“Tôi không chỉ sống cho riêng bản thân mình bởi tôi là một phần của thế giới này.”
- Lord Byron
Một con nai của anh chị đã bị xe cán. – Giọng người đàn ông vang lên ở đầu dây bên kia khiến tôi choàng tỉnh. Hai con mắt còn ngái ngủ của tôi mở to hết cỡ. Tôi nhìn đồng hồ, mới 2 giờ 7 phút sáng.
– Tai nạn xảy ra ở đâu? – Tôi hỏi trong khi đưa tay đánh thức John, chồng tôi, dậy.
– Chị mau chóng đến đây đi. – Người đàn ông nói. – Đoạn đường mới rải nhựa, ngay giao lộ trước khi rẽ vào đường cao tốc, phía bên phải.
Điện thoại ngắt. Tôi chưa kịp nhận ra ai vừa báo hung tin cho mình.
– Anh ơi, dậy mau lên! – Tôi lay mạnh John.
– Ừ... Ừ... – John lẩm bẩm. – Có chuyện gì vậy em?
– Một người nào đó vừa gọi đến báo tin là một trong những con nai nhà mình bị xe hơi cán. – Tôi bước xuống giường, lòng đau thắt.
– Ai gọi? Ởđâu?
– Người gọi điện không xưng tên nên em không biết đó là ai. Anh ta cúp máy đột ngột quá.
Lúc này John đã tỉnh ngủ hẳn và bật dậy.
– Nó còn sống không em?
– Em cũng không biết nữa. – Tôi đáp. – Giá như người ta thông báo cụ thể hơn.
Chúng tôi cấp tốc thay quần áo. John nhanh chóng gom những vật dụng cần thiết: vài tấm chăn mỏng, hộp dụng cụ y tế, đèn pin và khẩu súng trường phòng khi phải dùng đến. Tôi đánh thức đứa con trai lớn của mình và nói cho nó biết chúng tôi sẽ đi đâu.
– Con hy vọng đó không phải là con Yoda nhà mình. – Johnny thì thào, giọng nó bộc lộ sự lo lắng dù vẫn còn ngái ngủ.
– Mẹ cũng mong là vậy.
Năm ngoái chúng tôi đã phóng thích năm chú nai con, trong đó có Yoda. Yoda là chú nai sống trong trại chúng tôi lâu nhất nên tình cảm chúng tôi dành cho nó cũng sâu đậm nhất. Nó là thủ lĩnh của bầy thú mồ côi được chúng tôi nhận về nuôi trong trại. Tất nhiên là tôi không muốn bất kỳ con nai nào của mình gặp tai nạn, Yoda lại càng không.
John và tôi ra khỏi nhà chỉ vài phút sau khi nhận được điện thoại. Đoạn đường đến hiện trường tai nạn không xa lắm nhưng nó đủ để tôi nghĩ đến một chú nai khác của mình cũng bị xe hơi cán nhiều năm trước.
Bucky là con nai đầu tiên được trại chúng tôi nhận nuôi. Chính vì thế, chúng tôi khá lúng túng trong việc tiếp cận nó và cũng chẳng biết nên chuẩn bị những gì cho việc nuôi nấng nó về sau. Chúng tôi dựng cho Bucky một cái chuồng và quây hàng rào quanh chỗ nó ở. Ngay khi nhìn thấy Bucky, cả gia đình tôi đều có cảm tình với chú nai con có bộ lông nhung mềm mại điểm những chấm lốm đốm vô cùng đáng yêu đó. Bucky đã lớn lên trong tình thương yêu và sự chăm sóc chu đáo của cả gia đình tôi.
– Con nai của nhà chúng tôi đấy. – John thường tự hào khoe với mọi người.
– Là chú nai của con nữa. – Jesse, cậu con trai nhỏ của tôi cũng muốn khẳng định phần công lao của mình.
