Clarissa ôm chỗ hoa vừa mua ở tiệm tới đường Spring. Bà hình dung ra Barbara vẫn đang đứng trong không gian tranh tối tranh sáng dịu mát phía bên kia cánh cửa, tiếp tục sống trong quá khứ, đó là điều Clarissa không thể thôi nghĩ tới (theo một cách nào đó, nó có liên quan tới nỗi phiền muộn của Barbara, cũng như những dải ruy băng treo tường trong tiệm) trong khi bản thân bà đang bước đi trong thực tại: có một cậu bé gốc Hoa nhấp nhổm đạp xe lao vụt qua bên cạnh; con số 281 mạ vàng trên tấm kính đen; những chú chim bồ câu rải rác đây đó với đôi chân có màu của những cục tẩy (một con chim đã bay vụt vào qua khung cửa sổ đang mở của phòng học một cách rất đáng sợ khi bà học lớp Bốn); đường Spring; và đây là chính bà, với một bó hoa to trong tay. Bà sẽ ghé qua căn hộ của Richard xem ông ra sao (gọi điện thoại chỉ vô ích vì ông không bao giờ trả lời), nhưng trước tiên bà bước tới và đứng lại, với một vẻ đầy trông đợi, không quá gần toa moóc nơi cái đầu nổi tiếng vừa ló ra lúc nãy. Một đám đông nho nhỏ đang xúm lại ở đó, phần lớn là khách du lịch và Clarissa đứng bên hai cô gái trẻ, một cô có mái tóc nhuộm màu hoàng yến, còn cô gái kia nhuộm tóc màu bạch kim. Clarissa tự hỏi liệu hai cô gái cố tình làm như thế có phải để gợi nhớ tới mặt trời và mặt trăng không nhỉ.
Mặt trời nói với Mặt Trăng, “Đó là Meryl Streep, chắc chắn là Meryl Streep”.
Clarissa không khỏi thấy phấn khích. Bà đã đúng. Người ta luôn cảm thấy hài lòng khi biết ý kiến của mình được ai đó chia sẻ.
“Không thể nào”, Mặt Trăng nói. “Đó là Susan Sarandon.”
Không thể là Susan Sarandon, Clarissa nghĩ. Có thể là Vanessa Redgrave, nhưng chắc chắn không thể là Susan Sarandon.
“Không”, Mặt Trời nói, “đó là Streep. Tin tớ đi”.
“Không phải là Meryl Streep.”
“Phải. Chắc chắn phải.”
Clarissa đứng đó với cảm giác đầy tội lỗi, ôm lấy những bông hoa, hy vọng ngôi sao nọ sẽ ló mặt ra lần nữa, đồng thời cũng bối rối trước sự quan tâm của chính mình. Bà không phải là người quá vồn vã thích săn đón những người nổi tiếng và phần lớn những người khác cũng vậy, nhưng không thể cưỡng lại sự thu hút về phía vầng hào quang của danh tiếng - và còn hơn cả danh tiếng, thực ra có thể gọi là sự bất tử - được tạo ra bởi sự hiện diện của một ngôi sao điện ảnh trên một toa xe moóc tại góc giao giữa đường MacDougal và đường Spring. Hai cô gái đứng bên Clarissa chắc mới hai mươi tuổi hoặc trẻ hơn, khỏe khoắn, so vai đứng chen nhau, tay xách nách mang lỉnh kỉnh những chiếc túi màu mè của các cửa hàng hạ giá; hai cô gái này rồi sẽ lớn lên, tới tuổi trung niên rồi về già, khô héo hay phát phì; những nghĩa trang nơi họ được chôn cất rồi sẽ chìm vào cảnh hoang tàn, cỏ dại mọc đầy, chó tìm đến gặm xương vào ban đêm; và khi tất cả những gì còn lại của hai cô gái là vài mảnh bạc trám răng bị vùi lấp dưới lòng đất thì người phụ nữ trong toa xe moóc, dù cô ta là Meryl Streep hay Vanessa Redgrave, thậm chí là Susan Sarandon đi nữa, vẫn sẽ được người đời biết đến. Cô ta sẽ tồn tại trong các kho lưu trữ, trong các cuốn sách; giọng nói của cô ta sẽ được lưu trữ cùng những hiện vật quý giá khác. Clarissa cho phép mình tiếp tục đứng đó, ngơ ngẩn như bất cứ người hâm mộ nào, khấp khởi hy vọng được thấy ngôi sao xuất hiện. Phải, chỉ vài phút nữa thôi, trước khi cảm giác mất mặt trở nên không thể chịu đựng được nữa. Bà nán lại trước toa moóc với bó hoa trên tay. Chăm chú quan sát cánh cửa. Vài phút đã trôi qua (thật ra là gần mười phút, dù bà ghét cay ghét đắng phải thừa nhận chuyện này), bà đột ngột bỏ đi một cách đầy phẫn nộ, như thể đã bị lừa dối và rảo bước qua mấy khối nhà theo hướng vào trung tâm thành phố để tới căn hộ của Richard.
