thóp. Nhưng cứ nói trước, bếp xây xong thì ai về nhà nấy.”
Trương Anh Tài vội gật đầu lia lịa. Tôn Tứ Hải đang thái rau, bảo Lý Tử cho thêm một nắm gạo vào nồi.
Lúc ăn cơm, Tôn Tứ Hải và Lý Tử ngồi một bên, càng nhìn Trương Anh Tài càng thấy hai người giống nhau. Cậu ta nhớ lại trong cột học tập của khối lớp 5, có một bài văn được làm bài mẫu hình như là của Lý Tử viết, liền bưng bát cơm đi qua đó, quả nhiên không sai, đầu đề bài văn là “Người mẹ hiền của tôi”.
Lý Tử viết: Hằng ngày, mẹ đều rửa sạch phơi khô số thảo dược mà các bạn học mang đến nhà tôi, sau đó phân loại để vào một chỗ. Gom thành một gánh, mẹ gánh xuống núi bán cho bộ phận thu mua. Đây là việc mà mẹ và thầy Tôn đã bàn bạc kỹ, dùng số thảo dược mà các bạn nộp để đổi sách mới cần dùng hằng năm. Năm nay thời tiết không tốt, thảo dược mốc hỏng không ít, những người thu mua nếu không trừ cân thì lại ép giá, năm học mới sắp đến rồi mà vẫn chưa gom đủ tiền mua sách mới cho các bạn học trong lớp, sau đó mẹ đã bán chiếc quan tài chuẩn bị sẵn cho bố đi, mới gom đủ tiền đưa cho thầy Tôn để mua sách cho các bạn. Mẹ rất khổ tâm, luôn lo sau này tôi lớn lên sẽ oán hận mẹ, tôi đã nhiều lần hứa với mẹ, nhưng mẹ cứ lắc đầu, không tin lời tôi nói. Vì vậy, hằng ngày tôi đều hạ quyết tâm, tôi nhất định phải học hành chăm chỉ để sau này mẹ không phải chịu khổ, đặt nền tảng tốt đẹp để sau này đền đáp công ơn của mẹ.
Xem xong, Trương Anh Tài không quay lại phòng của Tôn Tứ Hải. Tôn Tứ Hải gọi cậu ta mang bát qua rửa, Trương Anh Tài mới từ phòng mình đi ra, trong bát để tám quả trứng bắc thảo còn lại. Cậu ta muốn Lý Tử sau khi tan học mang số trứng này về đưa cho mẹ, đồng thời chuyển lời rằng thầy Trương mới đến gửi lời hỏi thăm! Lý Tử không chịu nhận, Tôn Tứ Hải đứng bên cạnh mở lời để cô bé nhận lấy. Khi Lý Tử nói mình thay mặt mẹ cám ơn thầy Trương, Trương Anh Tài không cầm được lòng đưa tay xoa xoa đầu cô bé.
Buổi chiều là môn Toán. Trương Anh Tài chưa dạy vội, cậu ta viết bài văn của Lý Tử lên bảng, rồi tự đọc to một lần, rồi bảo các học sinh đồng thanh đọc mười lần, ý là để các em học sinh lớp dưới nhìn thấy tinh thần học tập của các anh chị lớp trên. Lớp học cũ nát, nhiều lỗ hổng, lại không cách âm. Sáng học môn Ngữ văn, chiều học môn Toán là sự sắp xếp thống nhất trong toàn trường, mục đích là để tránh tiếng ồn khi đọc bài Ngữ văn, sẽ ảnh hưởng đến việc học môn Toán. Tiếng đọc bài lớn tiếng của lớp 3 khiến các lớp khác không sao tập trung vào học được. Đặng Hữu Mễ chạy qua, muốn nói chuyện, nhưng nhìn thấy bài văn chép trên bảng thì quay về mà chẳng nói một lời. Hiệu trưởng Dư không vào lớp học, chỉ đi qua đi lại hai lượt bên ngoài, cũng chẳng nói năng gì.
