• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời khắc
  3. Trang 6

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 27
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 27
  • Sau

Bà Brown

Bà Dalloway nói bà sẽ tự mình mua hoa.

Lucy đã có phần việc của mình. Những cánh cửa cần được tháo ra khỏi bản lề và người của Rumpelmayer sắp đến. Clarissa Dalloway thầm nghĩ, một buổi sáng mới tuyệt vời làm sao, tươi tắn làm sao, như thể được tạo ra để dành cho những đứa trẻ trên một bãi biển.

Los Angeles. Năm 1949.

Laura Brown đang cố gắng buông thả chính mình. Không, không hẳn là thế - cô đang cố giữ lấy mình bằng cách mở ra một lối vào thế giới khác đang tồn tại song song. Cô úp cuốn sách vào ngực mình. Vào lúc này, phòng ngủ của cô (không, phòng ngủ của họ mới phải) có vẻ đã trở nên thực và sống động hơn, vì Dalloway đang trên đường đi mua hoa. Laura đưa mắt nhìn cái đồng hồ đặt trên bàn. Đã quá bảy giờ từ lâu. Tại sao cô lại mua cái đồng hồ này nhỉ, món đồ gớm ghiếc với chiếc mặt vuông màu xanh lục đóng khung trong hình một cái quách chữ nhật bằng nhựa Bakelite đen kịt - làm thế nào cô lại nghĩ nó là một món đồ sành điệu cơ chứ? Đáng ra cô không được đọc sách, nhất là vào buổi sáng hôm nay trong tất cả các buổi sáng trên đời; đáng ra cô không được phép làm thế vào sinh nhật Dan. Đáng ra cô phải ra khỏi giường, tắm rửa, mặc quần áo, chuẩn bị bữa sáng cho Dan và Richie. Cô có thể nghe thấy tiếng hai người dưới nhà, chồng cô đang chuẩn bị bữa sáng, đồng thời chăm lo cho Richie. Đáng ra cô phải có mặt dưới đó, phải không nào? Đáng ra cô phải đứng trước bếp trong một chiếc váy mới, không ngớt nói những câu động viên đơn giản. Dẫu vậy, khi cô mở mắt ra vài phút trước (cũng đã sau bảy giờ rồi!) - khi cô vẫn chìm trong mơ, một âm thanh giống như tiếng va đập của máy móc từ xa vọng lại, tiếng đập đều đặn như của một quả tim bằng cơ khí khổng lồ, mỗi lúc một sát lại gần hơn - cô cảm thấy sự ẩm ướt nhớp nháp bao quanh mình, cảm giác của một người đang chới với ở một nơi vô định và biết rằng ngày mới sẽ là một ngày khó khăn. Cô sẽ gặp rắc rối khi tin vào chính mình, trong những căn phòng của ngôi nhà cô đang sống và khi đưa mắt nhìn về phía cuốn sách mới trên bàn, nó nằm bên trên cuốn sách cô mới đọc xong tối hôm qua, cô tự động với lấy nó, như thể đọc là nhiệm vụ duy nhất và hiển nhiên nhất của ngày hôm nay, là cách thức duy nhất để trải qua thời gian chuyển tiếp từ giấc ngủ sang các bổn phận đời thường. Bởi cô đang mang thai, cô được quyền cho phép mình có những quãng chuyển tiếp như thế. Vào lúc này, cô cho phép mình nằm trên giường đọc sách, khóc toáng lên hay nổi cáu mà chẳng cần lý do gì.

Cô sẽ đền bù lại bữa sáng bằng cách nướng cho Dan một chiếc bánh sinh nhật hoàn hảo, bằng cách là quần áo thật phẳng phiu, bằng cách đặt một lọ hoa thật to (sẽ là những bông hồng chăng?) lên chính giữa bàn và các món quà xung quanh nó. Như vậy là đủ để bù lại, đúng không nào?

