Đó là một cảnh tượng kỳ lạ. Cho tới bây giờ mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn không thể nào tin được những gì đã xảy ra. Tôi vừa mới kết thúc buổi họp giao ban sáng thứ Hai với các thành viên trong ban giám đốc của công ty sau khi nghe báo về việc lợi nhuận của GlobalView đang trượt từ mức tệ xuống mức tệ hơn. Trong cuộc họp, một vị trưởng phòng đã báo cáo rằng một vài lập trình viên chủ chốt của công ty đang có ý định đầu quân cho một công ty nhỏ hơn, nơi mà những nỗ lực của họ sẽ được ghi nhận và tưởng thưởng xứng đáng. Anh còn nói thêm là mối quan hệ giữa đội ngũ quản lý và nhân viên trong công ty ngày càng trở nên xấu đi. Anh giận dữ nhấn mạnh, “Nhân viên không còn tin tưởng vào chúng ta nữa!”.
Một vị quản lý khác bồi thêm, “Đâu chỉ có vậy, tinh thần làm việc nhóm cũng không còn. Hồi chúng ta chưa phát triển được như thế này, mọi người luôn sẵn sàng giúp đỡ nhau. Ai cũng muốn hoàn thành công việc tốt nhất có thể. Tôi nhớ ngày xưa, khi gần đến thời hạn phải xuất một lô hàng lớn, tất cả sẽ dốc sức cùng nhau, đôi khi chúng ta làm việc thâu đêm suốt sáng. Tôi thậm chí còn nhớ những lần các lập trình viên và các vị trưởng phòng xắn tay áo lên giúp mọi người đóng thùng và chuẩn bị chất hàng lên xe. Bây giờ thì ai cũng chỉ nghĩ cho bản thân mình. Ai cũng khư khư vì bản thân. Tôi thật sự không chịu nổi nữa!”.
Mặc dù vẫn tỏ ra bình tĩnh một-cách-không-giống-tôi-chút-nào trong suốt cuộc họp, nhưng khi đi dọc hành lang từ phòng họp của ban giám đốc về văn phòng của mình, tôi lo lắng đến vã mồ hôi. Sự căng thẳng suốt mấy tháng qua đang hủy hoại tôi, và tôi biết mình phải làm điều gì đó để chấm dứt tình trạng sa sút này của công ty. Tôi chỉ không biết phải chia sẻ với ai, hay phải làm gì lúc này. Dĩ nhiên, tôi hoàn toàn có thể thuê một đội tư vấn chuyên nghiệp, và họ sẽ đưa ra những giải pháp tức thời để giải quyết những vấn đề đang ăn mòn chúng tôi. Nhưng tôi cảm thấy mình cần phải đào sâu hơn nữa để tìm hiểu tường tận căn nguyên vấn đề, xem điều gì đã khiến một công ty có tầm nhìn cùng một tập thể đoàn kết và đầy đam mê thuở ban đầu trở thành một bộ máy quan liêu cồng kềnh, nơi mà người ta chỉ trông chờ đến ngày nó đóng cửa.
Khi tôi về đến phòng làm việc, trán tôi lấm tấm mồ hôi và áo sơ mi thì ướt đẫm. Thấy cảnh đó, cô trợ lý của tôi vội chạy lại đỡ lấy tay tôi. Khi dìu tôi đến chiếc trường kỷ bọc da sang trọng sát bên cái kệ sách cao đụng trần trong căn phòng xa hoa, cô hỏi tôi có cần gọi vị bác sĩ riêng đến không, hay thậm chí là gọi một chiếc xe cấp cứu. Chẳng buồn đáp lại cô cho đúng phép lịch sự, tôi nằm vật xuống ghế, hai mắt nhắm nghiền. Tôi từng đọc ở đâu đó rằng cách hữu hiệu nhất để lấy lại bình tĩnh sau khi gặp phải một tình huống căng thẳng là hãy tưởng tượng trong đầu một khung cảnh bình yên. Tôi đang cố sức làm như vậy.
