• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời khắc
  3. Trang 19

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 27
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 27
  • Sau

Bà Dalloway

"Thêm cà phê nữa nhé?” Oliver nói với Sally.

“Cảm ơn.” Sally đưa tách cà phê của mình cho trợ lý của Oliver, một chàng trai giản dị đến mức đáng ngạc nhiên, với mái tóc bạch kim, hai gò má hõm, mặc dù được giới thiệu là trợ lý, nhưng dường như anh ta chỉ làm nhiệm vụ rót cà phê. Sally đã trông đợi một anh chàng trẻ trung vạm vỡ, với quai hàm bạnh và những múi cơ căng phồng. Cậu thanh niên còm nhom, hăng hái này trông có vẻ hợp hơn nếu đứng sau quầy bán nước hoa tại trung tâm thương mại.

“Vậy cô nghĩ sao?” Oliver nói.

Sally chăm chú nhìn cà phê được rót cho bà, để tránh phải nhìn thẳng vào Oliver. Khi chiếc tách đã được đặt xuống trước mặt, bà liếc mắt nhìn sang Walter Hardy, người không để lộ bất cứ điều gì. Walter có một tài năng, khá ấn tượng trong việc tạo ra cái nhìn rất chăm chú và hoàn toàn trống rỗng, giống như một con thằn lằn leo lên trên một tảng đá ngập trong ánh nắng.

“Rất thú vị”, Sally nói.

“Phải”, Oliver đáp.

Sally gật đầu một cách thận trọng, nhấp một ngụm cà phê. “Tôi không rõ”, bà nói, “liệu nó có thực sự được sản xuất hay không”.

“Tôi nghĩ đã tới lúc rồi”, Oliver trả lời. “Tôi nghĩ mọi người đã sẵn sàng.”

“Anh nghĩ vậy thật sao?”

Sally thầm cầu cứu Walter. Nói gì đi chứ, đồ đần. Walter chỉ gật đầu, chớp mắt, ngồi đó thư giãn, tỉnh táo trước khả năng có nguy hiểm và cùng lúc, gần như bị thôi miên bởi sức nóng tỏa ra từ Oliver St. Ives, người có mái tóc cắt ngắn rối bù, chừng bốn mươi lăm tuổi, sở hữu một cái nhìn sắc sảo từ sau đôi kính mát gọng vàng khiêm tốn; hình ảnh của ông ta trên những cuộn phim tráng celluloid đã sống sót qua không biết bao nhiêu âm mưu nhằm sát hại, lừa đảo, bôi nhọ ông ta, hủy hoại gia đình ông; người từng ân ái với các nữ thần, luôn với vẻ nồng nàn đầy bối rối, như thể không tin nổi vào vận may của mình.

“Đúng thế”, Oliver nói, với vẻ nóng lòng hiện rõ trong giọng nói.

“Nghe có vẻ thực sự, à, rất thú vị”, Sally nói và không khỏi bật cười.

“Walter có thể làm được điều đó”, Oliver nói. “Walter có thể thực hiện được nó. Chắc chắn.”

Nghe nhắc tới tên mình, Walter ngồi thẳng dậy, chớp mắt nhanh hơn, nhổm người ra trước trên ghế, gần như đỏ bừng mặt. “Tôi rất vui nếu được thử sức”, ông ta nói.

Oliver lại nở nụ cười nổi tiếng của mình. Đôi lúc, Sally vẫn thấy ngạc nhiên trước mức độ Oliver giống với chính ông ta. Chẳng phải các ngôi sao điện ảnh vẫn thường được cho là thiển cận, tầm thường và có tính khí khó chịu sao? Không phải bọn họ nợ chúng ta điều đó sao? Oliver St.Ives có thể dễ dàng được nhận ra là một ngôi sao điện ảnh từ khi còn nhỏ xíu. Ông thật sáng chói, ông có âm hưởng của Bunyan32. Ông cao gần một mét chín mươi và hai bàn tay cân đối hoàn hảo có phủ lớp lông màu vàng có thể dễ dàng ôm trọn đầu của hầu hết những người khác trong lòng của chúng. Ông có khuôn mặt phẳng, với các đường nét to thô và nếu ngoài đời, trông ông không đẹp trai như trên màn bạc, ông vẫn giữ lại được toàn bộ vẻ độc nhất vô nhị đầy bí ẩn và không thể chối bỏ được đó, một vẻ độc đáo không chỉ về tinh thần mà cả về thể xác, như thể tất cả những người đàn ông Mỹ khỏe mạnh, cởi mở, kiên cường đều ít nhiều là bản sao của ông, cho dù được sao chép một cách cẩn thận hay cẩu thả.