Sau khi tan học, tiếng sáo lại vang lên. Vẫn khúc nhạc cũ “Cuộc sống của chúng ta đầy ánh dương”. Trương Anh Tài đứng cạnh giậm chân đánh nhịp, vẫn không sao át được cái tiết tấu đó, giai điệu đó chậm đến mức khó chịu, cậu ta không hiểu, hai ông thầy ngấm ngầm phân cao thấp, nhưng khi thổi sáo lại phối hợp ăn ý đến vậy. Sau đó, cậu ta cứ đọc bài văn của Lý Tử theo giai điệu này. Tiếng phổ thông của Trương Anh Tài rất giỏi, trong buổi chiều tà như thế này lại càng dâng trào cảm xúc, làm cho Tôn Tứ Hải rơm rớm nước mắt.
Sau lễ hạ cờ, Trương Anh Tài chặn Đặng Hữu Mễ lại hỏi: “Phó Hiệu trưởng Đặng, chú thấy bài văn em Lý Tử viết thế nào?”
Đặng Hữu Mễ chớp chớp mắt trả lời: “Trước tiên là đọc rất hay. Còn về bài viết, thầy Tôn là chủ nhiệm giáo vụ, anh thấy thế nào?”
Tôn Tứ Hải không hề lẩn tránh: “Chỉ một chữ: Hay!” Đặng Hữu Mễ hỏi dồn: “Hay ở điểm nào?”
Tôn Tứ Hải đáp: “Tình cảm chân thật.”
Lúc đó Hiệu trưởng Dư đi đến giảng hòa: “Chủ nhiệm Tôn này, mương thoát nước ở vùng núi trồng phục linh của anh vẫn chưa ổn đâu, mưa to một chút là rất nguy hiểm, sẽ cuốn cả gỗ thơm đi mất.”
Tôn Tứ Hải nói: “Đất núi quá rắn, không đào nổi, tôi định gọi vài phụ huynh học sinh đến giúp một tay.”
Hiệu trưởng Dư nói: “Cũng được, ruộng khoai của tôi lên cũng kém lắm, hay là cứ đào trước, để các em trải nghiệm cái mới mẻ, đợi khi các phụ huynh đến, kêu họ nhân tiện làm luôn việc này. Hiệu phó Đặng này, nhà anh còn việc gì nữa không? Tránh để lại gọi phụ huynh đến lần thứ hai.”
Đặng Hữu Mễ nói: “Tôi đã nói rồi, chúng ta không phải là những ông đồ dạy ở trường tư thục ngày xưa...”
Tôn Tứ Hải không đợi ông ta nói hết, quay đầu đi luôn, còn vẩy mạnh nước bọt trong chiếc sáo đi.
Lý Tử đã về nhà. Nhà cô bé cách trường không xa nên không ở lại nhà Hiệu trưởng Dư, Trương Anh Tài ngồi xổm nhóm bếp, vài bận muốn nói chuyện với Tôn Tứ Hải, nhưng nhìn bộ mặt sưng sỉa của ông ấy thì lại thôi. Cho đến lúc ăn cơm, hai người không ai nói chuyện với ai. Sắp ăn xong bữa, bấc đèn dầu nảy lên vài cái, Dư Chí, con trai Hiệu trưởng Dư, chui vào nhà.
“Chủ nhiệm Tôn, thầy Trương, mẹ cháu đau đầu gần chết, bố cháu hỏi các chú có thuốc giảm đau không thì cho cháu xin vài viên.”
Tôn Tứ Hải nói: “Chú không có.”
Trương Anh Tài vội nói: “Dư Chí, thầy có, để thầy đi lấy cho em.”
Về đến phòng, Trương Anh Tài đưa cả lọ thuốc nhỏ phòng thân cho Dư Chí.
Đến tối, không có việc gì làm, Trương Anh Tài lại lấy Phượng hoàng cầm ra chơi. Bỗng dưng, cậu ta thấy có gì đó khác thường, vài chữ gì đó ở giữa hai hàng chữ “Thân tặng Minh Ái Phần làm kỷ niệm” và “Tháng 8/1981” đều đã bị ai đó cạo đi, không để lại gì ngoài vết dao.
