Khoảng cuối quý I năm 1973, tôi được điều về Trường hạ sĩ quan Trung đoàn 6 (Phú Xuân) đào tạo tiểu đội trưởng. Trường là một trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tiểu đội, trung đội bổ sung trực tiếp cho các đơn vị bộ đội địa phương và Trung đoàn 6 chủ lực (thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế). Nơi đóng quân của Trường là một thung lũng rừng già nguyên thủy và gần một con suối đẹp nhưng lính ta lại gọi là Khe Rùa.
Khóa đào tạo tiểu đội trưởng của tôi gồm có hai trung đội biên chế thành hai lớp. Lớp của tôi chủ yếu là chiến sĩ nhập ngũ năm 1971 và năm 1972. Về trường tôi gặp lại nhiều bạn cũ cùng huấn luyện với nhau ở Đoàn 22A, Quân khu 4, trong đó có anh Lương “răng vàng”. Cũng không hiểu ai đã đặt cho Lương cái biệt danh ấy. Chỉ biết những ngày hành quân trên đường Trường Sơn cánh lính đại đội tôi đã gọi anh như thế. Lương có một chiếc răng cửa bọc vàng, vì vậy nhiều lúc hành quân đêm tối không lần ra được lối mòn nhiều chiến sĩ cứ gọi đùa: “Lương cười lên cho anh em đi”,… Tôi nghe nhiều câu đùa có lúc cũng tự ái, nhưng Lương quen rồi anh chỉ cười cho qua. Lương là sinh viên năm cuối Đại học Sư phạm Vinh. Những năm chiến tranh, trường của anh sơ tán về xã Quỳnh Thạch, cách làng tôi một con sông Nghệ. Anh cũng có bạn học người làng tôi nên thường xuyên qua lại. Vì thế mặc dù quê anh ở Hà Tĩnh nhưng tôi vẫn gọi anh là “đồng hương”.
Lâu ngày gặp nhau lại có chút đồng hương nên tôi và anh trở thành thân thiết. Mới một năm, những đồng đội cũ cùng Tiểu đoàn 11, Đoàn 22A, Quân khu 4 ngày nào bây giờ người còn, người mất. Một năm trận mạc Lương rắn rỏi hơn nhiều vẫn ít nói, hay cười, chín chắn hơn, ưu tư hơn. Thường thì một tuần vào tối thứ bảy nghỉ sinh hoạt tôi và Lương hay rủ nhau ra suối ngồi nói chuyện. Cũng có lúc bày thuốc lá, kẹo hôm ngày lễ ra cùng chia sẻ với nhau.
Nhớ lại ngày hành quân đến Yên Thành, tôi đột ngột hỏi Lương: “Anh có hay viết thư về cho chị Lan không?”. Nghe tôi hỏi, Lương ngồi bần thần một lúc như sực nhớ ra và vặn lại tôi: “Sao cậu lại biết cô Lan ấy?”. Tôi kể lại cái giây phút các cô gái Đại học Sư phạm Vinh đón đường đoàn quân để gặp chia tay, tạm biệt Lương và bè bạn. Nghe tôi nhắc Lương lại cười: “Ừ, cậu nhớ lâu đấy, vào nơi bom đạn, sống chết biết khi nào, mình cũng không thư từ vướng víu gì nữa. Vả lại…”. Im lặng một lúc lâu, thả hai bàn chân trần xuống dòng suối và hút hết một điếu thuốc lá Điện Biên, Lương mới nói: “Cô Lan và hai bạn kia nữa là cùng tổ học tập do mình phụ trách. Chúng mình chơi thân với nhau, Lan thì có cảm tình hơn một chút, nhưng chỉ thế thôi…”.