32 Paul Bunyan, một nhân vật tiều phu hư cấu nổi tiếng trong văn hóa dân gian Bắc Mỹ.

“Được”, Oliver nói với Walter. “Tôi rất tin vào năng lực của anh. Mà này, anh đã làm hỏng sự nghiệp của tôi với một câu chuyện nhỏ nhoi đấy thôi.”

Walter cố nở một nụ cười của kẻ đã biết hết, nhưng nó lại hiện ra xấu xa một cách gớm ghiếc, đầy hận thù. Một cách đột ngột và hoàn toàn rõ ràng, Sally hình dung ra người đàn ông này ở tuổi lên mười. Hẳn ông ta lúc đó là một cậu nhóc quá cân, thân thiện tới mức liều lĩnh, có thể đánh giá địa vị xã hội của những đứa trẻ lên mười khác chính xác tới millimet. Ông ta hẳn có thể sẵn sàng lừa lọc dối trá dưới bất kỳ hình thức nào.

“Đừng thế chứ”, Walter nói, cười cợt. “Chẳng phải tôi đã cố nói để anh rõ về việc đó rồi sao? Tôi đã gọi điện bao nhiêu lần nhỉ?”

“Ồ, đừng lo lắng, anh bạn nhỏ thân mến, tôi đang đùa với anh thôi mà”, Oliver nói. “Tôi không hối tiếc gì hết, không gì cả. Anh nghĩ sao về kịch bản?”

“Trước đây tôi chưa bao giờ thử một bộ phim hành động”, Walter nói.

“Dễ thôi mà. Đó là thứ dễ nhất trên đời. Thuê lấy sáu cuốn phim từng làm ra tiền về mà xem, anh sẽ biết tất cả những gì cần phải biết.”

“Dẫu vậy, bộ phim này sẽ khác hơn ít nhiều”, Sally nói.

“Không”, Oliver trả lời với vẻ kiên nhẫn cười cợt pha lẫn bực dọc. “Không có gì khác biệt cả. Bộ phim này sẽ có nhân vật chính là một anh chàng đồng tính. Đó là chi tiết duy nhất và cũng chẳng phải là gì ghê gớm. Anh ta sẽ không bị hành hạ vì xu hướng tình dục của mình. Anh ta sẽ không dính HIV. Anh ta chỉ đơn giản là một anh chàng đồng tính thực hiện công việc của mình. Là người cứu thế giới, theo cách này hay cách khác.”

“Ừm”, Walter hầm hừ. “Tôi nghĩ tôi có thể làm được việc đó. Tôi rất muốn thử.”

“Tốt lắm. Tuyệt vời.”

Sally uống cà phê, muốn bỏ đi, muốn ở lại; muốn dập tắt mong muốn bản thân mình được Oliver St.Ives ngưỡng mộ. Trên thế gian này, bà thầm nghĩ, không có thứ gì mạnh hơn sự nổi tiếng. Để giúp bản thân lấy lại thăng bằng, bà nhìn quanh căn hộ, từng xuất hiện trên trang bìa của Architectural Digest33 một năm trước khi Oliver tự mình tiết lộ và nhiều khả năng sẽ không bao giờ xuất hiện trên tạp chí nữa, nếu tính đến việc những gì Oliver đã tuyên bố về bản chất tình dục của ông ta, giờ đây còn bao hàm cả sở thích nữa.