Bên ngoài, vầng trăng thật đẹp, Trương Anh Tài mang đàn ra chỗ có ánh trăng, đánh thử vài lần. Ánh trăng mờ ảo, không nhìn rõ thang âm trên phím đàn, nên âm thanh phát ra có chút loạn xạ. Cậu ta bèn dùng nắp bút máy đánh mạnh lên dây đàn, phát ra những âm thanh chói tai.
Bỗng từ trong nhà Hiệu trưởng Dư vọng ra tiếng rú của người phụ nữ.
Đám học sinh ở nhà Hiệu trưởng Dư hoảng hốt lo sợ, nháo nhác cả lên.
Trương Anh Tài rảo bước chạy qua, thấy then cửa cài chặt, gõ cửa không được, cậu ta liền gọi: “Hiệu trưởng Dư! Hiệu trưởng Dư! Có việc gì thế? Cần giúp gì không?”
Hiệu trưởng Dư đáp vọng ra: “Không có việc gì, cậu về ngủ đi.”
Trương Anh Tài áp tai lên khe cửa, nghe thấy vợ Hiệu trưởng Dư vẫn đang nức nở, nhưng tình hình đã im ắng trở lại. Cậu ta vòng ra sau nhà, nói với đám học sinh qua cửa sổ: “Đừng sợ, thầy là thầy Trương, đang canh ngoài cửa sổ cho các trò đây!”. Vừa dứt lời, thì xuất hiện hai ánh đèn màu xanh trên dốc núi. Trương Anh Tài nghiến chặt hàm răng cố để không kêu thành tiếng, không dám chần chừ do dự, chạy như bay về phòng mình.
Vào trong phòng, cậu ta mới nhớ ra trong lúc hoảng loạn đã bỏ quên chiếc Phượng hoàng cầm ở bên ngoài.
Trương Anh Tài không dám mở cửa ra ngoài. Cũng may chỉ cần nhìn cũng biết nó không phải là loại nhạc cụ cao cấp, để ngoài trời một đêm chắc cũng không sao.
Sau đó, Trương Anh Tài mới bắt đầu đập muỗi, chuẩn bị đi ngủ. Trên núi nhiều muỗi, tuy trước đó đã dùng quạt hương bồ xua muỗi trong màn ra ngoài, nhưng vẫn lọt vài con. Trương Anh Tài cầm chiếc đèn dầu đốt những con muỗi trốn ở bốn góc màn bằng hơi nóng trên bóng đèn. Những con muỗi bị ngọn lửa đốt rơi xuống chỗ gặp nhau giữa bóng đèn và cổ đèn, đợi đến khi không còn con muỗi nào nữa, thì chỗ đó cũng đầy xác muỗi. Trương Anh Tài vặn nhỏ đèn dầu, đặt lại trên bàn. Một cơn gió từ cửa sổ thổi vào, hơi lành lạnh ở cánh tay. Cậu ta nghĩ giờ này chắc chắn bố mẹ đang ngồi hóng mát, nhà trên núi có một điểm rất hay là dù trời có nắng nóng đến mấy cũng không cảm thấy nóng.
Có lẽ vẫn chưa quen với việc không có đèn điện, nên mặc dù rất buồn ngủ nhưng Trương Anh Tài ngủ vẫn không ngon. Đang mơ mơ màng màng, nghe thấy có tiếng động ở cửa sổ, mở mắt ra, vừa vặn nhìn thấy một bàn tay trắng gầy đét đang khua khua trên bàn trước cửa sổ, giống như yêu ma quỷ quái đang đi bắt linh hồn người trong những câu chuyện người lớn kể hồi nhỏ.
Trương Anh Tài dựng đứng cả tóc gáy, dưới gối chẳng có thứ gì ngoài quyển tiểu thuyết bình thường ngay cả gập một góc cũng không nỡ, cậu ta vơ vội lấy rồi đập liên tục về phía bàn tay đó. Vướng cái màn nên cậu ta không thể đập vào cái bàn tay trắng gầy đó, khiến cậu ta sợ đến run cầm cập.
