• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thói quen thứ 8
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 27
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 27
  • Sau

Chương 5

Thể hiện quan điểm thông qua Tầm nhìn, kỷ luật, sự đam mêv à lương tâm của bạn

Người có sức mạnh lớn nhất là người biết kiểm soát bản thân mình.

- LUCIUS AMAEUS SENECA

Hình 5.1

Khi tìm hiểu về cuộc đời của những người từng đạt những thành tựu to lớn, bạn sẽ tìm thấy một khuôn mẫu chung ở họ. Đó là, họ là những người có ảnh hưởng lớn đến người khác và có nhiều đóng góp mới mẻ, quan trọng và có ý nghĩa cho cuộc sống. Bằng sự nỗ lực kiên trì và sự rèn luyện nội tâm, họ đã phát triển mạnh mẽ bốn năng lực vốn có của con người. Những biểu hiện cao nhất của bốn năng lực này là tầm nhìn, đối với trí tuệ; là tính kỷ luật, đối với thể chất; là sự đam mê, đối với tình cảm; và lương tâm, đối với tinh thần. Những biểu hiện này cũng là những phương tiện quan trọng nhất để thể hiện quan điểm của bạn.

Tầm nhìn là khả năng nhìn thấy trước những gì có thể xảy ra trong công việc, sự nghiệp và trong tổ chức bằng đôi mắt của trí tuệ. Tầm nhìn có được khi chúng ta dùng trí tuệ để đưa ra khả năng đáp ứng nhu cầu. William Blake nói rằng: “Những gì hôm nay được chứng minh là đúng thì trước đó chỉ là sự tưởng tượng”. Khi một người không có tầm nhìn và không quan tâm đến việc phát triển khả năng sáng tạo của trí tuệ, họ sẽ trở thành con mồi trên con đường đi đến chủ nghĩa nạn nhân (xem hình 5.1).

Tính kỷ luật là cái giá phải trả để đưa tầm nhìn đi vào thực tiễn. Đây là phần liên quan đến những thực tế khó khăn, hiển nhiên và đôi khi thật tàn nhẫn, nhưng cần phải có để biến tầm nhìn thành sự thật. Kỷ luật xuất hiện khi tầm nhìn kết hợp với sự cam kết. Đối nghịch với tính kỷ luật và sự cam kết là sự buông thả – tức sự đánh đổi những điều quan trọng nhất của cuộc sống để hưởng những thú vui hay khoái lạc nhất thời.

Muốn lãnh đạo người khác, trước hết hãy làm chủ được bản thân mình.

- PHILIP MASSINGER

Hình 5.2

Sự đam mê là ngọn lửa, là sự khao khát, là sức mạnh của lòng quyết tâm, là động lực để duy trì tính kỷ luật nhằm thực hiện tầm nhìn. Sự đam mê xuất hiện khi nhu cầu của con người trùng khớp với tài năng độc nhất vô nhị của riêng họ. Khi một người không có sự đam mê trong việc đi tìm và sử dụng tiếng nói của bản thân nhằm phụng sự những mục đích cao quý, thì khoảng trống trong tâm hồn họ sẽ đầy rẫy những cảm giác không an toàn và những tiếng nói trống rỗng theo khuôn mẫu xã hội. Trong mối quan hệ và trong các tổ chức, xét theo một khía cạnh nào đó thì sự đam mê bao gồm cả lòng trắc ẩn.

Lương tâm là nhận thức nội tâm về đạo đức để phân biệt đâu là đúng và đâu là sai, là động lực để con người hướng đến ý nghĩa cuộc sống và sự cống hiến vì mục đích cao đẹp. Lương tâm là sức mạnh dẫn đường cho tầm nhìn, tính kỷ luật và sự đam mê. Lương tâm tương phản với cái tôi ích kỷ thường ngự trị trong cuộc sống của mỗi chúng ta.

Bất cứ điều gì làm suy yếu lý trí của bạn, làm hại đến lương tâm của bạn, che khuất ý thức của bạn, lấy đi hứng thú của bạn đối với những điều linh thiêng; bất cứ những gì làm cho thể xác lấn át tinh thần, thì những thứ đó đều là tội lỗi đối với bạn, dù bản thân nó trông có vẻ như vô hại.

- SUSANNA WESLEY (Mẹ của JOHN WESLEY1)

1. John Wesley (1703 - 1791): Mục sư Anh giáo, nhà thần học, nhà thuyết giáo và là nhà sáng lập Phong trào Giám lý.

Bốn từ tầm nhìn, kỷ luật, đam mê và lương tâm thực chất chứa đựng rất nhiều đặc tính vốn được dùng để mô tả con đường dẫn đến thành công của những người có tầm ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống.

Hình 5.3 cho thấy có nhiều đặc tính tiêu biểu khác nằm dưới bốn tảng băng có tên gọi tầm nhìn, kỷ luật, đam mê và lương tâm.

Hình 5.3

Các nhà lãnh đạo hàng đầu đều có tầm nhìn, óc thực tiễn, đạo đức và lòng dũng cảm. Đây chính là bốn năng lực, bốn hình thức của sự nhận thức, là ngôn ngữ giao tiếp cần có để đạt được những kết quả lâu dài và có ý nghĩa.

Nhà lãnh đạo có tầm nhìn là người luôn biết tư duy lớn, tư duy cái mới và tư duy đột phá. Và, điều quan trọng hơn hết là họ biết giữ mối liên hệ với cấu trúc sâu rộng về nhận thức và tiềm năng sáng tạo của con người.