33 Tạp chí phát hành hằng tháng tại Mỹ về trang trí nội thất, bắt đầu xuất bản từ năm 1920.

Điều mỉa mai, Sally nghĩ, là căn hộ này khiến bà liên tưởng tới vẻ lòe loẹt nam tính một cách huênh hoang, với chiếc bàn cà phê Lucite34 và những bức tường nâu, trong hốc tường là những món đồ có nguồn gốc từ châu Á và châu Phi được chiếu sáng (Oliver chắc chắn nghĩ về chúng như là “được chiếu sáng một cách đột ngột”) gợi cho người ta nghĩ, bất chấp việc chúng được trưng bày một cách chỉn chu và trang trọng, tới sự cướp bóc nhiều hơn sự sành sỏi. Đây là lần thứ ba Sally có mặt ở nơi này và mỗi lần như thế bà đều cảm thấy thôi thúc muốn tịch thu tất cả những hiện vật quý giá đó và trả chúng lại cho những người chủ sở hữu chính đáng. Bà vờ chú ý tới Oliver trong khi hình dung ra chính mình khi bước vào một ngôi làng miền núi heo hút giữa những tiếng reo hò và hú hét, mang theo chiếc mặt nạ linh dương đã sẫm đen lại vì thời gian hay chiếc bát sứ màu lục nhạt có lân tinh, hai con cá chép được vẽ trên đó đã bơi lội qua mười thế kỷ.

34 Một thương hiệu chuyên sản xuất đồ bằng nhựa acrylic.

“Cô không thấy thế sao, Sal?” Oliver nói.

“Gì cơ?”

“Cô chưa bị thuyết phục.”

“Ò, vậy đấy, thuyết phục, không thuyết phục, lúc này tôi đang ở quá xa chuyên môn của mình. Tôi biết gì về Hollywood cơ chứ?”

“Cô xuất sắc hơn nhiều so với phần lớn các nhân vật ở đó. Cô là một trong số ít người liên quan tới ngành kinh doanh mà tôi tôn trọng.”

“Tôi không hề ‘liên quan tới ngành kinh doanh’, không hề, anh biết việc tôi làm...“

“Cô chưa cảm thấy bị thuyết phục.”

“Được rồi, không, tôi không thấy bị thuyết phục”, bà nói. “Nhưng thực sự thì ai quan tâm chứ?”

Oliver thở dài, nâng chiếc ly của ông ta cao quá mũi, một cử chỉ Sally dám chắc bà còn nhớ từ một bộ phim, một bộ phim nào đó liên quan tới một nhân vật có tính khí nhẹ nhàng (Kế toán? Luật sư? Hay có thể nào là một nhà sản xuất truyền hình?) cuối cùng đã bị đẩy tới chỗ phải tiêu diệt một cách tàn nhẫn cả một đạo quân nhỏ những kẻ buôn lậu ma túy để cứu cô con gái vị thành niên của mình.

“Tôi thừa nhận chúng tôi cần phải làm cho thuyết phục”, Oliver chậm rãi nói. “Tôi không hề ảo tưởng rằng bộ phim đó là điều gì chắc chắn.”

“Anh ta sẽ có một người tình chứ?”

“Một người đồng hành. Một phụ tá. Kiểu như Batman và Robin.”

“Họ có làm tình với nhau không?”

“Không ai làm tình trong một bộ phim hành động. Nó làm phân cảnh hành động chậm xuống quá nhiều. Cô sẽ đánh mất đám khán giả trẻ. Nhiều nhất, sẽ chỉ có một nụ hôn vào đoạn kết.”

“Vậy là có thể họ sẽ hôn nhau vào cuối phim?”

“Đó là phần của Walter.”

“Walter?”

Walter chớp mắt, quay trở lại hành động. “Này”, ông nói, “tôi mới chỉ nói cách đây ba phút là tôi có thể làm được. Đừng trông mong quá nhiều ở tôi như thế chứ?”.

Oliver nói, “Chúng ta không thể đắn đo tính toán về chuyện này được. Tôi đã chứng kiến quá nhiều người ngồi xuống viết một kịch bản chắc chắn sẽ thành công rực rỡ và họ luôn thất bại thảm hại. Có một kiểu vận đen nào đó”.