Cô đọc thêm một trang nữa. Thêm một trang nữa để bình tâm lại, sau đó cô sẽ rời khỏi giường.

Khoan khoái làm sao! Ngây ngất làm sao! Với cô, dường như vẫn luôn như thế, khi cô đẩy tung hai cánh cửa sổ kiểu Pháp14, cô có thể nghe thấy rõ những tiếng cót két khe khẽ phát ra từ các bản lề và đắm mình vào bầu không khí thoáng đãng ở Bourton. Vào buổi sáng sớm, không khí ở đó thật tươi mới, bình yên, tất nhiên còn tĩnh lặng hơn cả lúc này; giống như cái vỗ nhẹ của một gợn sóng; cái hôn của một gợn sóng; lạnh lẽo, sắc buốt, nhưng (với một thiếu nữ mười tám tuổi như cô vào lúc đó) vẫn trang nghiêm, khi đứng trước khung cửa sổ mở rộng, rằng có điều gì đó đáng sợ sắp xảy ra; ngắm nhìn những bông hoa, thân cây với làn khói bảng lảng và bầy quạ vụt bay lên rồi hạ xuống; cô cứ đứng đó nhìn trân trối cho tới khi Peter Walsh nói, “Mơ màng về các loại rau sao?”. - Có phải vậy không nhỉ? - “Em thích con người hơn là những bông cải.” - Phải thế không? Anh chắc chắn đã nói thế trong bữa sáng vào một ngày nọ, khi cô đã ra ngoài sân trước. Peter Walsh. Có lẽ anh sẽ quay về từ Ấn Độ vào tháng Sáu hay tháng Bảy, cô đã quên mất là tháng nào, vì những lá thư của anh đều lủng củng đến mức kinh khủng; người ta nhớ về anh vì những điều anh đã nói, đôi mắt, con dao nhíp, nụ cười, tính cách cục cằn của anh và ngay cả khi triệu thứ khác đã hoàn toàn chìm nghỉm vào quên lãng - thật lạ làm sao! - Cô vẫn nhớ vài lời nói đại loại như thế về cải bắp.

14 Loại cửa sổ bắt đầu từ sàn nhà cao tới sát trần, thường mở ra ban công.

Cô hít thật sâu. Đẹp quá, đẹp hơn rất nhiều so với... à, hơn bất cứ thứ gì khác, thật vậy. Trong một thế giới khác, có lẽ cô đã dành cả cuộc đời mình để đọc. Nhưng đây là thế giới mới, thế giới được cứu thoát15 - nơi không có chỗ cho sự biếng nhác. Đã có quá nhiều thứ bị đe dọa và mất đi, quá nhiều người đã chết. Gần năm năm trước, chính Dan cũng được tin là đã chết ở Anzio16 và hai ngày sau, rốt cuộc anh cũng được phát hiện ra là vẫn còn sống (anh và một người Arcadia17 xấu số nào đó trùng tên nhau). Dường như anh đã được tái sinh, quay trở về, vẫn dịu dàng, vẫn mang trên mình mùi hương như trước, từ vương quốc của những người chết (những câu chuyện sau đó cô được nghe về Ý, về Okinawa và Saipan18, về những bà mẹ Nhật Bản thà giết chết những đứa con của mình rồi tự sát chứ không chịu bị bắt làm tù binh) và khi quay trở về California, anh được đón chào còn hơn một anh hùng thông thường. Anh đã có thể (từ chính lời người mẹ đang hoảng hốt) có được bất cứ ai, bất kỳ cuộc đón rước huy hoàng nào, bất kỳ cô gái sôi nổi nào, thế nhưng dưới sự phù phép của một vị thần bí ẩn, đầy quyền năng và cũng tai ác một cách oái oăm, anh đã theo đuổi rồi cầu hôn chị gái cậu bạn thân nhất của mình, một nàng mọt sách, có vẻ mặt ngoại lai với đôi mắt sẫm màu nằm sát nhau và chiếc mũi diều hâu kiểu Roma, một cô gái chưa từng được ai theo đuổi hay yêu mến; một cô gái luôn ở một mình với những cuốn sách. Cô gái có thể nói gì đây ngoài đồng ý? Làm sao cô gái có thể từ chối một chàng trai trẻ trung đẹp đẽ với một trái tim nhân hậu, một người gần như đã trở thành một thành viên của gia đình và mới trở về từ cõi chết?