Khi tôi vừa mới bắt đầu thư giãn thì một tiếng động lớn vang lên khiến tôi giật mình. Nghe có vẻ như ai đó đã ném đá vào cửa sổ phòng tôi. Tôi bật dậy và lao đến ô cửa sổ lớn để tìm thủ phạm, nhưng chẳng nhìn thấy ai. Có thể do quá căng thẳng nên tôi bị ảo giác. Thế nhưng trong lúc tôi quay trở lại ghế ngồi thì tiếng động ấy lại vang lên, và lần này thậm chí còn lớn hơn. “Ai vậy nhỉ?”, tôi tự hỏi và nghĩ rằng mình nên bảo cô trợ lý gọi cho bộ phận an ninh ngay lập tức. “Có lẽ lại là một anh chàng lập trình viên bất mãn nào đó đang tỏ thái độ với sếp”, tôi nghĩ vậy và càng cảm thấy bực bội hơn. Tôi lại lao đến cửa sổ, và lần này, tôi nhìn thấy một người đang đứng giữa khu vườn hoa hồng, nơi mà tôi có thể nhìn xuống từ căn phòng làm việc của mình ở tầng hai. Tôi nheo mắt nhìn kỹ hơn và kinh ngạc bởi những gì xuất hiện trước mắt mình.
Đó là một chàng trai trẻ đang khoác chiếc áo choàng trùm đầu màu đỏ, kiểu trang phục mà tôi từng nhìn thấy các nhà sư Tây Tạng mặc khi tôi có dịp đi du lịch đến vùng đất xa xôi đó hơn mười năm trước. Khi ánh mặt trời chiếu sáng khuôn mặt điển trai mờ ảo của chàng trai lạ mặt, chiếc áo choàng của anh bay phất phơ trong gió, khiến anh có dáng vẻ huyền bí đến mức gần như thoát tục. Trên khuôn mặt anh là nụ cười rạng rỡ, và dưới chân anh là một đôi xăng-đan.
Sau khi ý thức được đây không phải là ảo giác của một gã CEO kiệt sức vì điều hành một công ty đang dần chìm vào quên lãng, tôi giận dữ đấm vào cửa sổ. Chàng trai trẻ vẫn không hề di chuyển. Anh vẫn đứng yên đó, với nụ cười trên môi. Sau đó, anh hồ hởi vẫy tay với tôi. Tôi không thể nào chấp nhận sự thiếu tôn trọng này. Gã hề này đột nhập vào khu đất của tôi, phá hoại vườn hồng của tôi và rõ ràng là đang cố trêu chọc tôi. Ngay lập tức, tôi ra lệnh cho cô trợ lý Arielle gọi bảo vệ. Tôi yêu cầu, “Hãy lôi vị khách không mời kia đến phòng làm việc của tôi ngay, trước khi hắn kịp chuồn mất. Hắn cần được dạy cho một bài học - một bài học mà cả đời này hắn sẽ không thể nào quên”.
Vài phút sau, bốn bảo vệ xuất hiện trước cửa phòng tôi, một trong số họ đang thận trọng giữ lấy cánh tay của chàng trai lạ mặt trẻ tuổi kia, người đang tỏ ra rất hợp tác. Lạ là anh ta vẫn mỉm cười, và anh toát lên sức mạnh cùng với sự an nhiên khi đang đứng trước cửa văn phòng tôi. Anh không có vẻ gì là sợ sệt khi bị bắt và áp giải vào phòng tôi. Và mặc dù anh vẫn im lặng, tôi có cảm giác kỳ lạ là mình đang đứng trước một con người thông tuệ. Đó là thứ cảm giác mà tôi từng có khi ở cùng cha mình. Tôi thật sự không thể giải thích thêm được. Có thể đó là trực giác, và trực giác đang mách bảo tôi rằng chàng thanh niên này là người hiểu biết hơn những gì mà khuôn mặt trẻ tuổi của anh đang thể hiện. Thật ra, tôi cho rằng những điều đó được thể hiện qua đôi mắt của anh.