Tuy mới nhận nuôi nai lần đầu nhưng chúng tôi biết rằng những chú nai con sẽ phát triển tốt hơn khi được sống chung với bầy đàn. Vì thế, chúng tôi cố gắng tìm thêm những chú nai mồ côi khác để Bucky có thêm bạn và sẽ thả tất cả cùng lúc khi chúng đã trưởng thành. Chúng tôi gọi điện đến những trại bảo tồn động vật hoang dã và họ đã hứa sẽ gọi cho chúng tôi nếu tìm thấy những chú nai con mồ côi. Thế nhưng chẳng có bất kỳ cuộc gọi nào sau đó. Về phía mình, chúng tôi cũng không chắc liệu mình có đủ hào phóng để đem Bucky cho một trại nào đó nuôi hay không. Cả nhà tôi đều nghĩ Bucky thuộc quyền sở hữu của mình rồi.
Một lần, chú nai Spike hơn một năm tuổi được nhốt chung chuồng với Bucky trong khoảng một giờ đồng hồ. Spike đã được những nhà chức trách thuộc ban bảo vệ động vật tìm thấy trong một kho thóc của người nào đó đang cố gắng tìm cách thuần hóa nó. Spike là một chú nai thích sống độc lập, khá bướng bỉnh và đã đủ tuổi để tự chọn cách sống riêng của mình. Cậu ta không muốn sinh hoạt chung với Bucky. Nhờ vậy Bucky không có cảm giác hụt hẫng khi người bạn không mấy lịch lãm của mình nhảy vọt qua hàng rào cao gần 2 mét để kết bạn với tự do.
Sang tháng Chín, Bucky được thả về rừng nhưng cậu vẫn chọn ở lại trại của chúng tôi. Mỗi ngày, nó chạy theo Johnny ra trạm xe buýt.
– Trời ơi, nhìn kìa. – Những đứa bạn của Johnny tỏ ra hết sức thích thú ngắm nhìn Bucky đang lững thững đi cạnh Johnny. Chúng thường thốt lên: “Chà, tuyệt thật!” hay “Nhìn kìa! Nó đẹp quá!”.
Cuối mùa đông, Bucky thường tha thẩn khám phá khắp nơi quanh vùng. Có lẽ cảm thấy mình không thể hòa hợp với cuộc sống hoang dã cùng bầy đàn nên vào mỗi buổi chiều tối, Bucky đều quay trở về trại để nằm ngủ cạnh dãy hàng rào sắt bao quanh cũi chó của gia đình tôi. Max, con chó lớn thuộc giống Labrador, cũng thường rời khỏi cái chuồng ấm cúng của mình để đến nằm cạnh Bucky, dù giữa chúng luôn có một dãy hàng rào. Max muốn truyền hơi ấm sang cho Bucky và cả hai sẽ sưởi ấm cho nhau.
Vào một buổi chiều lộng gió, tôi báo với John là Bucky vẫn chưa về nhà.
– Lin này, bây giờ Bucky đã là một chú nai trưởng thành rồi. – John đáp. – Một ngày nào đó chàng trai của chúng ta sẽ không về nhà nữa. Nó sẽ ở lại trong rừng và làm những gì nó thích.
– Em hiểu, nhưng em lo lắng lắm. – Tôi đáp. – Em linh cảm có điều chẳng lành đã xảy ra.
– Hãy chờ đến sáng mai, Lin ạ. Bucky sẽ quay về để chén những quả táo như mọi khi thôi. – John trấn an tôi.
Nhưng sáng hôm sau Bucky vẫn không về, và cả hôm sau nữa cũng vậy. Chúng tôi đến những nơi Bucky thường đến nhất để tìm nó. Hai vợ chồng tôi giải thích với bọn trẻ rằng có lẽ Bucky đang đi cùng với một chú nai khác để bọn trẻ không thắc mắc về việc vắng mặt của Bucky. Đây là lý do duy nhất mà bọn trẻ có thể hiểu và chấp nhận được.
