Trên đường hành quân ở Trường Sơn vì “còn xa địch” nên bài học ba không này những người lính chỉ cần quan tâm đến “nấu không khói”. Nhưng ở chiến trường nơi đối mặt với kẻ địch thì bài học ba không phải được thực hiện một cách nghiêm khắc, và không chỉ có ba không chúng tôi còn bổ sung thêm thành bốn không. Đó là “Đi không dấu, nấu không khói, nói không to, ho không tiếng”. Thực tế ở chiến trường thì có lẽ “bốn không” vẫn chưa đủ nhưng đó là yêu cầu cơ bản để đảm bảo yếu tố bí mật, một yếu tố sống còn đối với người lính trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Với những người lính làm nhiệm vụ trinh sát, liên lạc, thông tin thường xuyên hoạt động nhỏ lẻ như chúng tôi thì “bốn không” là nguyên tắc tuyệt đối để hoàn thành nhiệm vụ. Những năm tháng trực tiếp làm nhiệm vụ của người chiến sĩ liên lạc, trinh sát của tiểu đoàn tôi đã có nhiều bài học thực tiễn. Bài học trước bổ sung cho bài học sau, có những trường hợp phải tự học và khắc phục ngay trong lúc thực hiện nhiệm vụ. Đúng như khi còn huấn luyện chiến sĩ mới ở Nghĩa Hội, chính trị viên phó đại đội đã nói: “Đó là cách để sống, để tồn tại mà chiến đấu ở chiến trường”.
Chuyện thứ nhất “đi không dấu”: Tôi cứ nhớ mãi lần đi trinh sát cùng anh Tăng Văn Phả trước ngày 27 tháng 1 năm 1973. Ngày “Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam” (Hiệp định Pari) có hiệu lực. Đêm ấy chúng tôi đi trinh sát chuẩn bị cho một trận đánh xuống một vùng trung du tây nam thành phố Huế. Chúng tôi phải băng qua những cánh đồng ruộng đồng bào đang cấy chưa xong. Cô du kích dẫn đường quán triệt chúng tôi không được đi trên bờ, phải lội xuống ruộng. Lội xuống ruộng vừa tránh được mìn địch gài, vừa không để lộ những vết bùn trên ngọn cỏ. Lội dưới ruộng cũng không được phát ra tiếng, muốn vậy phải kéo gót chân từ từ cho nước không ập vào lỗ chân phát ra tiếng động. Không được đụng chân làm lệch vị trí từng bó mạ đồng bào rải khắp mặt ruộng. Đêm ấy tôi còn phát hiện thêm “một không” nữa, đó là không để mùi lạ thoát ra trong không khí. Chuyện là khi vượt qua một vùng ruộng hoa màu đồng bào trồng gừng bỗng nhiên cô du kích dẫn đường quay lại hỏi trong số chúng tôi ai đạp lên hoặc bẻ gãy cây gừng. Cô vừa ngửi thấy trong đêm thoang thoảng gió có mùi cay cay của lá gừng. Thì ra khi bước trong ruộng gừng vì trời tối nhìn thấy bóng cây lạ tôi đã ngắt một mảnh lá và vò trong tay hít thử. Cô du kích nghiêm giọng và cho tôi một bài học: “Đó là cách báo cho lính bảo an đi tuần tra, chúng tôi đang ở trong ruộng gừng!”. Ở chiến trường khi đi làm nhiệm vụ trong đầu chúng tôi bao giờ cũng ghi nhớ “bốn không” ấy như là câu thần chú. Vậy mà chỉ một chút lơ đễnh là gặp ngay địch họa. Sáng hôm ấy chúng tôi lội qua sông Tà Vệ để lên điểm cao Chúc Mao, một trận địa chốt của ta nằm xen kẽ với các điểm chốt khác giữa ta và địch nên hai bên thường cử lính tuần tra vòng ngoài. Vì qua sông ban ngày trời lại nắng nên khi lên bờ chúng tôi đạp chân lên một hòn đá mép bờ sông. Vừa vào bìa rừng thì bất ngờ phát hiện ba tên địch tuần tra đi ngược bờ sông về phía chúng tôi. Nhận thấy vết nước chúng lập tức tản ra thành đội hình chiến đấu, tay lăm lăm khẩu súng AR15 chĩa vào bìa rừng. Một tên lính đến nhìn rất kỹ dấu vết trên mặt đá quay lại nói: “Dép, không phải giày”. Không phải giày nghĩa là không phải lính của nó. Thế là chúng nó ém vào mấy tảng đá sát mép rừng nằm phục kích. Để không bị phát hiện chúng tôi nằm án binh bất động hàng tiếng đồng hồ. Mấy tên lính tuần tra phục mãi vẫn không thấy động tĩnh gì chúng đành lặng lẽ rút đi…
Chuyện thứ hai “nấu không khói”. Ở chiến trường việc nấu nướng không chỉ riêng việc của anh nuôi, nhất là đối với những người lính thường đi hoạt động lẻ, đi trinh sát, đi chuẩn bị địa hình thường chỉ ba đến năm người. Ai cũng mang theo chiếc hăng gô, gạo, lương khô và thịt hộp, rau thì của rừng cho. Tối ở đâu thì nấu ở đó. Vì vậy chuyện ban ngày nấu không khói, ban đêm nấu không có ánh lửa là chuyện sống còn. Nhưng chuyện tôi ghi lại ở đây là chuyện một sở chỉ huy tiểu đoàn tiền phương đóng ngay dưới chân điểm cao 450 khi địch còn đang chiếm giữ. Hàng ngày giữa quân ta và quân địch vẫn nổ súng quyết liệt giành giật điểm cao 450.