Bạn cần phải kiểm soát các mô thức chi phối tâm trí của bạn, thế giới quan của bạn, niềm tin của bạn về những gì bạn xứng đáng nhận được và những gì có thể xảy ra. Đó là phạm vi của sự thay đổi cơ bản, của sức mạnh và năng lực,

là ý nghĩa thực sự của lòng can đảm.

- PETER KOESTENBAUM, nhà triết học về quản trị

TẦM NHÌN, KỶ LUẬT VÀ NIỀM ĐAM MÊ LÀM CHỦ THẾ GIỚI

Bất kỳ cá nhân nào có ảnh hưởng sâu sắc đối với người khác, đối với các tổ chức hoặc xã hội, bất kỳ bậc phụ huynh nào có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ trong gia đình, bất kỳ ai tạo ra được sự khác biệt thực sự thì khả năng ảnh hưởng của họ đều có ba thuộc tính chung: tầm nhìn, kỷ luật và sự đam mê. Tôi cho rằng ba thuộc tính này đã thống trị thế giới ngay từ thuở ban sơ. Chúng đặc trưng cho sự lãnh đạo hiệu quả.

Chúng ta thử xem xét một vài nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử hiện đại:

George Washington2 có một tầm nhìn xây dựng một quốc gia mới, thống nhất và độc lập, không chịu sự can thiệp hay phụ thuộc của nước ngoài. Ông tự thiết lập kỷ luật sắt cho chính mình trong việc tuyển mộ, tiếp tế quân nhu và giữ cho binh lính không đào ngũ khỏi quân đội. Tức giận vì sự phân biệt đối xử đối với các sĩ quan quân đội thuộc địa, chính sách đất đai của Anh và sự kiềm chế không cho Hoa Kỳ mở rộng lãnh thổ, Washington luôn ấp ủ trong lòng sự nghiệp giành độc lập tự do.

2. George Washington (1732 – 1799): Tổng thống đầu tiên của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, nhiệm kỳ 1789 – 1797, người lãnh đạo thành công cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ (1775 – 1783) chống lại Đế chế Anh.

Florence Nightingale3, người sáng lập phương pháp chăm sóc bệnh nhân hiện đại và cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình để cải thiện chất lượng chăm sóc bệnh nhân trong các bệnh viện quân đội. Tầm nhìn và sự say mê đã giúp bà vượt qua bản tính rụt rè và luôn e ngại của mình.

3. Florence Nightingale (1820 – 1910): Nữ y tá tiền phương, nhà văn, nhà thống kê, người phụ nữ nổi tiếng với danh hiệu “Lady with the Lamp” (Người Phụ nữ của Nguồn Hy vọng).

Mohandas K. Gandhi4, người có công đem lại nền độc lập cho Ấn Độ, mặc dù ông chưa bao giờ giữ một chức vụ nào trong chính phủ qua bầu cử hay được bổ nhiệm. Ông không hề có một địa vị chính thức, không chút quyền hành trong tay nhưng chính sức mạnh tinh thần của ông đã tạo ra những chuẩn mực văn hóa xã hội mạnh mẽ đến mức cuối cùng nó định hình các ý chí chính trị quan trọng. Ông đã làm chủ cuộc đời mình bằng một ý thức về lương tâm phổ quát luôn tồn tại trong lòng mọi người, trong cộng đồng quốc tế và cả bản thân người Anh.

4. Mohandas K. Gandhi (1869 – 1948): Lãnh tụ chính trị và tinh thần của dân tộc Ấn và Phong trào giành độc lập cho Ấn Độ khỏi ách thống trị của Thực dân Anh bằng con đường đấu tranh bất bạo động.

Margaret Thatcher5, nhà lãnh đạo nữ đầu tiên của một nước công nghiệp lớn. Bà đã làm Thủ tướng nước Anh qua ba nhiệm kỳ, trở thành người nắm quyền thủ tướng liên tục dài nhất trong thế kỷ 20. Có không ít người phê phán bà, nhưng bà luôn nhiệt tình cổ vũ mọi người xây dựng tính kỷ luật, trách nhiệm cá nhân, tính tự cường và là người đã cổ vũ mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh. Trong suốt thời gian cầm quyền của mình, bà đã đưa nước Anh vượt qua khủng hoảng và suy thoái kinh tế.

5. Margaret Hilda Thatcher (1925 - 2013): Nữ Thủ tướng đầu tiên, “Bà đầm Thép” của Vương quốc Anh, nắm quyền từ năm 1975 – 1990. Bà cũng là Chủ tịch Đảng Bảo thủ Anh từ năm 1975 – 1990.

Có quyền lực cũng giống như trở thành người phụ nữ; nếu bạn buộc phải nói cho người khác biết về điều đó, thì bạn không phải người như thế.

- MARGARET THATCHER

Nelson Mandela6, cựu Tổng thống Nam Phi, người đã đấu tranh gần hai mươi bảy năm trong nhà tù để chống lại chế độ phân biệt chủng tộc. Mandela được thôi thúc bởi tầm nhìn hơn là bởi ký ức của mình. Ông có thể hình dung ra một thế giới vượt khỏi mọi giới hạn của những trải nghiệm và ký ức đau thương của mình: đó là sự tù đày, sự bất công, chiến tranh bộ lạc và sự chia rẽ sắc tộc. Từ sâu thẳm tâm hồn ông luôn vang vọng một niềm tin bất tận về giá trị của mỗi công dân Nam Phi.