Khu vực này một thời từng là trung tâm của một thứ gì đó mới mẻ và hoang dại; một thứ đầy tai tiếng; nơi tiếng đàn guitar vọng ra suốt đêm từ các quán bar và quán cà phê; nơi các cửa hàng sách và quần áo tỏa ra mùi mà bà hình dung sẽ bắt gặp trong các khu chợ Ả Rập: đó là mùi trầm hương sực nức, mùi gì đó khăn khẳn, mùi của một loại gỗ thơm nào đó (bách hương hay long não?), thứ gì đó có mùi của quả ung; nếu chọn nhầm cánh cửa hay con hẻm để bước vào, có thể bạn sẽ phải đối diện với cuộc gặp gỡ định mệnh: không đơn giản là đe dọa trấn lột hay hành hung thông thường mà là một thứ tai ác và biến thái hơn, thường trực hơn. Tại đây, ở chính nơi này, tại chính góc đường này, bà đã đứng cùng Richard năm ông mười chín tuổi - khi Richard còn là một thanh niên tóc đen có khuôn mặt cương nghị, đôi mắt lạnh lùng, không hẳn đẹp trai, với cái cổ trắng dài và duyên dáng đến mức không thể tin nổi - họ đã đứng đây và tranh luận... về cái gì nhỉ? Một nụ hôn chăng? Có phải Richard đã hôn bà, hay chính bà, Clarissa tin rằng Richard sắp sửa hôn mình và tìm cách trốn tránh nó? Tại đây, nơi góc đường này (đối diện với chỗ trước đây từng là nơi bán ma túy, còn hiện giờ là cửa hàng bán đồ ăn sẵn) hai người từng hôn nhau, mà cũng có thể là không, nhưng chắc chắn họ đã tranh luận và ngay tại đây, hay ở chỗ nào khác không lâu sau đó, hai người đã chấm dứt cuộc thử nghiệm nho nhỏ của họ, vì Clarissa muốn có tự do và Richard muốn, phải rồi, quá nhiều, chẳng phải ông vẫn luôn như thế sao? Ông muốn quá nhiều. Bà từng nói với ông rằng những gì xảy ra trong mùa hè chính xác là như thế. Tại sao ông lại muốn bà, một cô gái hay nhăn nhó và dè dặt, chẳng có tí ngực nào (bằng cách nào ông lại có thể trông đợi bà tin vào đam mê của mình?), trong khi ông cũng biết rõ những khao khát sâu đậm nhất của mình nghiêng về đâu, trong khi ông đã có Louis, một Louis với đôi chân săn chắc và không hề ngu ngốc, một chàng trai mà Michelangelo21 sẽ rất vui lòng được vẽ lại? Liệu đó có phải chỉ đơn thuần là một ý tưởng đầy thi vị nữa của Richard về bà? Hai người không gây ra một cuộc cãi cọ ầm ĩ hay màn động chân động tay nào, chỉ đơn giản là một cuộc cãi nhau vặt vãnh ở góc đường - không chuyện gì có thể làm tổn hại tới tình bạn giữa hai người - dẫu vậy, khi hồi tưởng lại, bà cảm thấy chuyện đó dường như thật rõ ràng; dường như đó chính là khoảnh khắc một khả năng chấm dứt và được thay thế bằng một khả năng khác. Ngày hôm đó, sau cuộc cãi vã (hay có thể là trước đó), Clarissa đã mua một gói trầm hương và một chiếc áo khoác cũ bằng lông lạc đà không bướu màu xám, với những chiếc cúc bằng xương hình hoa hồng. Richard rốt cuộc đã bỏ đi châu Âu cùng Louis. Lúc này Clarissa thầm tự nhủ, chuyện gì đã xảy ra với chiếc áo khoác lông đó nhỉ? Dường như bà đã có nó trong nhiều năm nhưng rồi đột nhiên không thấy đâu nữa.
21 Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni (6/3/1475 - 18/2/1564), thường được gọi là Michelangelo, là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhà thơ và kỹ sư thời kỳ Phục hưng.
Bà rẽ xuống đường Bleeker, rồi đi ngược lên Thompson. Khu vực này ngày nay chỉ là sự bắt chước của chính nó trước kia, một ngày hội kém thú vị dành cho khách du lịch và Clarissa, ở tuổi năm mươi hai, biết rằng phía sau những cánh cửa và trong những con hẻm kia ẩn chứa những con người đang sống cuộc sống của họ, không hơn không kém. Thật lố bịch, một số quán bar và quán cà phê vẫn còn ở đây, lúc này đã được nhất loạt chỉnh sửa lại y như nhau theo đúng gu ưa thích của những người Đức và người Nhật. Tất cả các cửa hàng nói chung đều bán cùng một thứ: áo phông lưu niệm, đồ bạc và áo khoác da rẻ tiền.
Tới tòa nhà nơi Richard sống, bà bước qua cánh cửa dẫn vào tiền sảnh và nghĩ tới từ “bẩn thỉu”, như bà vẫn thường nghĩ. Lối vào tòa nhà minh họa hoàn hảo cho khái niệm bẩn thỉu. Nơi này bẩn đến mức khủng khiếp, đến mức vẫn khiến bà ít nhiều kinh ngạc, ngay cả sau từng ấy năm. Nó khiến bà ngạc nhiên giống như cách một món đồ quý hiếm hay một tác phẩm nghệ thuật vẫn tiếp tục làm người ta ngỡ ngàng; chỉ đơn thuần vì nó tồn tại qua thời gian một cách toàn vẹn. Thật ngạc nhiên làm sao, những bức tường màu be đã nhạt nhòa, ít nhiều giống như màu của một chiếc bánh bột dong; đèn huỳnh quang lắp trên trần đang tỏa ra những luồng sáng chập chờn lập lòa như sóng nước. Tệ hơn nữa - hơn rất nhiều - là gian tiền sảnh nhỏ xíu chật chội đã được cải tạo nửa vời một thập kỷ trước. Lúc này trông nó còn đáng ngán hơn nhiều, với tấm vải nhựa trải sàn in hình gạch men trắng lấm bẩn và cây sanh giả, so với bộ dạng hư nát ban đầu. Chỉ có những miếng đá cẩm thạch ốp chân tường cũ - màu lông của ngựa giống palomino22, có những vân xanh biển và xám, với những mảng nổi lên vàng sẫm như khói, giống một thứ pho mát mịn để lâu, giờ đây đang bị những bức tường vàng ệch nhại lại một cách thật gớm ghiếc - cho biết nơi đây đã từng có thời là một tòa nhà ít nhiều có đẳng cấp; rằng đã có lúc những niềm hy vọng được nuôi dưỡng tại đây, rằng khi bước vào tiền sảnh này, người ta đã trông đợi sẽ tìm thấy một nơi có phong cách, một nơi chứa đựng điều gì đó đáng để sở hữu.