Điểm cao 450 nằm gần sát sông Tà Vệ. Đứng trên đỉnh 450 địch có thể quan sát và khống chế được tuyến đường vận tải bộ dọc sông và vận chuyển lương thực, thực phẩm trên sông theo phương thức thả trôi. Vì vậy điểm cao 450 trở thành huyệt điểm mà cả ta và địch giành giật nhau, thay nhau chiếm giữ. Có lẽ địch cũng không ngờ được dưới chân điểm cao 450 là sở chỉ huy tiền phương của tiểu đoàn tôi giấu mình trong khu rừng già. Đang là mùa khô nên tất cả các bếp nuôi quân phải đào bếp Hoàng Cầm. Bếp Hoàng Cầm nào rãnh ống dẫn khói cũng phải “leo dốc” dài đến hàng chục mét và chỉ được đỏ lửa vào ban đêm. Tuy vậy có những lúc cũng phải nấu ban ngày cho nên bếp nào cũng phải làm một giàn phủ kín lá, cành cây nơi cuối cùng của ống dẫn khói. Giàn càng rộng, mái phủ càng dày thì tác dụng tản khói càng tốt.
Vào một buổi gần trưa bếp của trung đội thông tin chúng tôi đang đỏ lửa thì bất ngờ pháo địch trút xuống điểm cao 450, có mấy quả rơi gần trúng bếp của trung đội. Lúc ấy Trần Cường, chiến sĩ liên lạc của tiểu đội tôi đang phụ giúp anh nuôi nấu bếp bị hất ngã sấp vấp phải hòn đá gãy một nửa chiếc răng cửa. Pháo địch vẫn bắn dồn dập lên 450 nhưng không có quả nào rơi xuống khu vực sở chỉ huy nữa, có lẽ địch bắn pháo chuẩn bị tiến công lên điểm cao 450 nên mấy quả pháo rơi sát bếp là pháo lạc bầy. Mấy anh em nuôi quân lại lóp ngóp bò dậy và thấy pháo đốt cháy một khoảng rừng nghi ngút khói. Nhân cơ hội ấy nuôi quân nấu một mạch xong bữa cơm. Trần Cường về hầm rút bút ra kê sổ nhật ký lên ba lô khoái chí lẩy thơ:
Khói nào mà chẳng bay lên
Khói pháo, khói bếp cùng tên cùng màu
Ông đây chỉ nhắc một câu
Chúng mày nhớ bắn giờ đầu, sáng mai.
Lẩy thơ vào nhật ký nhưng Trần Cường lại sợ ai đó đọc không hiểu nên anh ta còn chú thích thêm: “Đầu giờ sáng mai tớ lại cùng nuôi quân chụm bếp”.
Chuyện thứ ba “nói không to”: Tôi vẫn nhớ nhất những ngày chui dưới rừng giang sát chân cao điểm Gia Than. Trên chiến trường Thừa Thiên - Huế không hiếm gặp những rừng giang bao quanh những cao điểm. Rừng giang là hậu quả của những trận hủy diệt rừng nguyên sinh bằng chất độc da cam và bom napan. Sau một mùa mưa giang bật mầm mọc lên tua tủa dưới những thân cây đại thụ đã chết khô cháy. Một thời gian sau giang mọc dài đan vào nhau bò sát trên mặt đất tạo thành một tấm lưới dày đặc. Với lính trinh sát chúng tôi chui dưới rừng giang để sống, để chờ đêm về trinh sát lên trận địa địch là thượng sách. Đối với địch thì rừng giang bao quanh chân cao điểm lại là hàng rào vật cản tự nhiên để bảo vệ và ngăn chặn bộ đội ta tiến công. Để trinh sát sâu lên điểm cao Gia Than, trinh sát chúng tôi đã có nhiều ngày đêm nằm dưới rừng giang. Rừng giang như một tấm lưới xanh khổng lồ phủ lên chúng tôi mà dù ban ngày địch cũng không hề biết. Chỉ có điều sống ngay dưới chân trận địa chốt của địch chúng tôi phải nín thở và nói không ra tiếng. Khó chịu nhất vẫn là những chiến sĩ xuất thân từ vùng biển miền Trung vốn quen “ăn sóng nói gió”. Những ngày sống dưới rừng giang để trinh sát lên điểm cao Gia Than, chúng tôi dường như trở thành “diễn viên kịch câm”, chỉ ra hiệu, đưa mắt, thứ ngôn ngữ không lời ấy ban đầu khó diễn tả, sau dần thành quen. Khi nào bí quá thì kéo nhau xuống hầm ghé tai nhau thì thào ít câu cho rõ.