– Nó sẽ không quay lại nữa. – Tôi nói với John bằng giọng bình thản, chấp nhận thực tế rằng mình đã hoàn thành công việc nuôi dưỡng và phóng thích động vật hoang dã. Thế nhưng, việc để Bucky quay lại cuộc sống tự do như những con vật khác thật sự là điều rất khó khăn với chúng tôi. Khi ra đi, Bucky đã mang theo một phần của trái tim tôi. Và tôi vẫn phải tiếp tục giải thích cho các con trai tôi về sự vắng mặt của nó.
Đến mùa săn bắn, John và tôi treo những tấm bảng to có hàng chữ màu vàng cam nổi bật từ xa: “Cấm săn bắn!”. Đây là công việc chúng tôi vẫn làm hằng năm. Nhưng năm nay, chúng tôi xin phép những người hàng xóm để được treo bảng cấm này trong vùng đất của họ với hy vọng sẽ bảo vệ được Bucky nếu nó vẫn còn quanh quẩn trong vùng này.
Thế rồi một ngày, tại góc đường giáp với chỗ rẽ vào khu rừng, John và tôi nhìn thấy xác một con thú con. Thân nó bị những bụi cây cao che khuất và nó nằm quay mặt về hướng nhà chúng tôi. Nó đã bị xe hơi cán và ai đó đã mang nó khỏi đường cao tốc và đặt ở đây.
Là Bucky.
– Không phải như vậy chứ! – Tôi gào lên, khóc tức tưởi khi quỳ xuống bên cạnh xác con vật.
“Tại sao lại như vậy? Trời ơi! Tôi biết nói thế nào với các con tôi đây?”
Tôi không kìm được nước mắt trước sự thật đau đớn này và cảm thấy căm giận kẻ lái xe bất cẩn nào đó đã hại chết Bucky của chúng tôi.
– Em sẽ không bao giờ nuôi một con nai nào nữa. – Tôi nghẹn ngào nói với John. – Làm sao em có thể chịu đựng được nếu chuyện này lại xảy ra lần nữa. Ôi trời ơi! Nhìn những vết thương của nó này.
John nhẹ nhàng lấy đất và lá cây khô xung quanh phủ lên xác của Bucky. Chúng tôi đứng lặng một hồi lâu trước sự thật phũ phàng này và cầu mong sẽ không phải chịu thêm bất kỳ nỗi đau nào như thế nữa.
Cơn gió lạnh thốc vào người kéo tôi trở về với thực tại khi hai vợ chồng nhảy xuống khỏi xe tải. Tôi chạy vội đến chỗ chú nai con đang nằm bất động, lấy đèn pin soi vào thân thể nó.
– Tạ ơn trời. Đó không phải là Yoda.
Những tia nắng đầu tiên của ngày mới mang đến câu trả lời rõ ràng cho chúng tôi. John và tôi mang xác con vật mà chúng tôi không biết tên vào sâu trong rừng, đặt nó vào một chỗ trũng rồi khỏa đất lấp lại.
Khi cho xe rẽ vào đường về nhà, chúng tôi nhìn thấy Jesse đang xòe tay đưa cho chú nai yêu quý của mình – Yoda – một quả táo. Ánh mắt Yoda nhìn Jesse đầy tin cậy và nhẹ nhàng đớp lấy trái táo từ tay Jesse. Nó dụi dụi mặt vào đôi bàn tay mang găng ấm áp của Jesse. John và tôi nhìn nhau mỉm cười. Chú nai xấu số nọ đã thổi bùng ngọn lửa tình yêu thương dành cho những sinh vật của thế giới hoang dã trong chúng tôi và tiếp sức cho chúng tôi thực hiện tốt công việc của mình.
Chúng tôi thể hiện lòng tiếc thương dành cho Bucky bằng cách tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng thêm nhiều chú nai mới mỗi khi xuân về. Tuy nhiên, dù rất nhiều chú nai đã lớn lên trong trang trại của chúng tôi nhưng tôi vẫn không bao giờ quên những kỷ niệm gắn liền với chú nai đầu tiên.
- Linda Mihatov