15 Ám chỉ đến Thế chiến thứ hai mới kết thúc năm 1945.

16 Nơi diễn ra trận đánh ác liệt khi quân Đồng Minh đổ bộ lên Ý năm 1943.

17 Một tỉnh của Hy Lạp.

18 Hai hòn đảo trên Thái Bình Dương, nơi diễn ra những trận đánh đẫm máu giữa quân đội Mỹ và quân đội Nhật trong Thế chiến thứ hai.

Vậy là giờ đây cô gái ấy đã trở thành Laura Brown. Laura Zielski, cô gái cô độc, con mọt sách không lúc nào ngừng đọc, đã biến mất và thay vào đó là bà Laura Brown.

Một trang, cô quyết định, chỉ một thôi. Cô vẫn chưa sẵn sàng, những việc phải làm đang đợi cô ở phía trước (mặc áo, chải lại mái tóc, đi xuống bếp) vẫn quá mong manh và khó nắm bắt. Cô sẽ cho phép mình nán thêm một phút nữa, trên chiếc giường này, trước khi bắt đầu ngày mới. Cô sẽ cho mình thêm chút thời gian nữa. Cô như bị cuốn theo một đợt sóng của cảm giác, một đợt thủy triều đang dâng lên trong lồng ngực, nâng cô nổi lên, giữ cho cô bồng bềnh, như thể cô là một sinh vật đang trôi dạt trên một bãi cát lại được trở lại mặt nước - như thể cô đã trở về từ một nơi có trọng lực quá nặng nề so với môi trường sống thực sự của cô, làn nước biển mặn và khối sáng chói lọi nhẹ bẫng đang ôm ấp, mơn man cô.

Bà hơi cứng người lại bên lề đường, đợi chiếc xe tải nhỏ của hãng Durtnall lao qua. Scrope Purvis nghĩ bà là một phụ nữ duyên dáng (biết rõ bà như một người hàng xóm tại Westminster); ở bà có chút gì đó của loài giẻ cùi, với bộ lông sắc lam pha lục, nhẹ nhàng, đầy sức sống, cho dù bà đã ngoài năm mươi và trở nên nhợt nhạt kể từ khi mắc bệnh. Bà đứng đó, không thấy ông đâu cả, đợi để sang đường, lưng vươn thẳng.

Vì đã sống ở Westminster - Bao nhiêu năm rồi nhỉ? Hình như trên hai mươi - nên người ta luôn cảm thấy một điều gì đó, ngay cả khi đang đứng giữa dòng xe cộ hối hả hay lúc bừng tỉnh giữa đêm khuya. Clarissa chắc chắn như vậy, đó là sự tĩnh lặng đặc biệt, hay trang nghiêm; một trạng thái ngưng đọng không thể mô tả thành lời; một khoảng ngừng (nhưng rất có thể đó là trái tim của bà đã bị ảnh hưởng bởi bệnh cúm, như người ta nói) trước khi Big Ben đổ chuông. Kia rồi! Tiếng chuông đã vang lên. Thoạt tiên là một âm báo, đầy âm sắc; sau đó là từng tiếng chuông báo giờ dứt khoát. Những vòng thời gian nặng nề hòa tan vào không trung. Chúng ta mới ngốc nghếch làm sao, bà nghĩ trong lúc băng qua phố Victoria. Vì chỉ có Chúa mới biết tại sao người ta lại yêu nó đến thế, bằng cách nào người ta nhìn ra nó như thế, tạo ra nó, xây lên nó, bất thần đổ sập nó xuống, rồi dựng mới lại trong mỗi khoảnh khắc; nhưng thậm chí cả những kẻ ăn mặc lôi thôi lếch thếch nhất, những kẻ khốn cùng nhất, những kẻ đang đắm chìm trong nỗi thất vọng ngồi trên các bậc thềm (nhấm nháp từng ngụm suy sụp của chính họ) cũng làm điều tương tự; không thể giải quyết được bằng các đạo luật của Quốc hội, bà cảm thấy chắc chắn như thế, vì họ yêu cuộc sống này. Trong mắt mọi người, trong từng bước đi dáng đứng; trong những tiếng hò la, gào thét, những cỗ xe ngựa, xe hơi, xe buýt hai tầng, xe tải, người bán sandwich luồn lách chen nhau; những ban kèn đồng; những cây đàn organ có ống gió; trong những âm thanh hân hoan, những tiếng chuông rung và âm thanh giống như của một chiếc máy bay vừa lao vụt qua trên đầu chính là thứ bà yêu; đó là cuộc sống; đó là London; là khoảnh khắc tháng Sáu này.