“Anh nghĩ người ta sẽ quan tâm sao?” Sally nói. “Ý tôi là có đủ người quan tâm?”

Oliver lại thở dài và lần thở dài này có âm điệu khác hẳn lần trước. Đây là một tiếng thở dài cam chịu và tối hậu, chạy thẳng ra lỗ mũi, đầy ý nghĩa trong sự thiếu vắng điệu bộ của nó. Nó cũng giống như tiếng thở dài vô tư đầu tiên của một người đang yêu gửi qua đường dây điện thoại, tiếng thở dài đồng thời cũng là tín hiệu sớm nhất cho sự khởi đầu của hồi kết. Có phải Oliver từng sử dụng nó trong một bộ phim không nhỉ? Hay là một người khác, một người có thật, từng thở dài như thế bên tai Sally cách đây đã lâu?

“Được rồi”, Oliver nói. Ông ta đặt úp hai bàn tay xuống tấm khăn trải bàn. “Walter, tại sao anh và tôi lại không thể nói tiếp về chủ đề này sau vài ngày nữa, sau khi anh đã có đủ thời gian để suy nghĩ chín chắn tất cả.”

“Tất nhiên rồi”, Walter nói. “Nghe có vẻ được đấy.”

Sally uống nốt hớp cà phê cuối cùng. Tất nhiên, đây là một trò chơi của đàn ông, một trò lừa gạt của đàn ông. Bọn họ ngay từ đầu đã chẳng bao giờ cần đến bà, không thực sự. Sau khi ông ta xuất hiện trên chương trình của bà, Oliver đã nảy ra ý tưởng (và hãy đối mặt với nó, ông ta không phải là Einstein) rằng Sally là nàng thơ và nhà bảo trợ của ông ta, một Sappho35 đang nói ra những lời khôn ngoan phiền muộn từ hòn đảo của mình. Tốt hơn nên đặt dấu chấm hết cho tất cả ngay lúc này.

35 Một nữ thi sĩ thời cổ Hy Lạp, sống vào khoảng cuối thế kỷ VII đầu thế kỷ VI trước công nguyên.

Dẫu vậy, vẫn còn đó khao khát khủng khiếp được Oliver St.Ives yêu. Dẫu vậy, vẫn còn đó nỗi kinh hoàng bị bỏ rơi lại phía sau.

“Cảm ơn cô vì đã tới”, Oliver nói và Sally cố gắng khuất phục sự thôi thúc muốn rút lui - để cúi người qua chiếc bàn về phía Oliver, qua phía trên những tàn tích còn lại của một bữa ăn trưa và nói, Tôi đã nghĩ thông suốt và tôi cho rằng một bộ phim hành động với nhân vật nam chính là người đồng tính thực sự có thể thành công.

Vậy thôi, tạm biệt. Đã tới lúc quay lại với những con phố.

Sally đứng bên Walter ở góc giao giữa đường Madison và đường Bảy mươi. Hai người không nói về Oliver St.Ives. Họ hiểu, theo những cách khác nhau, rằng Walter thành công và Sally đã thất bại. Họ tìm được những chủ đề khác để trao đổi.

“Tôi đoán tôi sẽ gặp lại cô tối nay”, Walter nói.

“Ừm”, Sally đáp. Ai đã mời Walter nhỉ?

“Richard thế nào rồi”, Walter hỏi. Ông cúi đầu xuống một cách lúng túng, cung kính, cúi chiếc mũ lưỡi trai xuống phía những đầu mẩu thuốc lá và những bãi bã kẹo cao su hình tròn màu xám, mảnh giấy gói của một chiếc bánh Quarter Pounder36. Bà chưa bao giờ ăn một chiếc Quarter Pounder.

36 Một loại hamburger bán tại các chuỗi nhà hàng McDonald.

Đèn chuyển màu. Họ băng qua đường.

“Vẫn thế”, Sally nói. “Nghĩa là rất yếu.”