22 Một giống ngựa lông vàng với lông bờm và đuôi sáng màu.
Bà vào trong thang máy, đó là một gian buồng tí xíu được ốp những tấm kim loại giả vân gỗ và chói lóa đến mức gần như trắng bệch bởi một thứ ánh sáng cường độ cao; rồi bà bấm nút chọn lên lầu năm. Cửa thang máy cọt kẹt đóng lại. Không có gì xảy ra. Tất nhiên rồi. Thang máy ở đây chỉ thỉnh thoảng mới hoạt động; trên thực tế, thật nhẹ nhõm khi có thể từ bỏ nó để đi bằng cầu thang bộ. Clarissa bấm chiếc nút có chữ “O” màu trắng đã sứt mẻ và sau một phút ngập ngừng đáng e ngại, cánh cửa lại cọt kẹt mở ra. Bà luôn sợ bị kẹt lại giữa các tầng trong cái thang máy này - bà rất dễ dàng hình dung ra quãng thời gian chờ đợi dài dằng dặc; tiếng kêu gào gọi cứu giúp tới những người thuê nhà có thể nói được tiếng Anh hoặc không, họ có thể bận tâm mà cũng có thể lờ đi; nỗi sợ hãi khiến người ta đờ đẫn và cứng lại như đã chết khi phải đứng một mình, trong một khoảng thời gian tương đối dài, trong khoảng không gian trống rỗng sáng lóa và ngột ngạt này, có thể nhìn hoặc không nhìn vào hình ảnh méo mó của chính mình trong chiếc gương tròn mờ đục treo trên góc cao bên phải. Quả thực sẽ tốt hơn nhiều khi phát hiện ra thang máy không hoạt động và đi bộ lên năm tầng gác. Được tự do vẫn tốt hơn nhiều.
Bà leo lên cầu thang, cảm thấy vừa mệt mỏi vừa háo hức, giống như một cô dâu - vẫn còn trong trắng - với bó hoa to trên tay. Những bậc cầu thang sứt mẻ, mòn vẹt ở khoảng giữa, được làm bằng một thứ vật liệu đặc biệt nào đó màu cà phê sữa, có vẻ giống như cao su. Tại mỗi chỗ trong bốn đầu cầu thang, một khung cửa sổ mở ra cho phép người ta có thể nhìn thấy những dây phơi đầy quần áo; trên đó là những tấm ga trải giường bằng vải hoa, đồ trẻ con, quần thể thao; mang trên mình vẻ mới tinh rẻ tiền; không phải là những món quần áo kiểu cũ - tất ngắn sẫm màu và những món đồ lót cầu kỳ của phụ nữ, những bộ đồ mặc trong nhà đã bạc màu, những chiếc áo sơ mi trắng tinh đến lóa mắt - hẳn sẽ làm luồng không khí có vẻ gì đó bình thường nhưng thật kỳ diệu. Bẩn thỉu, bà lại thầm nghĩ. Chỉ đơn giản là bẩn thỉu.
Lối đi tới căn hộ của Richard, tường cũng được sơn màu bánh bột dong, vẫn còn lát gạch men (thật bí hiểm, những tấm vải trải sàn chỉ lên tới tầng hai); bên rìa lối đi có trang trí hoa văn hình những bông hoa màu vàng nhạt, có một đầu mẩu thuốc lá dính son môi. Clarissa gõ cửa căn hộ của Richard, ngừng lại, rồi lại gõ lần nữa.
“Ai đấy?”
“Là em.”
“Ai?”
“Clarissa.”
“A, bà D. Ồ, em vào đi.”
Bà thầm nghĩ, chẳng phải đã đến lúc đoạn tuyệt với những biệt danh cũ rồi sao? Nếu ông cảm thấy hôm nay đủ tốt lành, bà sẽ đưa chuyện này ra: Richard, anh không nghĩ là đã đến lúc gọi em là Clarissa rồi sao?
Bà mở cửa bằng chìa khóa của mình. Bà có thể nghe thấy Richard đang nói trong phòng với giọng khe khẽ, đầy thú vị, như thể ông đang tiết lộ ra những bí mật đầy tai tiếng. Bà không rõ ông đang nói gì - bà nghe được từ “phóng”, kéo theo đó là tiếng cười khùng khục trầm trầm của Richard, một âm thanh có phần đau đớn, như thể tiếng cười giống một vật gì đó sắc nhọn mắc kẹt lại trong họng ông.
Được rồi, Clarissa thầm nghĩ, hôm nay không phải là ngày thích hợp, tất nhiên rồi, để bàn tới những cái tên.
Bằng cách nào bà có thể bực bội với Evan và tất cả những người khác vì họ đã kịp thời có được các loại thuốc mới; tất cả những người đàn ông và đàn bà may mắn (“may mắn” ở đây tất nhiên là một khái niệm tương đối) chưa bị virus gặm nhấm hết tinh thần. Bằng cách nào bà có thể cảm thấy phẫn nộ thay cho Richard, một người mà cơ bắp và nội quan đã được khôi phục nhờ các sáng chế mới, nhưng tinh thần dường như đã bị thương tổn quá mức để có thể phục hồi ngoài việc nhận biết những ngày tốt đẹp giữa những ngày tồi tệ.