Bằng cách nào, Laura tự hỏi, ai đó lại có thể viết ra một câu như thế - ai có thể cảm nhận mọi thứ chứa đựng được trong một câu văn như thế - lại tự kết liễu đời mình? Thế giới này có gì không ổn vậy? Cố vận hết ý chí, như thể chuẩn bị phải lao mình xuống làn nước lạnh cóng, Laura gập cuốn sách lại, để nó xuống mặt bàn. Cô không hề thấy khó chịu với con, với chồng mình. Cô sẽ dậy và tỏ ra vui vẻ.

Ít nhất, cô thầm nghĩ, cô không đọc các cuốn sách bí hiểm hay lãng mạn. Ít nhất cô sẽ tiếp tục cải thiện tâm trí mình. Ngay lúc này đây, cô đang đọc tác phẩm của Virginia Woolf19, tất cả tác phẩm của bà ấy, lần lượt từng cuốn một - cô bị ngỡ ngàng trước ý nghĩ một người phụ nữ như thế, một người phụ nữ xuất chúng, khác lạ với nỗi buồn mênh mang vô bờ bến đến thế; một phụ nữ đầy tài năng nhưng vẫn bỏ một tảng đá vào túi áo rồi trẫm mình xuống sông. Laura thích hình dung (đây là một trong những bí mật thầm kín nhất của cô) rằng bản thân cô cũng có chút gì đó xuất chúng, chỉ một chút thôi, cho dù cô biết phần lớn người đời đều mang theo mình những nghi vấn tương tự như thế, họ cuộn chặt nó lại trong nội tâm, không bao giờ bộc lộ ra ngoài. Cô băn khoăn tự hỏi, trong khi đẩy xe trong siêu thị hay lúc đi làm tóc, liệu tất cả những người phụ nữ còn lại đều ít nhiều có suy nghĩ đó: Đây là một trí tuệ xuất chúng, là người phụ nữ của muộn phiền, của những niềm vui lớn lao, người đáng ra phải ở một nơi khác, người đã chấp nhận thực hiện những công việc đơn giản (phần lớn là ngớ ngẩn), chọn lựa cà chua, ngồi dưới chiếc máy sấy tóc, bởi vì đó là nghệ thuật và bổn phận của cô. Vì chiến tranh đã kết thúc, thế giới sống sót và chúng ta đang ở đây, tất cả chúng ta, tạo dựng những tổ ấm gia đình, có con và nuôi con, tạo ra không chỉ những cuốn sách hay bức tranh mà cả một thế giới - một thế giới trật tự, hài hòa, nơi những đứa trẻ được an toàn (nếu không được hạnh phúc), nơi những người đi trước từng phải chứng kiến vô số cảnh tượng kinh hoàng vượt quá sức tưởng tượng của con người, những người đã hành động can trường và chính trực, được quay về nhà bên khung cửa sổ sáng đèn, với hương thơm, với bàn ăn và khăn ăn đúng nghĩa.