“Thời buổi này mới kinh khủng làm sao”, Walter nói. “Chúa ơi, thời buổi này mới kinh khủng làm sao.”

Sally, một lần nữa, lại cảm thấy cảm giác phẫn nộ cuộn lên từ dưới bụng, làm tầm nhìn của bà nhòa đi trong cơn bốc hỏa. Tính khí phù phiếm của Walter thật không thể chịu nổi. Ai cũng biết khi ông ta nói ra những điều đúng đắn và đáng tôn trọng - thậm chí ngay cả khi nhiều khả năng ông ta đang cảm thấy những điều đúng đắn và đáng tôn trọng - ông ta cũng đồng thời nghĩ thật tuyệt làm sao khi được là tiểu thuyết gia Walter Hardy ít nhiều nổi tiếng, bạn của những ngôi sao điện ảnh và các thi sĩ, vẫn còn khỏe mạnh, vạm vỡ khi vượt qua tuổi bốn mươi. Ông ta hẳn sẽ hài hước hơn nhiều nếu có ít ảnh hưởng hơn trên thế giới này.

“Thế đấy”, Sally nói khi họ tới góc phố bên kia, nhưng trước khi bà kịp chào tạm biệt, Walter sải bước tới bên một cửa hàng và đứng đó với khuôn mặt chỉ cách mặt kính vài centimet.

“Hãy nhìn những thứ này xem”, ông nói. “Đẹp làm sao.”

Trong khung cửa là ba chiếc sơ mi lụa, mỗi chiếc được mặc lên một bản sao bằng thạch cao của một bức tượng cổ Hy Lạp. Một chiếc áo có màu vàng mơ nhạt, một chiếc màu ngọc lục bảo và chiếc thứ ba có màu xanh hoàng gia sẫm. Mỗi chiếc áo đều được thêu theo một phong cách khác nhau trên cổ và dọc xuống vạt trước bằng những sợi chỉ bạc mảnh như tơ nhện. Cả ba cùng rủ xuống mềm mại, lóng lánh trên phần thân săn chắc của các bức tượng và từ mỗi cổ áo đều nhô lên một cái đầu màu trắng trầm lặng với đôi môi đầy đặn, mũi thẳng và đôi mắt trắng vô cảm.

“À”, Sally nói. “Phải. Rất đẹp.”

“Có khi tôi sẽ mua một cái cho Evan. Hôm nay cậu ấy sẽ có một món quà. Chúng ta vào xem nào.”

Sally ngần ngừ, rồi đi theo Walter vào trong cửa hàng, bị kéo đi một cách miễn cưỡng, bất lực bởi cảm giác ân hận vừa trỗi dậy. Phải, Walter thật lố bịch, nhưng cùng với sự khinh thường của mình, dường như Sally còn có một cảm xúc trìu mến, thật kinh khủng và không sao tránh nổi, với anh chàng khốn kiếp tội nghiệp, người đã trải qua cả mấy năm vừa rồi trông đợi chàng người tình đẹp mã không óc của anh ta, chuẩn bị chết và bây giờ bất thình lình phải đối diện với triển vọng (liệu ông ta có những tình cảm lẫn lộn khác nhau không nhỉ?) bạn trai mình sẽ sống sót. Cái chết và sự tái sinh luôn thật quyến rũ, Sally nghĩ và dường như chuyện nó liên quan tới người hùng, kẻ xấu hay tay hề có vẻ không mấy quan trọng.

Cửa hàng này được trang hoàng toàn bằng gỗ thích được đánh véc ni và đá hoa cương đen. Bằng cách nào đó, người ta đã làm cho cả cửa hàng thoang thoảng mùi khuynh diệp. Mấy chiếc áo sơ mi được bày trên những chiếc bệ đen bóng loáng.

“Tôi nghĩ tới cái áo màu xanh”, Walter nói khi họ bước vào. “Màu xanh hợp với Evan.”