“Thầy Trương, đừng sợ, tôi là Hiệu trưởng Dư đây. Thấy đèn nhà cậu chưa tắt, muốn thổi giúp cậu. Đi ngủ để đèn vừa lãng phí dầu lại sợ xảy ra hỏa hoạn.” Lại nói thêm một câu: “Các học sinh nộp học phí không dễ dàng chút nào!”
Nghe ra là Hiệu trưởng Dư, Trương Anh Tài liền gắt lên: “Chú già rồi mà còn lén lén lút lút, chẳng phải gọi tôi một tiếng là xong sao!”
Hiệu trưởng Dư đuối lý nói: “Thì tôi sợ quấy rầy giấc ngủ của cậu.”
Hiệu trưởng Dư đi rồi. Trương Anh Tài vừa tìm lại giấc mơ cũ, thì ông lại đến trước cửa sổ gọi ầm lên, bảo là có việc gấp: “Thầy Trương, mau dậy giúp tôi một tay!”
Trương Anh Tài bực dọc nói: “Nhà chú cháy hay là có việc gì thế?”
Hiệu trưởng Dư nói: “Không phải, mẹ thằng Dư Chí không xong rồi, một mình tôi không xoay xở được.”
Trương Anh Tài nghe xong vội vã bò dậy, theo Hiệu trưởng Dư vào phòng vợ ông. Chân trước chưa bước vào đến trong, chân sau đã muốn chạy. Nửa người trên của Minh Ái Phần không mảnh vải che thân, nằm thẳng đơ trên giường.
Hiệu trưởng Dư nói: “Thầy Trương, quả thực là hết cách, làm khổ thầy rồi!”
Trương Anh Tài thấy vậy, cực chẳng đã bước vào trong.
Lỗ mũi của Minh Ái Phần chỉ có thở ra mà không có hít vào, sắc mặt như quả cà tím. Hiệu trưởng Dư quả quyết có thứ gì mắc trong cổ, nói là trước đây bà ấy từng nuốt mảnh ngói, sỏi, gạch, v.v…
Trương Anh Tài sững sờ, trong lòng nghĩ, người phụ nữ này đúng là số hèn mọn, muốn tìm đến cái chết ngay cả cách này cũng nghĩ ra. Nhưng nghĩ lại thì người phụ nữ này đúng là cao số, đổi là người khác thì đã chết từ đời nào rồi.
Hiệu trưởng Dư và Trương Anh Tài thương lượng một chập, quyết định một người đỡ Minh Ái Phần dậy, một người vỗ lưng, xem liệu có thể khiến bà ấy khạc thứ gì đó ra không. Minh Ái Phần không tự kiểm soát được đại tiểu tiện, bình thường lau rửa khá sạch sẽ, sau một hồi giãy giụa, thì bẩn kinh khủng. Hiệu trưởng Dư đã quen rồi, nên trèo lên đỡ, để hở phần lưng để Trương Anh Tài vỗ. Trương Anh Tài không dám dùng sức, vỗ vài cái nhưng chẳng ăn thua. Hiệu trưởng Dư kêu cậu ta thử trên cạnh giường xem sao. Trương Anh Tài vỗ liền vài cái, Hiệu trưởng Dư vẫn chưa hài lòng, bảo cậu ta phải dùng gấp đôi sức, ngoài ra trong lòng phải coi Minh Ái Phần là kẻ thù giết cha hoặc tình địch cướp vợ. Trương Anh Tài chưa từng có hai trải nghiệm này, nhưng nó nghĩ đến Lam Phi, nếu không phải tự dưng mọc ra thằng Lam Phi, thì mình làm sao mà phải đến cái nơi khỉ ho cò gáy này! Cậu ta quyết chí, phải chĩa súng vào thằng Lam Phi được phân đến chỗ ngon lành mà bắn, một chưởng được phóng ra, cả chiếc giường lay động.
Hiệu trưởng Dư nói: “Đúng rồi. Cứ phải như vậy mới vỗ ra được”.
Trương Anh Tài giơ cánh tay lên, nhắm chính xác vào sau lưng Minh Ái Phần, nhắm mắt lại, vỗ mạnh một cái. Chỉ thấy cổ Minh Ái Phần bỗng chốc vươn dài ra, khạc ra một cái lọ nhỏ. Trương Anh Tài nhận ra chính là cái lọ mà cậu ta đưa cho Dư Chí khi nó qua xin thuốc lúc tối.