19 Virginia Woolf (25/1/1882 - 28/3/1941) là một tiểu thuyết gia và nhà văn tiểu luận người Anh, bà được coi là một trong những nhà văn lừng danh nhất thế kỉ XX.

Khoan khoái làm sao! Ngây ngất làm sao!

Laura rời khỏi giường. Một buổi sáng nóng nực và chói chang của tháng Sáu. Cô có thể nghe thấy tiếng chồng cô đi lại dưới nhà. Một chiếc vung bằng kim loại khẽ cọ lên rìa chiếc chảo. Cô cầm cái váy viền xanh nước biển từ chiếc ghế mới thay vỏ. Chiếc ghế thấp tròn, được viền bằng loại vải có những chấm hồng cam được giữ lại bằng dây buộc và những chiếc nút cùng màu được sắp xếp theo hình thoi. Trong cái nóng của buổi sáng tháng Sáu, khi chiếc váy vắt lên trên đã bị lấy đi, chiếc ghế trong bộ vải bọc mới tinh dường như có vẻ ngạc nhiên nhận ra mình là một cái ghế.

Cô đánh răng, chải lại mái tóc và rồi bước xuống cầu thang. Cô dừng lại cách chân cầu thang mấy bậc, lắng nghe, chờ đợi; cô lại bị chiếm hữu (điều này hình như càng ngày càng tồi tệ hơn) bởi một cảm giác như đang mơ, như thể cô đang đứng bên cánh gà, chuẩn bị xuất hiện trên sân khấu và trình diễn trong một vở kịch trong khi vẫn chưa mặc trang phục phù hợp với nó và cô vẫn chưa được tập luyện đầy đủ vai phải diễn. Có chuyện gì không ổn nhỉ, cô tự hỏi. Chồng cô đang trong bếp, đây là đứa con trai bé nhỏ của cô. Tất cả những gì người đàn ông và cậu bé con cần ở cô là sự hiện diện và, tất nhiên rồi, tình yêu của cô. Cô cố vượt qua khao khát muốn lẳng lặng trở lại trên gác, quay về với chiếc giường và cuốn sách của mình. Cố vượt qua tâm trạng bực dọc khi nghe thấy giọng nói của chồng, anh đang nói gì đó với Richie về những chiếc khăn ăn (tại sao thỉnh thoảng giọng nói của anh lại khiến cô nhớ tới một củ khoai tây đang bị cạo vỏ). Cô bước xuống ba bậc cầu thang cuối cùng, đi qua phòng khách hẹp vào bếp.

Cô nghĩ tới chiếc bánh cô sẽ nướng, những bông hoa cô sẽ mua. Cô nghĩ tới lọ hoa hồng đặt giữa những món quà.

Chồng cô đã pha cà phê, lấy ngũ cốc cho anh và đứa con trai. Trên mặt bàn, một tá hồng trắng cắm trong lọ trưng ra một vẻ đẹp phức tạp. Qua thành thủy tinh trong suốt của chiếc lọ, Laura có thể nhìn thấy những bong bóng li ti như những hạt cát bám lấy các cuống hoa. Bên cạnh lọ hoa là hộp ngũ cốc và hộp giấy đựng sữa, với những dòng chữ và hình vẽ trên đó.

“Chào em”, chồng cô nói, hơi nhướn mày lên như thể anh ngạc nhiên nhưng cũng rất vui khi thấy cô.

“Chúc anh sinh nhật vui vẻ”, cô nói.

“Cảm ơn em.”

“Ôi, Dan. Những bông hồng này. Vào ngày sinh nhật. Quả thực anh hơi quá rồi đấy.”

Hình như anh cho rằng cô đang bực mình. Cô mỉm cười.

“Chúng cũng chẳng có ý nghĩa bao nhiêu nếu không có em, phải không nào?”, anh nói.

“Nhưng đáng ra anh phải đánh thức em dậy. Thật đấy.”