Sally để mặc Walter nói chuyện với anh chàng bán hàng trẻ đẹp trai với mái tóc chải ngược ra sau. Bà trầm ngâm thơ thẩn đi giữa những chiếc áo sơ mi, nhìn lên tờ ghi giá của một chiếc sơ mi màu kem có khuy xà cừ. Chiếc áo có giá bốn trăm đô la. Sẽ là bệnh hoạn, bà thầm tự hỏi, hay anh hùng khi mua một chiếc áo sơ mi mới đắt đến mức quái gở cho anh chàng người tình đang ngập ngừng bình phục. Hay cả hai? Bản thân Sally chưa bao giờ có thói quen mua quà cho Clarissa. Thậm chí ngay cả sau từng ấy năm, bà vẫn chưa dám chắc Clarissa thích gì. Đã có những lần thành công - chiếc khăn quàng bằng vải cashmere màu chocolate vào Giáng sinh năm ngoái, chiếc hộp sơn mài cổ Clarissa dùng để cất giữ những lá thư của bà - nhưng số lần thất bại cũng nhiều không kém. Có thể kể đến chiếc đồng hồ đeo tay xa xỉ mua ở Tiffany (quá hình thức, dường như là vậy), chiếc áo len màu vàng (là do màu hay cái cổ?), chiếc túi xách da màu đen (chỉ là không ổn, không thể nói tại sao). Clarissa từ chối thừa nhận điều đó khi không vừa lòng với món quà, bất chấp sự thúc giục của Sally. Mỗi món quà, theo Clarissa, đều hoàn hảo, chính xác như bà hy vọng và tất cả những gì người tặng quà không may mắn có thể làm là đợi và xem liệu chiếc đồng hồ có bị coi là “quá đẹp để đeo hàng ngày”, hay chiếc áo len chỉ được mặc một lần duy nhất, trong bữa tiệc vô danh nào đó, rồi chẳng bao giờ xuất hiện nữa. Sally bắt đầu thấy bực bội với Clarissa, Walter Hardy và Oliver St.Ives; với tất cả những sinh vật sống lạc quan, không chân thật; nhưng sau đó bà đưa mắt nhìn Walter đang chuẩn bị mua cho anh chàng người tình chiếc sơ mi màu xanh rất chói và thay vào bực bội, bà cảm thấy nhớ. Clarissa chắc lúc này đang ở nhà.

Sally đột nhiên muốn về nhà một cách khẩn thiết. Bà nói với Walter, “Tôi phải đi thôi. Đã muộn hơn so với tôi nghĩ rồi”.

“Tôi sẽ nhanh thôi”, Walter nói.

“Tôi phải về. Hẹn gặp lại anh sau.”

“Cô thích chiếc sơ mi chứ?”

Sally đưa tay sờ lên chất vải, rất mềm mại, có những hạt sần rất mịn, làm cho người ta thoáng có cảm giác như đang sờ lên da thịt thật sự. “Tôi thích nó”, bà nói. “Một cái áo rất đẹp.”

Người bán hàng mỉm cười bẽn lẽn đầy biết ơn, như thể bản thân anh ta phải chịu trách nhiệm về vẻ đẹp của chiếc áo sơ mi. Anh ta không có vẻ hờ hững hay hạ mình, như bạn có thể trông đợi từ một chàng thanh niên đẹp trai làm việc trong một cửa hàng như thế này. Họ từ đâu tới, những vẻ đẹp không chê vào đâu được đang đảm đương công việc bán hàng? Họ hy vọng vào cái gì?

“Phải”, Walter nói. “Một cái áo sơ mi thật tuyệt, phải không nào?”

“Tạm biệt.”

“Chào. Hẹn gặp lại cô sau.”