6. Nelson Rolihlahla Mandela (1918 - 2013): Tổng thống thứ mười (1994 – 1999) của Cộng hòa Nam Phi, lãnh tụ phong trào chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc A-pác-thai (Apartheid) và bị giam cầm suốt hai mươi bảy năm (1963 – 1990) bởi Chính quyền A-pác-thai. Ông được trao tặng giải Nobel Hòa bình năm 1993.

Mẹ Teresa7, người đã toàn tâm toàn ý hiến dâng cả cuộc đời mình phục vụ vô điều kiện cho những con người bất hạnh. Bà đã di chúc lại cho tổ chức của bà lời nguyện cầu đã được bà hết lòng thực hiện trong suốt cuộc đời mình là sự trong sạch và cống hiến, tổ chức này đã không ngừng lớn mạnh và phát triển sau khi bà mất.

7. Mẹ Teresa (1920 – 1997): Nữ tu người Ấn gốc Albania, nhà hoạt động nhân đạo, tên khai sinh của bà là Agnes Gonxha Bojaxhiu (Gonxha trong tiếng Albania có nghĩa là “Nụ Hồng”). Bà đến Ấn Độ năm 1948 để thực hiện sứ mệnh bác ái đối với người nghèo, người bệnh, người mồ côi, người trong cơn hấp hối. Bà sáng lập Các Cộng đoàn Bác ái Kolkata (Thành phố Calcutta, Ấn Độ) vào năm 1950. Bà được trao giải Nobel Hòa bình năm 1979.

Kết quả của sự im lặng là CẦU NGUYỆN.

Kết quả của cầu nguyện là NIỀM TIN.

Kết quả của niềm tin là YÊU THƯƠNG.

Kết quả của yêu thương là PHỤNG SỰ.

Kết quả của phụng sự là HÒA BÌNH.

- Mẹ TERESA

Tuy nhiên, cũng có một số nhà lãnh đạo có cả ba phẩm chất tầm nhìn, kỷ luật và đam mê nhưng lại tạo ra một hậu quả đáng sợ. Adolf Hitler là một trong số đó. Ông ta đã say mê tuyên truyền cho tầm nhìn ngàn năm thống trị của Đệ tam Quốc xã và sự siêu việt của chủng tộc Aryan. Ông ta đã dựng lên một trong số những cỗ máy công nghiệp chiến tranh kỷ luật nhất trong lịch sử thế giới. Ông ta đã minh chứng cho sức mạnh của năng lực xúc cảm của mình qua tài hùng biện có sức thuyết phục cao, có thể biến đám đông cử tọa thành những kẻ cuồng tín đáng sợ mang tư tưởng hận thù và hủy diệt.

Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt lớn giữa lãnh đạo hiệu quả và lãnh đạo lâu bền; tất cả các nhà lãnh đạo nói trên đều xây dựng được nền tảng vững chắc và sự cống hiến có ý nghĩa lâu bền, ngoại trừ Adolf Hitler.

Khi lương tâm gắn liền với tầm nhìn, kỷ luật và niềm đam mê thì sự lãnh đạo sẽ trở nên lâu bền và làm thay đổi thế giới mãi mãi. Nói cách khác, sức mạnh đạo lý làm cho quyền lực chính thống đơm hoa kết trái. Khi lương tâm không điều khiển được tầm nhìn, kỷ luật và niềm đam mê thì sự lãnh đạo sẽ không bền vững và những định chế của nó cũng nhanh chóng tan rã. Nói cách khác, quyền lực chính thống khi thiếu sức mạnh đạo lý sẽ dẫn đến thất bại.

Hitler có tầm nhìn, tính kỷ luật và sự đam mê nhưng ông lại bị thúc đẩy bởi cái tôi ích kỷ. Do thiếu lương tâm nên ông ta đã thất bại. Tầm nhìn, tính kỷ luật và sự đam mê của Gandhi được thúc đẩy bởi lương tâm và trách nhiệm nên ông đã trở thành người đầy tớ phục vụ nhân dân và đất nước của ông. Ông chỉ có sức mạnh đạo lý (ông không hề có quyền lực chính thống) nhưng ông lại là người cha và là người sáng lập ra đất nước có dân số lớn thứ hai trên thế giới8.

8. Dân số Ấn Độ ước vào khoảng 1,132 tỷ người (2008), Trung Quốc có số dân đông nhất thế giới với khoảng 1,329 tỷ người (2007).

Khi tầm nhìn, kỷ luật và sự đam mê được chi phối bởi quyền lực chính thống nhưng vô lương tâm và thiếu sức mạnh đạo lý thì thế giới có thể bị thay đổi, nhưng theo một chiều hướng sai lệch và xấu xa. Nó hủy hoại thế giới và tự đi đến chỗ diệt vong.

Bây giờ chúng ta sẽ xét kỹ từng thuộc tính một.

TẦM NHÌN

Tầm nhìn là việc nhìn về tương lai bằng con mắt của trí tuệ. Tầm nhìn là trí tưởng tượng ứng dụng (applied imagination). Mọi thứ trên đời đều được kiến tạo hai lần: lần thứ nhất bằng sự sáng tạo tinh thần; và lần thứ hai bằng sự sáng tạo vật chất. Sự kiến tạo thứ nhất, hay tầm nhìn, là sự bắt đầu của quá trình tự tái tạo của bản thân hay của tổ chức. Nó thể hiện bằng sự khao khát, mơ ước, hy vọng vào những mục tiêu và kế hoạch. Nhưng những mơ ước hay tầm nhìn này không phải là sự hoang tưởng mà là những hiện thực chưa được đưa về không gian vật lý. Nó giống như bản vẽ thiết kế một ngôi nhà trước khi ngôi nhà đó được dựng lên, hay như những nốt nhạc trong bản phổ nhạc đang chờ nghệ sĩ biểu diễn.