Như mọi khi, căn hộ của ông vẫn tối tăm, kín mít, nóng nực, ngập mùi tinh dầu ngải đắng và bách xù mà Richard đã đốt để át đi mùi bệnh tật. Căn hộ lộn xộn tới mức không thể mô tả bằng lời, đôi chỗ được chiếu bởi những quầng sáng tròn vàng vọt tỏa ra từ những cây đèn chụp nâu, Richard sẽ không chấp nhận bất cứ bóng đèn nào công suất lớn hơn mười lăm watt. Căn hộ đem đến cho người ta cảm giác như đang ở dưới nước. Clarissa len lỏi bước đi như thể đang lần mò trong khoang một con tàu đắm. Cũng không đáng ngạc nhiên nếu bà bắt gặp một đàn cá màu bạc lao vút qua, trong cảnh tranh tối tranh sáng này. Theo bất cứ cách nhìn nhận nghiêm túc nào, những căn phòng này dường như không phải là một phần của tòa nhà, khi bước vào và đóng cánh cửa trước với bốn ổ khóa luôn kêu cọt kẹt (trong đó hai chiếc đã hỏng), bà luôn có cảm giác như thể đang trải qua một thay đổi lớn về kích thước - giống như chui qua kính lúp, vậy đấy; như thể gian tiền sảnh, khu cầu thang và lối đi bên ngoài đều thuộc về một thế giới hoàn toàn khác, một thời gian hoàn toàn khác.
“Chúc anh một buổi sáng tốt lành”, bà lên tiếng.
“Vẫn còn là buổi sáng sao?”
“Phải. Vẫn còn.”
Richard ở trong căn phòng thứ hai. Căn hộ chỉ gồm hai phòng: phòng bếp (chính là phòng đầu tiên khi bước vào) và căn phòng lớn thứ hai, nơi cuộc sống của Richard (thật ra là những gì còn lại) diễn ra. Clarissa đi qua phòng bếp, có một cái bếp kiểu cổ và một bồn tắm lớn màu trắng (mờ mờ như cẩm thạch), mùi ga và dụng cụ nấu ăn thoang thoảng, cùng đống thùng các tông xếp chồng lên nhau đầy ắp... ai mà biết nổi là những thứ gì, tấm gương hình oval khung mạ vàng phản chiếu lại khuôn mặt nhợt nhạt của bà (luôn khiến người ta hơi sốc, dù có chuẩn bị tinh thần đến đâu đi nữa). Theo năm tháng, bà đã quen với việc tảng lờ tấm gương đó.
Đây là chiếc máy pha cà phê Ý bà đã mua cho ông, làm bằng hợp kim chrom và thép màu xám, bị phủ bụi sau thời gian dài không được dùng đến. Còn đây là mấy cái chảo đồng bà mua dạo trước.
Trong căn phòng còn lại, Richard đang ngồi trên ghế. Rèm đều được kéo xuống và toàn bộ sáu hay bảy cây đèn đều bật sáng, cho dù khả năng phát sáng yếu ớt của chúng gộp lại gần như chỉ ngang với công suất chiếu sáng của một chiếc đèn bàn thông thường. Richard ngồi ở tận góc đằng xa trong bộ áo choàng mặc ở nhà lố bịch bằng vải flanen (một bộ đồ ngủ trẻ con trong phiên bản dành cho người lớn, màu xanh mực, bên trên in đầy tên lửa và các nhà du hành vũ trụ đội mũ bay chuyên dụng), trông vừa đáng kính trọng và vương giả, lại thật ngốc nghếch, giống như một bà hoàng bị chết ngạt vẫn ngồi trên ngai vàng.
Thôi không lẩm bẩm nữa, ông ngồi im, đầu hơi ngả ra sau, hai mắt nhắm lại như thể đang nghe nhạc.
“Chúc anh buổi sáng tốt lành, Richard yêu quý”, Clarissa lặp lại.
Ông mở mắt ra. “Hãy xem những bông hoa kìa.”
“Chúng dành cho anh đấy.”
“Anh chết rồi ư?”
“Chúng là để cho bữa tiệc. Cơn đau đầu của anh sáng nay thế nào rồi?”
“Đỡ nhiều rồi. Cảm ơn em.”
“Anh ngủ được không?”
“Anh cũng không nhớ nữa. Có. Anh tin là mình có ngủ. Cảm ơn em.”
“Richard, hôm nay là một ngày mùa hè tuyệt đẹp. Anh thấy sao nếu em để chút ánh sáng lọt vào?”
“Nếu em thích.”
Bà đi tới bên khung cửa gần nhất trong số ba cửa sổ và sau một chút khó khăn, kéo tấm rèm lên. Ánh sáng nhẹ nhàng của ban ngày - những tia nắng chiếu vào giữa tòa nhà có căn hộ của Richard và tòa nhà xây bằng gạch màu chocolate nằm cách đó mười lăm foot23 - lọt vào trong phòng. Đối diện với con hẻm chạy giữa hai tòa nhà là cửa sổ căn hộ của một bà góa già cáu kỉnh với những bức tượng bằng thủy tinh và gốm đặt trên bậu cửa (một con lừa đang kéo xe, một chú hề, một con sóc đang nhe răng cười toe toét) và tấm mành chớp. Clarissa quay lại. Khuôn mặt hốc hác với những nếp nhăn hằn sâu vào da thịt, vầng trán cao bóng loáng và chiếc mũi giống như của một võ sĩ quyền anh vừa bị nện bầm dập, dường như tất cả đều vươn ra từ bóng tối như một bức tượng bị chìm trong lòng đất vừa được kéo lên bề mặt.
23 1 foot = 0,3 m.
“Sáng khiếp lên được”, ông nói.
“Ánh sáng rất tốt cho anh.”