Sally rời khỏi cửa hàng nhanh nhất có thể, đi về phía bến tàu điện ngầm ở đường 68. Bà muốn về nhà với một món quà cho Clarissa, nhưng không nghĩ ra được thứ gì. Bà muốn nói với Clarissa một chuyện, một chuyện quan trọng, nhưng không thể định hình nó thành ngôn ngữ được. “Em yêu chị” cũng khá dễ dàng. “Em yêu chị” đã trở thành gần như thông thường, không chỉ được nói ra vào những ngày kỷ niệm gặp gỡ và sinh nhật, mà xuất hiện một cách ngẫu hứng, trên giường hay bên chậu rửa trong bếp, thậm trí cả trong xe taxi của các tài xế người nước ngoài, những người tin rằng phụ nữ nên đi sau chồng họ ba bước. Sally và Clarissa không keo kiệt trong việc thể hiện tình cảm họ dành cho nhau và điều đó tất nhiên là tốt, nhưng lúc này Sally nhận ra bà muốn quay về nhà và nói thêm một thứ khác, một điều không chỉ vượt quá sự ngọt ngào và an ủi, mà còn vượt quá cả sự đam mê. Điều bà muốn nói có liên quan tới tất cả những người đã chết, nó liên quan tới cảm xúc của riêng bà về vận may lớn lao và những mất mát khủng khiếp đang cận kề. Nếu có chuyện gì xảy đến với Clarissa, bà, Sally, sẽ tiếp tục sống, nhưng nói một cách chính xác, bà sẽ không thể vượt qua được chuyện đó. Bà sẽ không thể bình thường được nữa. Điều bà muốn nói không chỉ liên quan tới niềm vui mà cả nỗi sợ hãi thường trực luôn ám ảnh vốn là nửa đồng hành còn lại của niềm vui. Bà có thể chịu đựng được ý nghĩ về cái chết của chính mình nhưng không thể chịu đựng nổi khi nghĩ tới cái chết của Clarissa. Tình yêu này của họ, với không khí gia đình khiến người ta yên lòng, vẻ trầm lặng dễ dàng, sự ổn định của nó đã trực tiếp kéo Sally tới guồng máy của chính cái chết. Giờ đây, có một mất mát vượt quá tưởng tượng. Giờ đây, có một sợi dây bà có thể lần theo từ khoảnh khắc này, trong lúc bước tới bến tàu điện ngầm ở Upper East Side, xuyên qua ngày mai, ngày kia và ngày hôm sau nữa, qua suốt chặng đường tới dấu chấm hết cuộc đời của bà và đoạn kết của Clarissa.

Bà đi tàu điện ngầm vào trung tâm thành phố, dừng lại trước giá bày hoa cạnh khu chợ Hàn Quốc chỗ góc phố. Vẫn là những thứ hoa thông thường, cẩm chướng và cúc, một ít hoa lily cằn cỗi, lan Nam Phi, những bông tulip trồng nhà kính màu trắng vàng và đỏ, các cánh hoa trở nên cứng như làm bằng da ở trên mép. Những bông hoa ma, bà thầm nghĩ, chỉ là những sản phẩm, bị ép buộc phải hiện hữu giống như những con gà chân chưa từng chạm đất kể từ khi nằm trong trứng cho tới lúc vào lò sát sinh. Sally đứng cau mày trước những bông hoa bày trên giá gỗ, nhìn thấy chính bà và chúng được phản chiếu lại trên những viên gạch lát ở phía sau phòng lạnh (kia là bà, mái tóc ngả xám, khuôn mặt góc cạnh, hốc hác - làm sao bà lại có thể trở nên già đến thế? Bà sẽ phải cần tới nhiều ánh nắng mặt trời hơn, thực thế) và nghĩ không có thứ gì trên thế giới này bà muốn cho chính mình hay Clarissa, không phải là những chiếc áo sơ mi giá bốn trăm đô la, không phải là những bông hoa đáng thương hại này, không gì hết. Bà định tay không rời đi thì trông thấy một bó hồng vàng cắm trong một cái xô cao su màu nâu trong góc. Chúng mới bắt đầu hé nở. Những cánh hoa của chúng, ở dưới cùng, chuyển sang một sắc vàng đậm hơn, gần như ngả sang màu da cam, một thứ màu giống như của vỏ xoài lan lên trên, tỏa ra trong những đường gân nhỏ như sợi tóc. Trông chúng rất giống với những bông hoa thực sự, mọc lên từ mặt đất trong một khu vườn, tới mức dường như chúng đã bị đưa vào phòng lạnh do nhầm lẫn. Sally nhanh chóng mua bó hoa này, gần như lén lút, như thể bà sợ người phụ nữ Hàn Quốc bán hoa sẽ nhận ra sự nhầm lẫn và nghiêm nghị trả lời bà rằng những bông hồng này không phải để bán. Bà đi dọc theo đường Mười với bó hồng trên tay, cảm thấy hân hoan và khi bước vào căn hộ, bà đã bắt đầu có chút khao khát. Đã bao lâu kể từ lần cuối họ làm tình rồi nhỉ?