Hầu hết chúng ta đều không hình dung hay nhận thức được mọi tiềm năng của mình. William James nói: “Hầu hết mọi người đều sống trong một chu vi hạn hẹp của những tiềm năng của mình. Tất cả chúng ta đều có nguồn dự trữ năng lượng và tài năng có thể đem ra sử dụng vào những lúc mà chúng ta không thể ngờ tới”.

Albert Einstein nói: “Trí tưởng tượng còn quan trọng hơn cả kiến thức”. Trí nhớ là quá khứ và nó luôn bị giới hạn. Còn tầm nhìn là tương lai, vốn vô hạn. Tầm nhìn còn lớn hơn cả lịch sử, kinh nghiệm, và cả những vết thương lòng trong quá khứ.

Khi có người hỏi Einstein rằng nếu có thể ông sẽ hỏi Thượng đế điều gì, Einstein đã đáp rằng: “Tôi sẽ hỏi: Vũ trụ được hình thành như thế nào? Bởi vì tất cả mọi thứ xảy ra sau đó chỉ là toán học”. Nhưng sau khi suy nghĩ một lúc, ông lại đổi ý: “Thay vì hỏi như thế, tôi sẽ hỏi: Tại sao vũ trụ được tạo ra? Khi đó, chắc chắn tôi sẽ biết được ý nghĩa cuộc đời mình”.

Có lẽ tầm nhìn quan trọng nhất là có được một ý thức về bản ngã, một ý thức về số phận của bản thân, ý thức về sứ mệnh và vai trò độc nhất của đời mình, ý thức về mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Khi bạn muốn kiểm tra tầm nhìn cá nhân của mình thì trước hết hãy tự hỏi: Tầm nhìn của tôi có gắn liền với tiếng nói, sức lực và tài năng độc nhất của tôi hay không? Tầm nhìn có cho tôi ý thức về “thiên hướng theo đuổi một sự nghiệp xứng đáng”? Để có được ý thức đó, bạn phải biết suy ngẫm và đặt ra những câu hỏi có chiều sâu và thể hiện sức tưởng tượng mạnh mẽ.

Khi chúng ta nói về tầm nhìn, điều quan trọng là không chỉ chú ý vào tầm nhìn về những điều có thể “ở đâu đó” mà còn chú ý đến tầm nhìn mà chúng ta nhận thấy ở người khác, những tiềm năng chưa được nhận ra nơi họ. Tầm nhìn có ý nghĩa rộng lớn hơn việc chỉ làm được một vài điều gì, hay hoàn thành một nhiệm vụ nào đó, nó là sự khám phá và mở rộng cách nhìn của chúng ta đối với người khác, khẳng định họ, tin tưởng họ và giúp họ khám phá những tiềm năng của chính họ – nghĩa là giúp họ tìm ra tiếng nói của bản thân họ.

Bạn nâng tôi. Tôi nâng bạn. Và chúng ta cùng được nâng lên.

- Cách ngôn Giáo phái QUAKER

Có một sức mạnh to lớn trong việc nhìn nhận người khác một cách tách biệt với hành vi của họ, khi làm điều đó là chúng ta đã khẳng định giá trị cơ bản và vô điều kiện của họ. Khi nhận ra và thừa nhận tiềm năng của người khác là chúng ta đưa cho họ chiếc gương soi để họ nhìn thấy những gì đẹp nhất nơi bản thân mình. Cách khẳng định này không chỉ giúp phát huy những phẩm chất tốt nhất của họ mà còn tránh cho chúng ta khỏi có phản ứng trước những hành vi không mong muốn. Khi một người hành xử ở mức độ thấp hơn tiềm năng thì thái độ và sự khẳng định của chúng ta sẽ “nói” cho họ biết rằng: “Anh có thể làm tốt hơn thế!”.

Trong một chuyến đi nước ngoài cách đây nhiều năm, tôi được giới thiệu với một thanh niên khoảng mười tám tuổi. Cậu ấy đã gặp phải những thử thách lớn trong đời, trong đó có cả ma túy và bia rượu. Qua cuộc nói chuyện, tôi nhận ra rằng mặc dù cậu ấy đang cố gắng từ bỏ thói xấu và đang tìm hướng đi đúng đắn, song cậu vẫn chưa tự tin ở bản thân. Tôi cũng nhận thấy cậu là một thanh niên đặc biệt, có sức mạnh và tiềm năng thực sự. Điều đó thể hiện rõ qua nét mặt và tinh thần của cậu. Trước khi chia tay, tôi nhìn thẳng vào mắt cậu ấy và nói rằng tôi tin sau này cậu sẽ trở thành một người có ảnh hưởng lớn trong xã hội và rằng ở cậu có những món quà thiên phú cùng những tiềm năng đặc biệt.