Đêm tiếp cận chuẩn bị đánh chiếm điểm cao Gia Than, lực lượng tiểu đoàn đã bí mật ém sát cao điểm nằm gọn dưới rừng giang. Các chiến sĩ mang hỏa khí còn phải dùng vải rách, màn rách bọc vào hỏa khí để tránh va vào nhau thành tiếng. Thông tin vô tuyến, hữu tuyến liên lạc với nhau, truyền lệnh chỉ huy cũng dùng tín hiệu là chính. Lúc nào có mật điện không thể hiện được bằng ký tín hiệu thì dùng liên lạc chạy chân. Nhịn nói lâu nên khi có lệnh nổ súng các chiến sĩ thông tin thoải mái hét to trong tổ hợp, hét càng to, càng rõ, càng sướng. Hét khản cả giọng thậm chí át cả tiếng nổ như thể chưa bao giờ được nói. Tôi cứ nhớ mãi câu nói của chính trị viên tiểu đoàn trong một buổi rút kinh nghiệm chiến đấu: “Cậu nào mắc bệnh nói to cứ cho làm trinh sát, ít ngày sống trước mũi súng của địch sẽ khỏi bệnh ngay”.
Chuyện thứ tư “ho không tiếng”: “Ho không tiếng” và “nói không to” chỉ là một nhưng cánh lính trinh sát chúng tôi thường xuyên phải nằm sát trận địa địch, phải chui qua hàng rào có khi còn vào tận tung thâm phòng ngự của chúng mà ghi chép, tìm hiểu quy luật hoạt động. Vì thế chúng tôi cụ thể hóa thêm cho rõ. Người lính trinh sát khi cận kề mũi súng địch tất nhiên là không được nói rồi nhưng không được ho quả là một bắt buộc rất khó thực hiện. Bởi ho là phản xạ của cơ thể khi bị bệnh lý hoặc dị ứng với không khí, thời tiết… Khổ nhất là người bị bệnh ho mà không được ho. Có lúc tôi đã đố anh nào muốn ho mà bịt miệng lại được. Càng bịt chặt thì tiếng ho phì ra càng to. Vậy mà ở chiến trường cánh lính trinh sát chúng tôi phải tập nuốt ho vào bụng.
Tháng 10 năm 2010, nhân kỷ niệm ngày thành lập Trung đoàn Phú Xuân tại Hà Nội, tôi lại gặp anh An, một chiến sĩ trinh sát cùng thời với tôi. Anh kể cho mọi người nghe câu chuyện đi trinh sát điểm cao Mỏ Tàu. Phải gần hết đêm anh mới bò được vào hàng rào cuối cùng của cao điểm. Một đêm ẩm ướt, muỗi đốt, vắt cắn khiến cho người anh ngứa ngáy và bết máu. Khi anh đang nằm sát hàng rào thì một tên lính ngụy có lẽ đứng gác, bèn nhảy lên bờ chiến hào tiểu tiện lên đầu anh. Nước tiểu vừa khai, vừa nóng gặp đất lạnh bốc lên mùi khăn khẳn nồng nặc xộc vào mũi anh. Anh phải bịt mũi để không thể phát ra tiếng hắt xì thì lại ngứa ra cổ họng. Cứ thế một tay bịt mũi, một tay bịt mồm anh dán mặt xuống đất nuốt liên tục cho tiếng ho không phì ra. Cũng may tên địch tiểu xong là nhảy xuống chiến hào và đi nên không phát hiện được. Sau lần đó anh An về trung đội lại phổ biến cho mọi người kinh nghiệm “nuốt ho” khi đi trinh sát gần địch. Kinh nghiệm là thế nhưng phải tập, phải chờ khi mình ho mà tập, tập bịt mũi, bịt mồm mà nuốt ho. Đó cũng là cách để tự bảo vệ mình trước mũi súng kẻ địch.