Nhiều năm lăn lộn trên thương trường đã giúp tôi học được một điều rằng đôi mắt có thể tiết lộ bản chất con người. Chỉ cần chịu dành thời gian tìm hiểu, bạn có thể nhìn ra sự nồng nhiệt, bất an, dối trá hay trung thực từ ánh mắt của người khác. Đôi mắt của chàng thanh niên đó cho tôi biết anh là người có trí tuệ. Đôi mắt đó cũng cho thấy anh có lý tưởng sống rõ ràng, và có lẽ còn có chút lém lỉnh nữa. Tôi nhìn thật kỹ chiếc áo choàng đỏ của anh và nhận thấy nó được thiết kế khá công phu với hoa văn tinh xảo. Mặc dù đang ở trong nhà nhưng anh vẫn không cởi mũ trùm đầu, điều này càng khiến dáng vẻ của anh thêm phần kỳ bí.
Mặt tôi đỏ gay, tay ướt đẫm mồ hôi, tôi lên tiếng hỏi, “Anh là ai, sao anh lại ném đá vào cửa sổ phòng tôi?”.
Chàng trai vẫn im lặng, môi anh vẫn mỉm cười. Sau đó, hai bàn tay anh bắt đầu cử động và chắp lại thành tư thế cầu nguyện. Anh chào tôi theo nghi thức truyền thống của người Ấn Độ.
Tôi nghĩ, “Thật không thể tin được! Đầu tiên thì hắn giẫm đạp vườn hồng của mình, khu vườn mà mình thích ngắm nhìn mỗi khi công việc trở nên tồi tệ. Sau đó hắn ném đá vào cửa sổ văn phòng mình khiến mình phát hoảng lên. Còn giờ khi đứng giữa bốn bảo vệ chuyên nghiệp lực lưỡng, những người có thể vật hắn xuống sàn trong chớp mắt, hắn vẫn còn cả gan trêu ngươi mình!”.
Tôi lớn tiếng, “Nghe này nhóc, tôi không biết anh là ai và từ đâu đến, và nói thật thì tôi chẳng quan tâm mấy chuyện đó. Anh có thể tiếp tục mặc cái áo choàng ngớ ngẩn đó và cứ giữ nụ cười cũng ngớ ngẩn của anh. Cứ hợm hĩnh đi, tôi sắp gọi cho cảnh sát đây. Nhưng trước khi tôi gọi cảnh sát, sao anh không nói cho tôi biết tại sao anh lại ở đây?”.
“Tôi ở đây để giúp anh đổi mới phương thức lãnh đạo, Peter”, chàng trai trẻ đáp lại với giọng uy nghiêm khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Anh nói tiếp, “Tôi ở đây để giúp anh vực dậy công ty, và sau đó vươn ra tầm thế giới”.
Sao hắn lại biết tên tôi? Có thể anh chàng này khá nguy hiểm. Tôi nghĩ thật may khi mình đã gọi bảo vệ trước. Mà việc giúp tôi “đổi mới phương thức lãnh đạo” rồi “vực dậy công ty” là cái quái gì thế? Nếu gã hề này là nhân viên tư vấn đang cố thu hút sự chú ý của tôi để lấy được một hợp đồng béo bở thì hắn đã chọn sai cách rồi. Tại sao anh ta không gửi cho tôi mấy bản đề án như mấy tay “chuyên viên làm nên sự thay đổi” khác, mấy gã toàn lấy giá cắt cổ nhưng làm ăn không tới nơi tới chốn và có biệt tài nghĩ ra các dự án không cần thiết chỉ để đảm bảo bản thân sẽ có đủ tiền để nghỉ hưu sớm đó!
“Anh không biết tôi là ai đâu, đúng không, Peter?”, chàng trai trẻ hỏi với giọng thân thiện.
“Đúng vậy, tôi không biết anh là ai. Nếu anh không cho tôi biết ngay bây giờ, tôi sẽ tống anh ra khỏi văn phòng và ném vào nhà xe đấy!”, tôi hét lên với giọng đe dọa.
Chàng trai đột nhiên cười to, “Tôi thấy là anh vẫn rất nóng tính đấy Peter. Chúng ta sẽ cần phải điều chỉnh lại tính khí này. Tôi cá là tật xấu này không hề giúp anh có được sự trung thành của nhân viên. Tôi còn biết nó chẳng giúp được gì ngoài việc tạo ảnh hưởng xấu đến mấy ván golf mà vốn dĩ anh chơi cũng chẳng tốt cho lắm”.