Anh đưa mắt nhìn Richie, đôi lông mày nhướn lên thêm chút nữa, khiến trán anh hiện ra các nếp nhăn, còn mái tóc đen óng mượt hơi co lại. “Anh cho rằng tốt hơn em nên ngủ thêm một chút, đúng không nào?”, anh nói.

Cậu bé Richie ba tuổi lên tiếng. “Đúng rồi.” Cậu hăng hái gật đầu.

Cậu bé mặc một bộ pyjama màu xanh. Cậu cảm thấy rất hạnh phúc khi trông thấy cô và còn hơn cả hạnh phúc, cậu được cứu thoát, được tái sinh, được trải qua những xúc động mạnh mẽ bởi tình yêu. Laura đưa tay về phía túi chiếc váy đang mặc, định tìm một điếu thuốc lá, nhưng rồi đổi ý đưa tay lên vuốt tóc. Quả là gần như hoàn hảo, gần như đầy đủ, khi được làm một bà mẹ trẻ trong căn bếp sơn vàng, đưa tay lên vuốt mái tóc dày sẫm màu của mình, trong lúc mang thai một đứa con nữa. Có những chiếc lá đổ bóng lên các tấm rèm; có cà phê mới pha đang sẵn sàng.

“Chào Bọ con”, cô nói với Richie.

“Con đang ăn ngũ cốc”, con trai cô đáp. Cậu bé cười toe toét. Hay đang liếc nhìn cô với vẻ tinh nghịch thích thú. Rõ ràng cậu bé rất yêu cô; cậu bé vừa buồn cười vừa đáng thương. Cậu con trai đôi lúc làm cô nghĩ tới một chú chuột mê mẩn hát những bản ballad về tình yêu dưới cửa sổ phòng một người đàn bà khổng lồ.

“Tốt”, cô trả lời. “Rất tốt.”

Cậu bé lại gật đầu, như thế họ cùng chia sẻ một bí mật.

“Nhưng một cách trung thực”, cô nói với chồng.

“Tại sao anh phải đánh thức em dậy?”, anh hỏi lại. “Sao em lại không ngủ thêm chút nữa?”

“Hôm này là sinh nhật anh.”

“Em cần nghỉ ngơi.”

Anh thận trọng khẽ vỗ lên bụng cô, như thể đó là vỏ của một quả trứng luộc chưa kĩ. Chưa thể nhìn thấy rõ; biểu hiện duy nhất của cô là hay buồn nôn nhưng rõ ràng có thứ gì đó cựa quậy trong bụng. Cô và chồng cùng con trai là những người đầu tiên sống trong ngôi nhà này. Bên ngoài nhà là một thế giới đầy ắp giá hàng, sóng phát thanh đầy ắp âm nhạc, từng người từng người rảo bước trên đường phố, những chàng trai từng trải qua mất mát cùng nỗi sợ hãi còn kinh hoàng hơn cái chết, những người đã tình nguyện cống hiến tuổi hai mươi của mình và giờ đây, nghĩ tới năm họ bước sang tuổi ba mươi và xa hơn nữa, không còn chút thời gian rảnh rỗi nữa. Quãng thời gian rèn luyện trong chiến tranh đã giúp họ trở thành những con người có ích. Họ cứng cỏi và mạnh mẽ. Họ thức dậy lúc bình minh mà không một lời than phiền.

“Em thích chuẩn bị bữa sáng cho anh”, Laura nói. “Em thấy khỏe mà.”

“Anh có thể chuẩn bị bữa sáng. Không phải chỉ vì anh thức dậy từ lúc mờ sáng mà em cũng phải làm thế.”

“Em muốn thế.”