Gần hai mươi năm sau, chàng thanh niên ấy trở thành một trong số những người trẻ tuổi có năng lực và đầy hứa hẹn nhất mà tôi từng biết. Cậu ấy có một gia đình tuyệt vời và rất thành công trong nghề nghiệp. Một người bạn của tôi gần đây đã gặp cậu ấy. Trong cuộc trò chuyện với bạn tôi, anh chàng đã nhắc lại câu chuyện mà tôi đã kể trên. Anh nói: “Anh không thể biết được cuộc trò chuyện ngắn ngủi đó đã có tác động lớn như thế nào đến cuộc đời tôi. Khi được nghe ông ấy nói tôi là người có những tiềm năng vượt xa những gì tôi có thể tưởng tượng, ý nghĩ đó đã đọng lại trong tôi. Nó đã tạo ra sự khác biệt cho cuộc đời tôi”.

Xây dựng thói quen khẳng định những điều tốt đẹp của người khác, thường xuyên và chân thành truyền cho họ niềm tin của bạn vào họ là điều vô cùng quan trọng – đặc biệt là đối với trẻ vị thành niên đang phải trải qua giai đoạn hình thành nhân cách. Đây là một sự đầu tư nhỏ nhưng đem lại những kết quả to lớn không thể tin được. Một lần nữa hãy nhớ lại những tác động kỳ diệu khi chúng ta được ai đó đặt niềm tin vào chúng ta (về tiềm năng của chúng ta) những khi chúng ta không tin vào bản thân mình.

TÍNH KỶ LUẬT

Tính kỷ luật cũng quan trọng không kém tầm nhìn và đứng hàng thứ hai trong tập hợp này. Tính kỷ luật tượng trưng cho sự kiến tạo lần thứ hai. Đó là việc tạo ra kết quả, là hy sinh những thứ khác để thực hiện bằng được tầm nhìn. Tính kỷ luật là hiện thân của sức mạnh ý chí, Peter Drucker cho rằng nhiệm vụ đầu tiên của các nhà quản lý là định nghĩa thực tại. Kỷ luật giúp định nghĩa thực tại và chấp nhận nó; đó là quyết tâm chấp nhận chứ không phải phủ định thực tại. Nó thừa nhận những sự thật trần trụi của hiện thực.

Khi sự tươi tắn của bạn vào buổi ban mai được thay thế bằng sự mệt mỏi lúc giữa trưa, khi cơ bắp bạn run rẩy vì căng thẳng thì các bậc thang dường như cao hơn và kéo dài vô tận. Và rồi, đột nhiên bạn cảm thấy chẳng có gì suôn sẻ theo ý bạn cả – đó chính là lúc bạn không nên do dự thêm một giây nào nữa.

- DAG HAMMARSKJOLD

Lãnh đạo là khả năng biến tầm nhìn thành hiện thực.

- WARREN BENNIS

Không có tầm nhìn và hy vọng thì việc chấp nhận hiện thực có thể thật chán nản và không có gì hứng thú. Hạnh phúc đôi khi cũng được định nghĩa là khả năng gác lại những ý muốn nhất thời vì những mục tiêu lâu dài. Sự hy sinh cá nhân là quá trình gạt bỏ những thú vui hiện tại vì những điều tốt đẹp hơn trong tương lai chính là nội dung của tính kỷ luật.

Hầu hết chúng ta đều xem kỷ luật là sự mất tự do. “Những sự bắt buộc sẽ giết chết tính tự nguyện”. Phàm những việc “cần phải” thì không chứa đựng tự do. “Tôi muốn làm những gì tôi muốn. Đó mới là sự tự do, chứ không phải nghĩa vụ”.

Thực ra, điều ngược lại mới đúng. Chỉ những người sống có kỷ luật mới là những người thật sự tự do. Những người vô kỷ luật mới là nô lệ của tâm tính bất thường, của sự thèm khát và đam mê.

Bạn có biết chơi đàn dương cầm không? Không! Tôi không có sự tự do để chơi đàn dương cầm. Bởi vì tôi không bao giờ khép mình vào kỷ luật. Tôi thích tụ tập với bạn bè hơn là ngồi luyện từng ngón đàn theo ý muốn của cha mẹ hay giáo viên dạy đàn.

Thế còn sự tự do tha thứ và xin được tha thứ thì sao? Sự tự do yêu thương vô điều kiện là người chỉ dẫn chứ không phải người phán xét – một tấm gương chứ không phải là người chỉ trích. Điều đó có ý nghĩa gì? Bạn thử nghĩ về tính kỷ luật trong những trường hợp này xem sao.

Nhà sư phạm lớn Horace Mann9 từng nói: “Thật vô ích nếu người ta nói về hạnh phúc mà không bao giờ buộc tính bốc đồng phải tuân thủ kỷ luật. Những ai không muốn hy sinh hiện tại vì một tương lai tốt đẹp hơn, hoặc hy sinh cá nhân vì sự nghiệp chung, là người chỉ có thể nói về hạnh phúc giống như người mù nói về màu sắc vậy”.

9. Horace Mann (1796 – 1859): Nhà sư phạm, nhà chính trị nổi tiếng người Mỹ thế kỷ 19.

Tôi thực sự tin rằng tính kỷ luật chính là đặc tính chung của tất cả những người thành đạt. Tôi rất ngưỡng mộ thành quả của nhà quản lý bảo hiểm Albert E. N. Gray, người đã dành cả đời mình để khám phá ra mẫu số chung của sự thành công. Cuối cùng, ông đã đi đến một kết luận đơn giản nhưng rất sâu sắc, rằng mặc dù sự làm việc chăm chỉ, sự may mắn và sự khéo léo trong các mối quan hệ đều rất quan trọng nhưng người thành đạt thường có “thói quen làm những việc mà người thất bại không thích làm”. Những người thành đạt thực ra không nhất thiết phải thích làm những việc đó, nhưng sự không thích của họ bị khuất phục bởi sức mạnh hướng tới mục đích.