“Anh có biết anh đang nói chuyện với ai không, tên nhóc kiêu ngạo hỗn xược kia?”, tôi hét lên bất chấp sự thật là vị khách bí ẩn này cao hơn một mét tám và trông rất khỏe mạnh. “Ai cho phép anh nhạo báng tôi? Và làm thế nào anh biết tôi chơi golf? Nếu từ trước tới giờ anh đã theo dõi tôi, thì chắc chắn tôi sẽ gọi cảnh sát để tống anh vào tù. Đây là hành vi quấy rối nghiêm trọng!”, tôi cảnh cáo trong lúc người ướt đẫm mồ hôi vì giận dữ.
Rồi chàng trai trẻ làm một việc khiến tôi sửng sốt. Anh đưa tay vào sâu trong áo choàng và lấy ra một trái bóng golf mạ vàng. Anh ném trái bóng lên cao để tôi bắt lấy. Vẫn mỉm cười, anh nói, “Tôi nghĩ anh muốn lấy lại nó”.
Tôi sững người nhìn trái bóng đang nằm gọn trong lòng bàn tay mình. Trên trái bóng đó có khắc dòng chữ: Chúc mừng sinh nhật 50 tuổi, Julian. Một trái bóng golf bằng vàng dành tặng người đã có mọi thứ. Và bên dưới là dòng chữ ký: Mãi mãi là bạn của anh - Peter. Làm sao anh ta lại có trái bóng này? Vài năm trước, tôi đã tặng nó cho Julian Mantle, người bạn chơi golf của mình. Julian là nhân vật truyền kỳ trong giới kinh doanh, và là một trong số ít những người bạn lâu năm của tôi. Anh là người đàn ông vô cùng thông minh và được công nhận là một trong những luật sư xuất sắc nhất nước Mỹ. Khác với tôi, Julian xuất thân từ gia đình giàu có, ông nội anh là một thượng nghị sĩ nổi tiếng, và cha anh là thẩm phán Tòa án Liên bang. Được dọn đường để thành công từ sớm, Julian tốt nghiệp thủ khoa Trường Luật của Đại học Harvard và có được vị trí nhiều người thèm muốn tại một công ty luật danh tiếng.
Chỉ trong vài năm ngắn ngủi, tên tuổi anh nổi như cồn khắp cả nước, và khách hàng lớn của anh là những tập đoàn có giá trị hàng tỷ đô-la, những đội thể thao tiếng tăm và thậm chí là các quan chức chính phủ. Ở thời hoàng kim, anh quản lý một nhóm quy tụ tám mươi lăm luật sư tài năng và liên tục thắng hết vụ kiện này đến vụ kiện khác - một điều khiến tôi ngưỡng mộ đến tận bây giờ. Với thu nhập hàng năm lên đến hàng triệu đô-la, Julian có mọi thứ mà người khác phải ao ước: một dinh thự trong khu vực sang trọng với hàng xóm là các siêu sao nổi tiếng, máy bay riêng, biệt thự nghỉ dưỡng tại một hòn đảo nhiệt đới, và niềm kiêu hãnh lớn nhất của anh - một chiếc Ferrari màu đỏ bóng loáng đậu ngay giữa sân nhà. Nhưng cũng giống tôi, Julian cũng có những điểm yếu riêng.
Anh là một gã cuồng công việc, thường xuyên làm việc thâu đêm và chỉ dành vài giờ chợp mắt trên chiếc trường kỷ trong góc văn phòng sang trọng của mình trước khi bắt đầu một guồng quay bất tận mới. Mặc dù tôi rất thích chơi golf với Julian, nhưng anh hiếm khi có thời gian cho việc đó. Tôi thường nhận được cùng một lý do từ trợ lý của anh, “Thật xin lỗi, ngài Franklin, tuần này ngài Mantle không thể đánh golf với ông được vì có tình huống khẩn cấp trong vụ kiện. Ngài Mantle gửi lời xin lỗi đến ông”. Người đàn ông này không ngừng thúc đẩy bản thân tiến về phía trước, và theo thời gian, anh mất dần bạn bè cũng như người vợ từng hết lòng cảm thông với anh.