Bà đến bên ông, hôn lên vầng trán cong cong. Những lúc gần nhau như thế này, bà có thể ngửi thấy những tâm trạng khác nhau của ông. Lỗ chân lông của ông không chỉ tiết ra thứ mồ hôi quen thuộc (mà bà luôn thấy chúng có mùi thật dễ chịu, dính như hồ, chua chua, mùi của rượu vang) mà còn cả mùi thuốc ông đang sử dụng, vị bột ngòn ngọt. Từ người ông cũng toát ra mùi vải flanen không mấy sạch sẽ (cho dù quần áo của ông được giặt mỗi tuần một lần, thậm chí còn thường xuyên hơn) và hơi thoang thoảng (đó là thứ mùi khó ngửi duy nhất trên người ông) mùi của chiếc ghế nơi ông ngồi cả ngày.
Chiếc ghế của Richard là một vật thể đặc biệt, nó là chiếc ghế của một người nếu không thực sự mất trí thì cũng đã để mọi việc trượt đi quá xa, từ bỏ triệt để mọi chăm sóc thông thường - vệ sinh cá nhân, ăn uống điều độ - tới mức thật khó lòng có thể phân định giữa mất trí và tuyệt vọng chính xác được nữa. Một chiếc ghế bành cũ kỹ vuông chằn chặn bị bọc quá dày đến nỗi phải loay hoay giữ thăng bằng cho mình trên những cái chân gỗ mỏng mảnh màu vàng hoe. Nó đã bị hỏng và hoàn toàn vô giá trị. Tấm vải bọc lấm chấm không ra màu sắc gì, mềm như len, được may bằng chỉ bạc (theo một cách nào đó, chi tiết này chính là phần làm cho người ta thấy ghê nhất). Hai tay vịn vuông góc và lưng tựa của chiếc ghế đã bị sờn đi, sẫm màu do sự chà xát và mồ hôi của người ngồi, trông như phần da mềm chưa thuộc của một con voi. Có thể nhìn rõ mồn một những chiếc lò xo - những hàng ngay ngắn của lò xo màu xám nhạt hoen gỉ - qua chiếc khăn tắm mỏng dính màu vàng mà Richard đã rải lên trên lớp đệm. Từ chiếc ghế bốc lên mùi hôi hám, ẩm ướt, bẩn thỉu; mùi của sự thối rữa vô phương cứu vãn. Nếu mang chiếc ghế này ném ra ngoài đường thì chắc cũng không ai muốn nhặt. Song Richard nhất định không muốn thay thế nó.
“Họ có tới đây hôm nay không?”, Clarissa hỏi.
“Không”, Richard đáp, với vẻ thành thật miễn cưỡng của một đứa trẻ. “Giờ thì bọn họ biến hết rồi. Bọn họ đẹp đẽ nhưng cũng khá kinh khủng.”
“Phải”, bà nói. “Em biết.”
“Anh nghĩ họ giống như khói và lửa, ý anh là họ vừa đen tối vừa rực sáng. Có một anh chàng trông hơi giống một con sứa phóng điện đen ngòm. Mới ngay vừa rồi thôi, họ hát bằng tiếng nước ngoài. Anh tin đó là tiếng Hy Lạp. Tiếng Hy Lạp cổ.”
“Anh có sợ họ không?”
“Không. À có, đôi khi.”
“Em nghĩ em sẽ trao đổi với Bing về việc tăng liều điều trị lên cho anh, như thế có được không?”
Ông thở dài mệt mỏi. “Đôi lúc anh không nghe thấy hay nhìn thấy bọn họ không có nghĩa họ đã bỏ đi”, ông nói.
“Nhưng nếu anh không nghe thấy hay nhìn thấy họ nữa”, Clarissa nói, “anh có thể nghỉ ngơi. Nói thật cho em, anh đã không ngủ được cả đêm hôm qua, đúng không?”.
“Ồ, một chút. Anh không lo lắng lắm về chuyện ngủ nghê. Anh thấy lo cho em nhiều hơn. Trông em gầy quá, em thấy trong người thế nào?”
“Em ổn cả. Em chỉ có thể nán lại một chút thôi. Em cần cắm chỗ hoa này trong nước.”
“Phải rồi, phải rồi. Những bông hoa, bữa tiệc. Ôi trời ơi.”
“Em trông thấy một ngôi sao điện ảnh trên đường đi đến đây”, Clarissa nói. “Em nghĩ rất có thể đó là một điềm may mắn, anh không thấy vậy sao?”
Richard mỉm cười buồn bã. “À, phải rồi, những điềm báo”, ông nói. “Em có tin vào chúng không? Em có cho rằng chúng ta bận tâm nhiều tới chúng không? Liệu em có nghĩ những chuyện như thế khiến chúng ta lo lắng không? Trời ạ, như vậy chẳng phải thật tuyệt sao? Thế thì, rất có thể là vậy đấy.”