SỰ ĐAM MÊ

Sự đam mê xuất phát từ tâm hồn và là biểu hiện của sự lạc quan, niềm hứng thú, sự gắn kết tình cảm và lòng quyết tâm. Sự đam mê như một ngọn lửa làm bùng cháy nghị lực. Sự hăng hái nhiệt tình bắt nguồn từ sức mạnh lựa chọn hơn là từ hoàn cảnh. Những người nhiệt tình tin rằng cách tốt nhất để biết được tương lai là phải tạo ra nó. Thực ra, nhiệt tình là một nhu cầu tinh thần, nó làm cho người ta trở thành một bộ phận của giải pháp chứ không phải một bộ phận của cảm giác vô vọng và bất lực.

Triết gia Aristotle nói rằng: “Khi tài năng của con người và nhu cầu của thế gian gặp nhau thì thiên hướng của bạn xuất hiện”. Chúng ta cũng có thể nói: “Đó là nơi sinh ra sự đam mê của bạn, nơi bắt nguồn tiếng nói của bạn” hay cũng có thể hiểu nơi đó làm tăng sức sống và cho bạn thêm nghị lực. Đó là nguồn nhiên liệu cho tầm nhìn và tính kỷ luật. Nó luôn ở bên bạn trong khi mọi thứ khác có thể bị mất đi một ngày nào đó. Một vị bác sĩ hỏi một người rằng anh ta làm việc bao nhiêu giờ trong một tuần. Câu trả lời là: “Tôi không để ý. Thế trong một tuần bác sĩ hít thở bao nhiêu giờ?”. Thật vậy, khi cuộc sống, công việc, vui chơi giải trí và tình yêu đều xoay quanh cùng một thứ, thì đó là lúc bạn đang có niềm đam mê lớn!

Chìa khóa để tạo niềm đam mê trong cuộc sống là tìm ra những tài năng độc đáo và vai trò riêng cũng như mục đích của bạn trong cuộc đời này. Điều quan trọng là cần phải hiểu rõ bản thân trước khi bạn quyết định làm điều mình muốn. Triết học Hy Lạp nói rằng: “Biết mình, kiểm soát mình và cống hiến hết mình” là một đúc kết đầy sự tinh tế. Tài năng, sứ mệnh hoặc vai trò của một người là do khơi gợi, phát hiện ra chứ không phải do tạo ra.

Có một quan niệm sai lầm phổ biến cho rằng kỹ năng của một người chính là tài năng của người đó. Thực ra kỹ năng không phải là tài năng. Ngược lại, tài năng lại đòi hỏi phải có kỹ năng. Người ta có thể có các kỹ năng và kiến thức trong các lĩnh vực mà họ không hề có chút tài năng nào. Nếu một người có một công việc đòi hỏi những kỹ năng mà không cần đến tài năng thì chắc chắn tổ chức dùng họ sẽ không bao giờ có thể khai thác được sự đam mê cũng như tiếng nói của họ. Họ có thể sẽ chỉ giả vờ làm việc và do đó lại cần có người giám sát và đốc thúc họ.

Nếu bạn thuê được người làm mà công việc bạn giao phù hợp với sự đam mê của họ thì bạn không cần bất cứ ai giám sát họ cả. Họ sẽ tự kiểm soát bản thân tốt hơn bất kỳ người giám sát nào. Nhiệt huyết và động cơ thúc đẩy họ xuất phát từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài. Hãy thử nhớ lại những lần bạn say mê một dự án nào đó, có điều gì đó vô cùng hấp dẫn và cuốn hút bạn mạnh mẽ đến nỗi bạn khó có thể suy nghĩ về bất cứ cái gì khác. Liệu khi ấy bạn có cần người khác quản lý hay giám sát bạn không? Tất nhiên là không. Khi ấy ý nghĩ cần có người khác dạy bảo bạn khi nào cần phải làm việc và làm việc như thế nào sẽ là một sự sỉ nhục lớn.

Khi bạn có thể cống hiến hết mình vì công việc, đồng thời kết hợp được nhu cầu với tài năng, sự đam mê của bạn thì lúc bấy giờ sức mạnh tiềm tàng của bạn sẽ được giải phóng.

LƯƠNG TÂM

Hãy cố giữ mãi trong biển lửa vô tận một tia nhỏ – Đó chính là lương tâm.

- GEORGE WASHINGTON

Ngay từ đầu cuốn sách này, tầm quan trọng đặc biệt của lương tâm đã được nói đến rất nhiều. Có vô số bằng chứng cho thấy lương tâm, một ý thức về đạo lý, ngọn lửa rực cháy từ bên trong là một hiện tượng có tính phổ quát. Bản chất tinh thần hay đạo lý này của con người không lệ thuộc vào tôn giáo, văn hóa, địa lý, quốc tịch hoặc chủng tộc. Tuy nhiên, mọi giáo lý chính yếu của các tôn giáo trên thế giới đều đồng nhất với nhau ở điểm các nguyên tắc hay giá trị cơ bản.