Chiếc tủ lạnh kêu rì rì. Một con ong bướng bỉnh đập mạnh liên hồi vào khung cửa sổ. Laura lấy gói Pall Malls20 trong túi ra. Cô hơn anh ba tuổi (có điều gì đó tai tiếng một cách mơ hồ, điều gì đó khiến người ta bối rối); một người phụ nữ với đôi vai rộng, góc cạnh, tóc đen, khuôn mặt đượm vẻ ngoại lai, cho dù gia đình cô đã thất bại trong việc tìm thấy sự giàu có ở đất nước này từ hơn một trăm năm nay. Cô rút một điếu ra khỏi bao, rồi đổi ý cho nó trở lại vào trong.

20 Một nhãn hiệu thuốc lá.

“Được rồi”, anh nói. “Nếu em thực sự muốn anh làm thế, sáng mai anh sẽ đánh thức em dậy lúc sáu giờ.”

“Vâng.”

Cô rót cho mình một tách cà phê mà anh đã chuẩn bị. Cô quay lại bên anh, trên tay cầm tách cà phê còn bốc hơi nghi ngút, rồi hôn lên má anh. Anh phát lên mông cô, trìu mến và lơ đãng. Lúc này anh không còn nghĩ đến cô nữa. Anh đang nghĩ tới tương lai, tới việc lái xe vào trung tâm thành phố, tới ánh vàng son bình lặng của đại lộ Wilshire, nơi những cửa hàng vẫn đóng cửa và mới chỉ có những khuôn mặt vui vẻ hăng hái nhất của những chàng trai ưa dậy sớm giống như anh xuất hiện, họ đi lại dưới ánh mặt trời vẫn còn chưa lẫn chút bụi nào của ban ngày. Văn phòng của anh hẳn sẽ hoàn toàn yên ắng, những chiếc máy chữ ở chỗ thư ký vẫn còn phủ khăn che và anh cũng như vài người cùng độ tuổi sẽ có hẳn một giờ đồng hồ hay nhiều hơn nữa để giải quyết các công việc giấy tờ trước khi các máy điện thoại bắt đầu đổ chuông. Có những lúc, thực tế dường như tuyệt vời đến mức không thể tin nổi, khi anh có trong tay một văn phòng và một ngôi nhà mới hai phòng ngủ, những trách nhiệm và quyết định, những bữa trưa hối hả kèm những câu đùa bỡn.

“Những bông hồng đẹp lắm”, Laura nói. “Làm thế nào anh có được chúng sớm vậy?”

“Bà Gar đã có mặt ở tiệm của bà ấy lúc sáu giờ. Anh chỉ việc gõ lên cửa kính cho tới khi bà ấy cho anh vào.” Anh nhìn đồng hồ, mặc dù biết rõ lúc này là mấy giờ. “Ồ, anh phải đi rồi.”

“Chúc anh một ngày tốt đẹp.”

“Em cũng thế.”

“Chúc sinh nhật vui vẻ.”

“Cảm ơn em.”

Anh đứng dậy. Trong một hồi lâu, cả hai người đắm chìm trong khoảnh khắc tiễn anh ra khỏi nhà: lấy áo khoác và cặp; những cái hôn tới tấp; những cái vẫy tay về phía anh của Laura và Richie trên khung cửa trong khi anh quay lưng bước qua bãi cỏ ra xe. Bãi cỏ của nhà họ được tưới nước chăm chỉ đến mức thái quá, ánh lên một màu xanh lấp lánh, gần như không vướng bụi trần. Laura và Richie đứng như hai khán giả đang xem cuộc diễu binh trong lúc anh lái chiếc Chevrolet màu xanh theo đoạn đường ngắn dẫn ra phố. Anh thảnh thơi vẫy tay chào thêm một lần nữa từ sau tay lái.

“Được rồi”, cô nói, sau khi chiếc xe đã đi khuất. Cậu bé ngắm cô đầy trìu mến, trông đợi. Cô là nguyên tố tạo ra sinh khí, là sự sống của ngôi nhà. Những căn phòng nhiều khi quá rộng; đôi lúc, chúng dường như chứa đựng những thứ mà cậu bé chưa bao giờ thấy trước đó. Cậu nhìn cô và đợi.