Ông sẽ không hỏi tên ngôi sao điện ảnh, ông thực sự không bận tâm. Richard là người duy nhất trong số những người Clarissa quen biết không hề quan tâm tới những nhân vật nổi tiếng. Richard thực sự không thể nhận ra sự nổi bật kiểu như vậy. Clarissa thầm nghĩ, điều đó là sự kết hợp giữa cái tôi khổng lồ và hội chứng thiểu năng thiên tài24. Richard không thể hình dung ra một cuộc sống đáng quan tâm và giá trị hơn cuộc sống của những người ông quen và của chính ông; vì lý do đó nên người ta thường cảm thấy thật cao hứng, nở mày nở mặt khi ông có mặt. Ông không tự cao tự đại hay hạ thấp người khác. Ông là một kẻ tự phụ theo hướng đối lập, bị thúc đẩy bởi những gì hùng vĩ lớn lao hơn là bởi sự tham lam, như thể ông luôn khăng khăng lựa chọn ở bạn một phiên bản vui vẻ hơn, lạ lùng hơn, lập dị hơn và sâu sắc hơn - có thể tốt đẹp hơn hoặc tai hại hơn - và bạn không thể không tin điều đó. Chỉ mình ông mới nhìn thấu được phần cốt lõi của bạn, đánh giá được các phẩm chất thực của bạn (không nhất thiết tất cả là tán tụng - sự khiếm nhã vụng về, trẻ con là một phần phong cách của ông) và tán thưởng bạn hơn bất kỳ ai khác. Chỉ sau khi đã biết rõ ông một thời gian, bạn mới bắt đầu nhận ra rằng, với ông, cơ bản bạn chỉ là một nhân vật hư cấu, nhân vật ông đã sáng tạo ra với khả năng gần như vô tận, về cả bi kịch lẫn hài kịch, không phải vì đó là bản chất thực sự của bạn mà vì Richard cần sống trong một thế giới tràn ngập những nhân vật cực đoan và nổi bật. Một số người đã chấm dứt quan hệ với ông thay vì tiếp tục làm nhân vật trong những bài thơ tuyệt vời, những câu chuyện về cuộc đời và niềm đam mê của ông mà ông luôn bận bịu sáng tác trong đầu mình; song một số người khác (trong đó có Clarissa) lại thích thú với sắc thái mà ông mang tới cho cuộc sống của họ, thích thú tới mức trở nên lệ thuộc vào nó, giống như cách họ lệ thuộc vào cà phê để tỉnh táo mỗi buổi sáng, hay một hoặc hai ly rượu để giúp họ chìm vào giấc ngủ mỗi tối.
24 Savantism: một hội chứng mà người mắc phải có những khiếm khuyết nhất định về phát triển toàn diện nhưng lại có năng khiếu nổi trội bất thường về một lĩnh vực cụ thể như âm nhạc, toán học...
Clarissa nói, “Đôi khi mấy chuyện mê tín cũng làm người ta được an ủi, em không biết tại sao anh lại cương quyết từ chối mọi sự an ủi như thế”.
“Thật thế sao? Ồ, anh không hề có ý đó. Anh thích sự an ủi. Một vài thứ trong số chúng. Anh rất thích vài thứ trong số chúng.”
“Anh cảm thấy trong người thế nào?”
“Tốt. Rất tốt. Ít nhiều phù du. Anh vẫn luôn mơ mình đang ngồi trong một căn phòng.”
“Bữa tiệc bắt đầu lúc năm giờ, anh còn nhớ chứ? Bữa tiệc lúc năm giờ, sau đó là buổi lễ, lúc tám giờ, trong trung tâm thành phố. Anh nhớ tất cả rồi, đúng không?”
Ông nói, “Đúng”.
Rồi lại nói, “Không”.
“Thế là thế nào?”, bà hỏi.
“Anh xin lỗi. Dường như anh luôn nghĩ rằng những chuyện đó đã diễn ra rồi. Khi em hỏi anh có còn nhớ về bữa tiệc và buổi lễ không, anh lại nghĩ rằng em muốn hỏi anh có nhớ đã tới dự chúng chưa. Và anh có nhớ. Dường như anh đã rơi ra khỏi dòng chảy thời gian.”
“Bữa tiệc và buổi lễ sẽ diễn ra tối nay. Trong tương lai ấy.”
“Anh hiểu. Theo cách nào đó, anh hiểu. Nhưng em thấy đấy, dường như anh cũng đã tới tương lai rồi. Anh có một hồi ức rất rõ rệt về bữa tiệc mặc dù vẫn chưa diễn ra. Anh có thể nhớ buổi lễ trao giải một cách hoàn hảo.”
“Sáng nay họ có mang bữa sáng tới cho anh không?”, bà hỏi.
“Hỏi gì lạ thế. Đương nhiên là có rồi.”
“Và anh đã ăn hết?”
“Anh nhớ là có ăn. Nhưng có thể đó chỉ là anh nghĩ như vậy. Có bữa sáng nào để đâu đó quanh đây không?”
“Theo những gì em thấy cho đến lúc này thì không.”
“Vậy có lẽ anh đã ăn hết được nó. Thức ăn cũng chẳng có ý nghĩa gì nhiều, đúng không nào?”
“Thức ăn có ý nghĩa rất lớn đấy, Richard.”
Ông nói, “Anh không biết có thể chịu đựng được điều đó đâu, Clarissa”.
“Chịu đựng điều gì?”
“Tỏ ra kiêu hãnh và can đảm trước mặt tất cả mọi người. Anh vẫn còn nhớ rất rõ ràng. Anh, một gã bệnh hoạn ốm yếu, điên rồ đưa hai bàn tay run lẩy bẩy ra nhận giải thưởng nhỏ xíu.”
“Anh thân mến, anh không cần phải kiêu hãnh. Anh không cần phải can đảm. Đó không phải là một cuộc chơi.”
“Tất nhiên rồi. Anh nhận được một phần thưởng cho diễn xuất của mình, em phải biết điều đó. Anh dành được một giải thưởng vì mắc bệnh AIDS, trở nên tàn tạ và can đảm chịu đựng nó, chuyện này chẳng liên quan quái gì tới tác phẩm của anh cả.”
“Thôi đi. Làm ơn đi anh. Nó có quan hệ rất nhiều tới tác phẩm của anh.”
Richard hít vào và thở ra một hơi mạnh mẽ. Clarissa nghĩ tới hai lá phổi của ông, giống hai chiếc gối đỏ chằng chịt các mạch máu. Chúng lại là một trong những cơ quan ít bị tổn thương nhất - vì những lý do không thể lý giải được, chúng gần như vẫn chưa bị virus xâm hại. Với nhịp thở sâu, đôi mắt ông dường như trở nên tập trung hơn, hai tròng mắt trở nên xanh hơn, sâu hơn.