Triết gia Immanuel Kant10 nói: “Tôi không ngừng kinh ngạc bởi hai điều này: đó là vũ trụ bao la trên đầu tôi và nguyên tắc đạo lý sâu thẳm bên trong tôi”. Lương tâm là những quy tắc đạo lý tiềm ẩn trong lòng chúng ta. Nó là sự kết hợp giữa quy tắc đạo đức và hành vi. Cũng như tôi, nhiều người tin rằng lương tâm chính là tiếng nói của Thượng đế truyền cho những đứa con của mình. Những người khác có thể không chia sẻ niềm tin này, nhưng họ vẫn thừa nhận rằng con người có một ý thức bẩm sinh về sự công bằng, công lý, ý thức bẩm sinh về cái đúng và cái sai, cái tốt và cái xấu, cái có ích và cái vô ích, cái làm đẹp và cái hủy hoại, cái thật và cái giả. Chúng ta phải thừa nhận một điều rằng văn hóa biến ý thức đạo đức cơ bản này thành những tục lệ và tên gọi khác nhau, nhưng sự diễn giải này không phủ định ý nghĩa cơ bản giữa cái đúng và cái sai.

10. Immanuel Kant (1724 – 1804): Triết gia người Đức. Ông được xem là một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của châu Âu thời cận đại.

Khi tôi làm việc tại nhiều quốc gia với những tôn giáo và văn hóa khác nhau, tôi nhận thấy lương tâm phổ quát này luôn được bộc lộ ở khắp nơi. Thực sự có một tập hợp các giá trị, ý thức về sự công bằng, lương thiện, tôn trọng và cống hiến vượt lên trên mọi nền văn hóa – một cái gì đó vĩnh cửu, vượt trên mọi thời đại và là một sự thật hiển nhiên. Nó cũng hiển nhiên như sự thật rằng sự tin cậy đòi hỏi sự đáng tin cậy (trust requires trustworthiness).

LƯƠNG TÂM VÀ CÁI TÔI

Lương tâm là tiếng nói nhỏ yên vị trong nội tâm. Nó tĩnh lặng, bình yên. Còn cái tôi thì tàn bạo, chuyên quyền và độc tài. Cái tôi chỉ quan tâm đến sự tồn tại, sự vui thú và sự thăng tiến của riêng mình mà không cần biết đến người khác, nói cách khác nó nuôi tham vọng một cách ích kỷ. Cái tôi nhìn nhận và đánh giá các mối quan hệ dưới góc độ của một mối đe dọa, như một đứa trẻ phân chia những người quanh nó thành hai loại: “những người dễ mến” và “những người đáng ghét”. Ngược lại, lương tâm vừa mở rộng vừa nâng cái tôi lên cao, hướng đến nhận thức lớn hơn của tập thể, cộng đồng, và những giá trị tốt đẹp hơn. Lương tâm nhìn cuộc sống dưới góc độ phục vụ và cống hiến, vì sự an toàn và sự thỏa mãn của người khác.

Cái tôi có thể phát huy tác dụng khi đương đầu với khủng hoảng nhưng không có sự sáng suốt để đánh giá mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng hay sự đe dọa. Lương tâm có sự sáng suốt và ý thức được về mức độ của mối đe dọa. Lương tâm chứa đựng cả một kho tàng các phản ứng. Nó có sự kiên nhẫn và sáng suốt để quyết định nên làm gì, làm khi nào và như thế nào. Lương tâm là một quá trình liên tục trong cuộc sống của chúng ta. Nó có khả năng thích nghi với những tình huống phức tạp nhất.

Cái tôi không biết nghỉ ngơi. Nó sục sạo trong từng ngóc ngách nhỏ nhất. Nó làm giảm sức mạnh và kìm hãm năng lực của bạn. Lương tâm thì khác, nó coi trọng mọi người một cách sâu sắc và nhận thấy tiềm năng tự chủ ở con người. Lương tâm làm tăng thêm sức mạnh cho con người. Nó phản ánh giá trị của con người, đồng thời khẳng định sức mạnh và sự tự do lựa chọn của họ để từ đó xuất hiện bản tính tự kiểm soát vốn có mà không cần sự áp đặt từ trên xuống hay từ bên ngoài vào. Cái tôi bị đe dọa bởi những thông tin phản hồi tiêu cực và nó trừng phạt người đưa tin. Nó giải mã mọi dữ liệu thông qua bản năng sinh tồn. Nó không ngừng kiểm duyệt thông tin và phủ định phần lớn hiện thực. Lương tâm thì lại coi trọng những thông tin phản hồi và luôn cố gắng phân biệt và tìm ra sự thật. Nó không sợ thông tin và có khả năng lý giải chính xác điều gì đang xảy ra. Nó không cần phải kiểm duyệt thông tin và nó luôn mở cửa tiếp nhận nhận thức về thực tại từ mọi hướng.

Cái tôi có cái nhìn thiển cận, nó lý giải mọi thứ trong cuộc sống qua nhận thức chủ quan. Lương tâm là một nhà sinh thái học xã hội, nó lắng nghe và cảm nhận toàn thể hệ thống rồi sau đó đem ánh sáng đến cho thể xác con người, nó có khả năng mở rộng cái tôi để nhận thức thế giới chính xác hơn.

NHỮNG HIỂU BIẾT SÂU HƠN VỀ LƯƠNG TÂM

Lương tâm là sự hy sinh – tức sự phục tùng của bản ngã (self) hay cái tôi (ego) vì mục đích, sự nghiệp hoặc nguyên tắc cao cả hơn. Hơn nữa, sự hy sinh thực sự có nghĩa là sự từ bỏ một điều tốt đẹp để đạt được một điều tốt đẹp hơn. Nhưng trong tâm trí của người hy sinh, họ không xem đó là sự hy sinh mà chỉ có người ngoài cuộc mới nhận ra điều đó.