“Chào”, bà gọi. “Chị có nhà đấy chứ?”

“Trong này”, Clarissa trả lời và Sally có thể nhận ra từ giọng nói của bà rằng có chuyện gì đó không ổn. Liệu có phải bà sắp bước vào một trong những cuộc phục kích nho nhỏ vốn đem tới gia vị cho cuộc sống chung của hai người? Liệu có phải bà, cùng với bó hoa và khao khát mới nhen nhóm của mình, đã bước vào một cảnh cãi vã gia đình, thế giới trở nên xám xịt và u ám vì một lần nữa bà đã để lộ ra sự ích kỷ của mình, bỏ lại việc gì đó chưa làm, quên lau dọn thứ gì đó, hay quên một cuộc gọi điện quan trọng chăng? Niềm vui của bà lụi dần, khao khát chợt biến mất. Bà mang theo những bông hồng bước vào phòng khách.

“Có chuyện gì thế?” Bà hỏi Clarissa, lúc đó đang ngồi trên trường kỷ, chỉ đơn thuần là ngồi đó, như thể bà đang ở trong phòng chờ của một bác sĩ. Bà nhìn Sally với một vẻ mặt lạ lùng, mất phương hướng nhiều hơn là bị tác động mạnh, như thể không dám chắc người mới bước vào là ai và trong khoảnh khắc Sally cảm nhận được điềm báo của sự suy sụp sắp tới. Nếu cả hai người họ đều sống đủ lâu, nếu họ ở lại cùng nhau (và làm thế nào, sau tất cả những gì đã qua, họ có thể tách rời được?), họ sẽ chứng kiến nhau tàn tạ đi.

“Không gì cả”, Clarissa nói.

“Chị không sao chứ?”

“Hả? À phải. Chị không biết. Louis đang ở trong thành phố. Anh ấy đã trở lại.”

“Việc này cuối cùng thế nào rồi cũng đến.”

“Anh ấy ghé qua, chỉ bấm chuông thôi. Chị và anh ấy nói chuyện một lúc, sau đó anh ấy bắt đầu khóc.”

“Thật sao?”

“Phải. Không vì cớ gì cả, ít nhiều là vậy. Rồi Julia ghé qua và anh ấy bỏ đi.”

“Louis. Chị có biết gì thêm về anh ấy không?”

“Anh ấy đang hẹn hò với một chàng trai mới. Một sinh viên.”

“Phải. Tốt thôi.”

“Thế rồi Julia xuất hiện cùng với Mary...”

“Chúa ơi. Vậy là cả gánh xiếc cùng kéo tới đây.”

“Ồ, xem nào, Sally. Em mang hoa hồng về.”

“Cái gì cơ? Ồ, vâng. Phải rồi.”

Sally giơ những bông hồng lên khoe và đúng lúc ấy nhìn thấy bình hoa đầy ắp những bông hồng Clarissa đã đặt trên bàn. Cả hai bật cười.

“Chuyện này giống như kiểu một khoảnh khắc trong truyện của O.Henry, phải không nào?” Sally nói.

“Em không bao giờ có quá nhiều hoa hồng cả”, Clarissa nói.

Sally đưa bó hoa hồng cho bà và trong một khoảnh khắc cả hai đều hạnh phúc. Họ đang hiện hữu, ngay lúc này đây và bằng cách nào đó, họ đã thu xếp được ổn thỏa trong suốt mười tám năm đã trôi qua, để tiếp tục yêu nhau. Thế là đủ. Vào lúc này, thế là đủ.