“Em có nghĩ họ sẽ trao nó cho anh nếu anh khỏe mạnh không?”, ông nói.
“Sao cơ, có chứ, em thực sự tin là có.”
“Làm ơn đi mà.”
“Thôi được rồi, có lẽ anh nên từ chối giải thưởng này.”
“Điều tệ hại chính là thế đấy”, Richard nói. “Anh muốn có giải thưởng. Anh thực sự muốn. Sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu người ta quan tâm nhiều hơn hoặc ít hơn tới chuyện đoạt giải. Nó ở đâu đó quanh đây phải không?”
“Cái gì cơ?”
“Giải thưởng. Anh muốn nhìn thấy nó.”
“Anh vẫn chưa có được nó. Phải đợi đến tối nay.”
“Phải. Đúng rồi. Tối nay.”
“Richard yêu quý, nghe em này. Chuyện này rất đơn giản. Anh có thể có được một niềm vui đơn giản. Em sẽ ở đó cùng anh, từng giây từng phút.”
“Anh thích thế.”
“Đó là một bữa tiệc. Chỉ là một bữa tiệc. Sẽ toàn những người tôn trọng và ngưỡng mộ anh.”
“Thật ư? Những ai vậy?”
“Anh biết là những ai mà. Howard. Elisa. Martin Campo.”
“Martin Campo ư? Ôi, Chúa ơi.”
“Em nghĩ anh thích ông ta. Anh vẫn luôn nói thế mà.”
“À, phải, đúng rồi, vậy thì anh phải tin sư tử cũng ưa người trông coi sở thú chứ.”
“Martin Campo đã xuất bản những cuốn sách của anh hơn ba mươi năm qua.”
“Còn ai nữa sẽ đến?”
“Chúng ta đã nói đi nói lại mãi chuyện này rồi. Anh biết rõ những ai sẽ đến mà.”
“Em không thể cho anh biết thêm một cái tên nữa sao? Hãy cho anh biết tên ai đó quả cảm một chút.”
“Anh không nghĩ Martin Campo là một người quả cảm sao? Ông ấy đã dùng toàn bộ tài sản của gia đình để xuất bản những cuốn sách quan trọng nhưng khó đọc mà ông ấy biết sẽ không bán nổi.”
Richard nhắm mắt lại, tựa cái đầu hốc hác lên tấm bọc nhớp nháp của chiếc ghế. “Được, vậy thì cứ chấp nhận là thế đi”, ông nói.
“Anh không cần phải tỏ ra lôi cuốn hay thú vị. Anh không cần phải trình diễn gì hết. Những người này đặt niềm tin vào anh từ lâu, rất lâu rồi. Tất cả những gì anh phải làm là xuất hiện, ngồi trên ghế sô pha, có thể cầm một ly đồ uống trên tay hoặc không, lắng nghe hoặc không, có thể mỉm cười hay không cũng được. Chỉ có vậy thôi. Em sẽ để ý giúp anh.”
Bà muốn ôm lấy đôi vai xương xẩu của ông và lắc thật mạnh. Richard có thể (mặc dù người ta luôn do dự) được ưu ái; vào những khoảnh khắc cuối cùng của sự nghiệp, có thể ông sẽ được thừa nhận trong tương lai (giả sử, tất nhiên, nếu có một tương lai nào đó). Một giải thưởng như giải ông sắp được trao tặng có ý nghĩa hơn nhiều so với sự chú ý của một đại hội các nhà thơ và học giả; nó có nghĩa là tự thân văn học (mà tương lai đang được định hình vào ngay lúc này) dường như cũng cảm thấy cần có sự cống hiến riêng biệt của Richard: những lời than khóc dài dòng đầy thách thức ông dành cho những thế giới đang lụi tàn hay đã hoàn toàn mất đi. Trong khi chưa có gì bảo đảm, dường như hoàn toàn có thể, mà thậm chí còn hơn cả có thể, rằng Clarissa cùng một nhóm nhỏ khác đã luôn đúng từ đầu. Richard nặng nề, sầu muộn, cẩn thận tỉ mỉ, Richard người luôn quan sát một cách chi li tường tận, người luôn cố gắng xẻ nhỏ cả nguyên tử bằng ngôn từ, sẽ tồn tại lâu hơn, kể cả sau khi những cái tên khác, hợp khẩu vị thời thượng hơn vào lúc này, đã chìm vào quên lãng.
Và Clarissa, người bạn lâu năm nhất của Richard, độc giả đầu tiên của ông - Clarissa, người đã nhìn thấy ông hằng ngày, khi mà thậm chí cả những người bạn mới quen gần đây hơn của ông đã hình dung ra ông đã chết - đang cố tổ chức cho ông một bữa tiệc. Clarissa đang trang hoàng nhà bà ngập trong hoa và nến. Vậy sao bà có thể không muốn ông tới chứ?
Richard nói, “Thực ra anh cũng không cần thiết ở đó, phải không nào? Bữa tiệc có thể diễn ra mà không cần có anh. Thực ra bữa tiệc đã bắt đầu rồi, cho dù có anh hay không.”
“Giờ anh đang trở nên không thể chấp nhận được đấy. Em sắp mất hết kiên nhẫn rồi.”
“Không, làm ơn, xin đừng bực mình. Ôi, bà D, sự thực là anh thấy rất bối rối khi phải xuất hiện trong bữa tiệc này. Anh đã suy sụp một cách khủng khiếp.”
“Đừng nói thế.”
“Không, không. Em tốt bụng, rất tốt bụng, nhưng anh e rằng anh sẽ làm hỏng tất cả, vậy đấy. Việc này chỉ đơn giản là quá sức với anh. Anh nghĩ mình đã trở thành một nhân vật lớn hơn so với chính con người anh. Anh có thể tiết lộ với em một bí mật luôn khiến anh lúng túng không? Một điều anh chưa từng nói cho ai biết?”