Minh Ái Phần vốn chỉ còn chút hơn tàn, giãy giụa lâu như vậy, nên chỉ thở dốc hai cái rồi thiếp đi. Cô còn lẩm bẩm nói mơ: “Cho dù tôi có chết, cũng phải xuống chỗ Diêm vương để chuyển chính thức.”
Ra khỏi phòng Minh Ái Phần, Hiệu trưởng Dư bước vào phòng các nam sinh đang ngủ, lôi Dư Chí đến phòng khách, vả cho mấy cái bạt tai, mắng nó đến chết mà vẫn chưa hết ngu, lại đưa những thứ không nên đưa cho bà ấy. Dáng vẻ Hiệu trưởng Dư rất dữ tợn, nhưng ra tay không nặng lắm. Dư Chí nhận lỗi, Hiệu trưởng Dư đưa nó về phòng, và nói với mấy học sinh khác bị đánh thức: “Không có chuyện gì đâu, cô Minh lại phát bệnh, các trò yên tâm ngủ đi, ngày mai còn phải dậy sớm chào cờ nữa!”.
Sau một phen hú vía, hai người trò chuyện một lát dưới ánh trăng.
Hiệu trưởng Dư giải thích với Trương Anh Tài, trước đây nhà ông cũng xảy ra chuyện tương tự, nhưng chưa bao giờ nhờ người khác giúp, hai năm nay sức khỏe ông ngày càng yếu, ngày trước một tay cũng có thể xoay xở, bây giờ dùng hai tay cũng chưa chắc được việc. Bất đắc dĩ mới tìm đến nhờ cậu ta giúp. Trương Anh Tài thấy rất lạ, sao trước đây không gọi Tôn Tứ Hải giúp một tay. Hiệu trưởng Dư nói, khi nhà Tôn Tứ Hải cửa đóng then cài thì sẽ không đến làm phiền vì sợ nhìn thấy những việc không tiện. Nói xong câu này, Hiệu trưởng Dư vội vàng thanh minh, Tôn Tứ Hải là người tốt hiếm thấy. Trương Anh Tài bảo ông ấy cứ yên tâm, nói mình sẽ không nói với ai về chuyện của Tôn Tứ Hải. Trương Anh Tài lại hỏi vặn về Đặng Hữu Mễ tính tình thế nào, Hiệu trưởng Dư bày tỏ thái độ nói, Đặng Hữu Mễ và Tôn Tứ Hải chỉ là tính cách khác nhau, chứ thực ra đều là người tốt cả.
Trương Anh Tài nói: “Chú quả nhiên là ‘sứ giả hòa bình’.”
Hiệu trưởng Dư hơi căng thẳng: “Có phải Trưởng phòng Vạn nói với cậu không?”
Trương Anh Tài khai ra Đặng Hữu Mễ. Hiệu trưởng Dư nghe xong lại thấy vui.
“Tôi sợ ông ấy sẽ có thêm ý kiến về tôi.”
Trương Anh Tài chớp thời cơ hỏi: “Chiếc Phượng hoàng cầm đó là ai tặng cô giáo Minh vậy?”
Hiệu trưởng Dư thở dài: “Tôi cũng muốn tìm cho ra nhẽ, nhưng cô Minh sống chết cũng không chịu nói.”
Trương Anh Tài không tin: “Cô chú luôn coi trường học là nhà, làm sao mà lại không rõ được chứ?”
Hiệu trưởng Dư: “Tôi đến muộn hơn cô ấy, hồi đầu là cô ấy và Trưởng phòng Vạn. Trước đó tôi là lính trong quân đội.”
Trương Anh Tài hơi tin. Sau khi chia tay, cậu ta đến bãi tập cầm chiếc Phượng hoàng cầm về phòng, mới phát hiện mấy chiếc dây đàn đều đã bị cắt. Trương Anh Tài không thể ngờ được, đang yên đang lành, lại chẳng ảnh hưởng đến ai, vì sao lại biến nó thành thứ bỏ đi chứ?