Sự hy sinh có nhiều hình thức khác nhau như nó được thể hiện ở bốn mặt của cuộc sống: sự hy sinh vật chất và kinh tế (thể xác); sự trau dồi trí óc, sự rộng mở, ham hiểu biết và tự trừng phạt bản thân về định kiến của mình (trí tuệ); sự bày tỏ lòng tôn trọng và yêu thương đối với mọi người (tâm hồn); và sự bắt buộc ý muốn nhất thời phải phục tùng ý chí hướng đến mục đích cao cả hơn (tinh thần).

Một triết lý mới, một lối sống mới không phải là thứ tự nhiên mà có. Nó đòi hỏi phải trả giá đắt và chúng ta chỉ có thể thật sự sở hữu nó bằng sự kiên trì và nỗ lực lớn.

- FYODOR DOSTOEVSKY

Lương tâm cho chúng ta biết rằng mục đích và phương tiện không tách rời nhau và mục đích thường có trước phương tiện. Immanuel Kant từng nói rằng phương tiện dùng để đạt được mục đích cũng quan trọng không kém mục đích. Machiavelli11 thì nói ngược lại rằng mục đích biện minh cho phương tiện.

11. Niccoli di Bernardo dei Machiavelli (1469 – 1527): Nhà triết học chính trị, nhà ngoại giao, nhạc sĩ, nhà thơ, nhà biên kịch người Ý thời Phục hưng.

Hãy xem xét bảy điều sau đây mà theo giáo huấn của Gandhi, sẽ hủy hoại chúng ta. Nếu nghiên cứu kỹ bảy điều này, bạn sẽ nhìn thấy rất rõ ràng mỗi điều trong số này tượng trưng cho một kết thúc được hoàn tất bằng những phương tiện vô nguyên tắc hay vô giá trị.

* Giàu có không cần làm việc.

* Vui thú bất chấp lương tâm.

* Kiến thức bất cần nhân cách.

* Kinh doanh vô đạo đức.

* Khoa học phi nhân văn.

* Thờ phụng không dâng hiến.

* Chính trị vô nguyên tắc.

Nếu bạn đạt được một mục đích đáng khen ngợi bằng phương tiện sai trái thì cuối cùng mục đích đó sẽ hóa thành tro bụi trong bàn tay bạn.

Trong kinh doanh, bạn biết ai là người trung thực, giữ lời hứa và hoàn thành cam kết với bạn. Bạn cũng biết chính xác ai là người gian lận, dối trá và bất lương. Ngay cả khi bạn ký hợp đồng hợp pháp với những người bất lương, thì liệu bạn có tin rằng họ sẽ thực hiện đúng hợp đồng và cam kết sẽ được thực hiện?

Chính lương tâm nói cho chúng ta biết giá trị của cả mục đích lẫn phương tiện và cho chúng ta biết bằng cách nào mà chúng không tách rời nhau. Còn cái tôi nói với chúng ta rằng mục đích biện minh cho phương tiện, mà không nhận thấy rằng một mục đích tốt đẹp không bao giờ có thể đạt được bằng những phương tiện xấu xa. Dù nhìn chung có vẻ như bạn đã đạt được bằng cách đó, nhưng sẽ có những hậu quả không thể nào lường trước được đi kèm và cuối cùng nó sẽ hủy hoại kết quả đã đạt được. Ví dụ, bạn có thể la hét con cái mình để bắt chúng lau dọn nhà cửa, và nếu mục đích của bạn là để có nhà sạch thì bạn xem như đã đạt được. Nhưng tôi cam đoan với bạn rằng cách cư xử như thế không những có ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ với con cái, mà nhà cửa cũng khó mà sạch sẽ khi vắng mặt bạn.

Trí khôn thể hiện qua việc bạn theo đuổi những mục đích tốt đẹp nhất bằng những phương tiện

tốt đẹp nhất.

- FRANCES HUTCHESON

Lương tâm làm thay đổi sâu sắc tầm nhìn, tính kỷ luật và sự đam mê bằng cách đưa chúng ta vào thế giới của các mối quan hệ. Nó chuyển chúng ta từ giai đoạn độc lập (independence) sang giai đoạn tương thuộc (interdependence). Khi điều này xảy ra, tất cả mọi thứ xung quanh bạn đều sẽ thay đổi. Bạn nhận ra rằng mình cần phải chia sẻ tầm nhìn và các giá trị trước khi những người xung quanh bạn sẵn lòng chấp nhận những cấu trúc và hệ thống kỷ luật được thể chế hóa trong các giá trị đó. Tầm nhìn được chia sẻ sẽ tạo ra tính kỷ luật và trật tự một cách vô điều kiện. Lương tâm thường giải thích cho bạn nguyên nhân (why), tầm nhìn xác định điều bạn đang cố gắng đạt được là gì (what), kỷ luật cho bạn biết làm thế nào (how) để đạt được điều đó, và đam mê thể hiện sức mạnh cảm xúc đằng sau những nguyên nhân, việc gì và như thế nào.

Lương tâm biến đam mê thành sự đồng cảm. Nó làm cho chúng ta biết cách quan tâm giúp đỡ người khác, một sự kết hợp giữa thông cảm và đồng cảm, nơi nỗi đau của một người được xoa dịu bởi một người khác. Sự đồng cảm là một biểu hiện tương thuộc của sự đam mê.