“Được, đến lúc rồi”, cô nói.

Lúc này chính là khoảnh khắc giao thời của một ngày. Khi có sự hiện diện của chồng, cô thấy bồn chồn hơn nhưng cũng ít sợ hãi hơn. Cô biết cần hành động ra sao. Ở nhà một mình với Richie, đôi lúc cô cảm thấy không thể kiểm soát được. Cậu bé muốn những gì nó muốn một cách say mê cực độ. Nó khóc một cách khó hiểu, đưa ra những yêu cầu không tài nào giải mã được, lẵng nhẵng bám chặt lấy cô, năn nỉ nài xin cô, có lúc tảng lờ cô. Dường như con trai cô luôn trong trạng thái chờ đợi xem cô sẽ làm gì tiếp theo. Cô biết, hay ít nhất cũng nghi ngờ, rằng những bà mẹ khác nhất thiết phải duy trì một loạt các nguyên tắc để hướng dẫn chính mình trải qua một ngày sống bên cạnh một đứa trẻ. Khi chồng có nhà, cô có thể làm được điều đó. Cô có thể thấy anh đang dõi theo cô và cô biết cần làm thế nào để đối xử với con trai mình vừa cứng rắn vừa dịu dàng, với tình mẫu tử đầy trìu mến một cách tự nhiên. Tuy vậy, khi chỉ còn lại một mình cùng đứa trẻ, cô trở nên mất phương hướng. Cô không nhớ được một bà mẹ thì nên hành xử như thế nào.

“Con cần ăn nốt cho xong bữa sáng của mình”, cô nói với con.

“Vâng”, cậu bé đáp.

Hai mẹ con quay vào trong bếp. Chồng cô đã rửa chiếc tách uống cà phê của anh, lau khô và cất nó đi. Cậu bé ngồi xuống, tiếp tục ăn một cách máy móc, xuất phát từ vâng lời nhiều hơn ngon miệng. Laura rót cho cô thêm một tách cà phê nữa, rồi ngồi xuống bên bàn. Cô châm một điếu thuốc lá.

... những âm thanh hân hoan, những tiếng chuông rung và âm thanh giống như của một chiếc máy bay vừa lao vụt qua trên đầu chính là thứ bà yêu; đó là cuộc sống; đó là London; là khoảnh khắc tháng Sáu này.

Cô phả ra một đám khói xám đặc quánh. Và cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Cô đã thức tới hơn hai giờ sáng để đọc sách. Cô áp tay lên bụng - liệu điều đó có hại cho đứa bé không, khi cô ngủ ít đến vậy? Cô vẫn chưa hỏi bác sĩ về chuyện đó; cô sợ anh sẽ yêu cầu cô chấm dứt hoàn toàn thói quen đọc sách. Cô tự hứa tối nay sẽ đọc ít hơn. Muộn lắm là đến nửa đêm cô sẽ đi ngủ.

Cô nói với Richie, “Con đoán xem chúng ta sẽ làm gì hôm nay nào? Chúng ta sẽ làm một cái bánh để mừng sinh nhật bố. Ồ, chúng ta sẽ có một việc rất lớn phải làm đấy.”

Cậu bé nghiêm chỉnh gật đầu với vẻ trầm ngâm. Dường như con trai cô chưa bị thuyết phục về điều đó.

Cô nói, “Chúng ta sẽ làm cho bố chiếc bánh tuyệt nhất. Chiếc bánh tuyệt vời nhất. Con có nghĩ đó là một ý nghĩ hay không?”.

Một lần nữa, Richie lại gật đầu. Cậu bé đợi để xem xem điều gì sẽ diễn ra sau đó. Laura quan sát con trai qua tấm màn mờ mờ của làn khói thuốc. Cô sẽ không lên gác và quay lại với cuốn sách của mình. Cô sẽ ở lại. Cô sẽ làm tất cả những gì cần làm và có thể còn hơn thế nữa.