“Tất nhiên là có rồi.”
“Anh từng nghĩ mình là một thiên tài. Anh đã thực sự dùng từ đó, trong thâm tâm, cho chính mình.”
“À...“
“Ôi, niềm tự hào, niềm tự hào. Anh thật sai lầm. Nó đã đánh bại anh. Nó đã chứng minh được nó là một vật cản không thể vượt qua được. Điều đó là rất nhiều, ôi, quá nhiều so với sức anh. Ý anh là, có cả thời tiết, cả thời tiết và đất đai, có những con vật, những tòa nhà, có quá khứ và tương lai, có không gian, lịch sử. Có cả sợi chỉ hay thứ gì đó mắc kẹt giữa hai chiếc răng của anh, có bà lão bên kia đường, em có thấy bà lão đã đổi vị trí của con lừa và con sóc trên bậu cửa sổ của mình không? Và tất nhiên, còn có cả thời gian nữa. Nơi chốn. Và cả em, D. Anh muốn kể một phần câu chuyện về một phần của em. Ôi, anh ước gì đã làm được điều đó.”
“Richard. Anh đã viết cả một cuốn sách.”
“Nhưng mọi thứ đều bị bỏ lại bên ngoài, hầu như tất cả mọi thứ. Và sau đó chỉ đơn giản là anh mắc kẹt trong một hồi kết thật choáng váng. Ồ vào lúc này anh không tìm kiếm sự cảm thông, thực sự là thế. Chúng ta muốn quá nhiều, phải không nào?”
“Phải. Em cho là vậy.”
“Em đã hôn anh bên một cái ao.”
“Lâu lắm rồi.”
“Nó vẫn đang xảy ra.”
‘Theo một nghĩa nào đó thì đúng là thế.”
“Trên thực tế. Nó xảy ra trong thực tại đó. Điều này xảy ra trong thực tại này.”
“Anh mệt rồi, Richard yêu quý. Anh phải nghỉ đi. Em sẽ gọi cho Bing về chuyện thuốc men của anh, được chứ?”
“Ồ, anh không thể, anh không thể nghỉ được. Lại đây, lại gần hơn nào, em làm ơn đi, được chứ?”
“Em ở ngay đây mà.”
“Gần hơn đi. Cầm lấy tay anh.”
Clarissa nắm lấy bàn tay Richard trong hai tay bà. Ngay cả lúc này, bà vẫn thấy ngạc nhiên vì nó yếu ớt đến thế - thật giống với một bó các cành khô.
Anh nói. “Vậy là chúng ta đang ở đây. Em nghĩ sao?”
“Em không hiểu?”
“Chúng ta đều đã bước vào tuổi trung niên và cũng là đôi tình nhân trẻ đứng kề vai bên một cái ao. Chúng ta là mọi thứ, là tất cả cùng một lúc. Chẳng phải thật ấn tượng sao?”
“Phải.”
“Quả thực anh không hề có bất cứ nuối tiếc nào, ngoại trừ việc đó. Anh muốn viết về em, về chúng ta, thật đấy. Em có biết ý anh là gì không? Anh muốn viết về mọi thứ, về cuộc sống chúng ta đang có và cuộc sống đáng ra chúng ta đã có. Anh muốn viết về tất cả những cách chúng ta có thể chết đi.”
“Đừng nuối tiếc điều gì hết, Richard”, Clarissa nói. “Không cần phải thế, anh đã làm quá nhiều.”
“Em thật tử tế khi nói vậy.”
“Điều anh cần lúc này là chợp mắt một lát.”
“Em nghĩ vậy sao?”
“Đúng thế.”
“Vậy thì được thôi.”
Bà nói, “Em sẽ tới giúp anh mặc đồ. Vào lúc ba giờ rưỡi, được không?”.
“Được gặp em lúc nào cũng là điều tuyệt vời, Dalloway.”
“Bây giờ em phải về đã. Em cần phải cắm hoa.”
“Phải. Đúng thế.”
Bà đưa đầu ngón tay chạm lên bờ vai gầy guộc của ông. Có lẽ nào bà lại đang cảm thấy hối tiếc? Lẽ nào, thậm chí ngay cả đến lúc này, bà có thể hình dung họ đáng ra đã có một cuộc sống bên nhau? Đáng ra họ đã thành vợ thành chồng, thành bạn tâm giao, bên cạnh việc là những người tình. Có nhiều cách để thu xếp.
Richard từng là một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ và hăng hái, sáng sủa với nước da trắng như sữa. Đã có thời ông từng lang thang khắp New York trong chiếc áo quân đội cũ, nói chuyện một cách đầy phấn khích, với mái tóc bù xù sẫm màu được buộc túm một cách cẩu thả cho khỏi xòa xuống mặt bằng một dải ruy băng xanh ông tìm thấy đâu đó.
Clarissa nói, “Em đã chuẩn bị món cua. Không phải vì muốn khích lệ đâu anh”.
“Ồ, em biết anh thích món cua đó đến thế nào mà. Nó thực sự tạo ra khác biệt đấy, tất nhiên là thế rồi. Clarissa?”
“Vâng?”
Ông ngẩng cái đầu đã bị hủy hoại nặng nề của mình lên. Clarissa nghiêng mặt, nhận cái hôn của Richard lên má. Hôn môi ông không phải là một ý tưởng hay - chỉ một cơn cảm lạnh thường cũng có thể là tai họa đối với ông. Clarissa nhận nụ hôn, dùng đầu ngón tay bóp nhẹ bờ vai xương xẩu của Richard.
“Em sẽ tới gặp anh lúc ba giờ rưỡi”, bà nói.
“Tuyệt vời”, Richard nói. “Tuyệt vời.”