Tôi vẫn nhớ ngày đầu tiên xuất quân ở Nghĩa Hội, hành quân đến đầu huyện Yên Thành thì có ba cô gái đèo nhau trên hai chiếc xe đạp cứ lẽo đẽo đi theo đoàn quân. Vì ngày giờ hành quân bí mật không ai có người nhà biết đưa tiễn nên tôi cũng chỉ nghĩ đó là ba cô gái thôn nữ nào đấy của làng quê Yên Thành. Đoàn quân đi đến đâu bà con cô bác, các cháu thanh thiếu niên đều đứng hai bên đường đưa tiễn. Tôi cũng thấy nhiều bà mẹ, nhiều người chị rơi nước mắt. Có lẽ những bà mẹ, người chị ấy đang có con, có chồng, có em ngoài mặt trận. Ba cô gái cứ đạp xe theo cho đến lúc đoàn hành quân chúng tôi dẹp vào bên lề đường nghỉ mười phút. Bỗng có một cô gái cất tiếng gọi: “Anh Lương!”. Lương ngoảnh lại và dường như bất ngờ nhận ra, anh lúng túng nắm tay tôi kéo đi về phía ba cô gái. Họ nép vào một bờ tre và nhìn nhau không nói gì. Cái giây phút tiễn người ra trận sao lại khó nói thế. Dường như nói ra câu gì cũng thấy thừa. “Sao anh đi không báo với chúng em? May mà…”. Lương giới thiệu với tôi cô gái ấy tên là Lan. “Con gái thị trấn đấy!” - Lương cười. Khẩu lệnh hành quân, cả đoàn quân đứng dậy. Chợt Lan nắm tay Lương kéo lại: “Em sẽ đợi anh về!”.
*
Tôi và Lương còn ở, học tập rèn luyện và cùng nhau đón một cái Tết Giáp Dần năm 1974 nữa mới tốt nghiệp ra trường. Anh về đơn vị cũ, tôi trở lại tiểu đoàn bộ. Hai người cùng ở một tiểu đoàn nhưng không mấy khi gặp nhau cho dù tôi ở tiểu đoàn bộ thường phải phối hợp tác chiến với các đơn vị nhưng nhiều lần đến Đại đội 2 của Lương cũng không gặp.
Bộ đội địa phương chủ yếu là hoạt động lẻ, có khi trên cùng một tuyến phòng ngự hai điểm chốt nhìn thấy nhau nhưng hàng tháng không gặp nhau, không biết sau một đợt chiến đấu ai còn, ai mất. Ngày 26 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn tôi giải phóng thành phố Huế, tôi làm trung đội phó Đại đội 1 canh giữ hai đầu cầu Tràng Tiền. Đại đội 2 canh giữ hai đầu cầu Bạch Hổ. Buổi giao ban đầu tiên tôi mới biết Lương đã hy sinh mấy tháng trước rồi, trong một trận đánh lên điểm cao 450 cạnh con sông Tà Vệ…
*
Đầu năm 2013, tôi vào dự Lễ khánh thành Khu tưởng niệm anh hùng, liệt sĩ Trung đoàn 6 (Phú Xuân) tại phường An Hòa, thành phố Huế tình cờ gặp lại anh Biên. Ở chiến trường anh Biên và tôi có thời gian cùng một ban quân khí tiểu đoàn. Anh Biên và anh Lương là bạn cùng học Đại học Sư phạm Vinh. Sau chiến tranh anh về dạy học tại một trường trung học phổ thông miền núi Thanh Hóa. Hơn ba mươi năm mới gặp lại nhau buồn vui khôn xiết. Nhắc tới Lương, Biên lặng người đi như muốn bật khóc. Anh thốt lên trong cuộc đời có những vết thương không bao giờ liền sẹo. Lương với anh không chỉ là đồng đội chung một chiến hào mà là người bạn tri kỷ. Nhắc tới Lan, Biên kể phải mười năm sau chiến tranh anh mới có điều kiện vào thị trấn Kỳ Anh để tìm Lan. Những năm chiến tranh thị trấn Kỳ Anh nhỏ bé bị bom đạn Mỹ tàn phá, mười năm sau Biên đến vẫn hoang tàn. Những người cao tuổi còn lại ở thị trấn không hiểu vì sao cô giáo Lan không lấy chồng…
Cái giây phút đứng trước Đài tưởng niệm hơn 12.000 anh hùng, liệt sĩ Trung đoàn 6, tôi và Biên lặng yên không nói giữa hàng trăm cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn và bà con cô bác thành phố Huế. Nhớ đến Lương tôi lại như vừa nghe câu nói như hơi thở da diết của Lan: “Em sẽ đợi anh về!”. Và Lan đã chờ đợi, dành cả cuộc đời để chờ đợi; chờ đợi cho đến khi đã biết rằng người mình đợi mãi mãi không trở về. Ngước nhìn dòng người dâng nén tâm nhang trước Đài kỷ niệm, tôi nghẹn ngào thốt lên: “Không hiểu sao cái thời ấy, thời chúng tôi, chỉ vì một lời hứa con người ta dám hy sinh cả cuộc đời!”.