Thú thực, tôi đã nghĩ Julian là kiểu người chẳng màng đến sống chết. Anh không chỉ làm việc quá điên cuồng mà còn sống quá cuồng điên. Julian nổi tiếng vì thường ghé đến những nhà hàng sang trọng nhất thành phố lúc nửa đêm cùng với các cô người mẫu nóng bỏng, nốc rượu như nước lã cùng đám bạn ồn ào, và những bữa tối muộn này thường kết thúc bằng các vụ ẩu đả mà báo chí sẽ đưa tin vào ngày hôm sau. Mặc dù luôn phủ nhận, nhưng Julian Mantle đang hủy hoại bản thân mình từng ngày. Tôi nhận ra điều đó, các đồng sự của Julian cũng nhận ra điều đó, và thật sự tôi nghĩ Julian cũng biết điều đó.
Tôi buồn rầu nhìn anh trượt dốc. Ở tuổi năm mươi ba, trông anh chẳng khác nào ông lão sắp bước sang tuổi tám mươi. Áp lực công việc liên miên cộng thêm lối sống phóng túng đã tàn phá cơ thể anh, để lại cho anh một gương mặt đầy nếp nhăn. Ăn những bữa tối muộn tại các nhà hàng Pháp sang trọng, hút xì gà Cuba loại nặng và uống hết chai rượu cô-nhắc này đến chai rượu cô-nhắc khác đã khiến anh trở nên béo phì. Anh liên tục than phiền rằng mình cảm thấy muốn bệnh và mệt mỏi vì cứ mãi bệnh và mệt mỏi. Dần dần, anh mất đi sự hóm hỉnh vốn có và hiếm khi cười đùa. Và cuối cùng anh cũng nghỉ chơi golf, mặc dù tôi biết anh rất yêu thích môn thể thao này cũng như những buổi gặp gỡ của chúng tôi. Quá bận rộn với công việc, Julian thậm chí không còn gọi điện cho tôi nữa. Tôi biết anh cần tình bạn này cũng nhiều như tôi vậy, nhưng tôi đoán anh chỉ đơn giản là không quan tâm gì nữa.
Rồi bi kịch ập đến với Julian Mantle Vĩ Đại. Vào một buổi sáng thứ Hai, khi đang đứng giữa tòa án đông kín người để bào chữa cho hãng hàng không Air Atlantic, một khách hàng thân thiết của mình, Julian bất ngờ ngã quỵ. Giữa tiếng la hét huyên náo của phụ tá và ánh đèn camera chớp nháy liên hồi của cánh truyền thông đang hiện diện trong phiên tòa, Julian nhanh chóng được đưa vào bệnh viện. Khi đến nơi, Julian được chẩn đoán bị nhồi máu cơ tim nghiêm trọng và nhanh chóng được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt. Bác sĩ nói Julian đã kề cận cái chết hơn bất kỳ bệnh nhân nào mà ông từng điều trị. Nhưng bằng cách nào đó, anh đã sống sót. Các bác sĩ gọi anh là một chiến binh kiên cường và có “khát vọng sống mãnh liệt”.
Biến cố đáng buồn ấy đã khiến Julian thay đổi hoàn toàn. Ngay hôm sau, anh tuyên bố rời khỏi ngành luật. Tôi nghe nói Julian đã đến Ấn Độ trong một hành trình khám phá nào đó. Anh nói với một cộng sự rằng anh “cần một vài lời giải đáp” và hy vọng có thể tìm thấy chúng ở vùng đất cổ xưa đó, nơi hội tụ trí tuệ của nhân loại qua hàng thế kỷ. Trong quá trình “rửa tay gác kiếm” khiến người ta sửng sốt đó, Julian đã bán dinh thự sang trọng của mình, bán cả chiếc máy bay riêng và bán luôn hòn đảo. Tuy nhiên, hành động cuối cùng trước khi ra đi của anh mới là bất ngờ nhất: Julian đã bán chiếc Ferrari mà anh vô cùng yêu quý.
Tâm trí tôi nhanh chóng quay về với chàng trai trẻ đang mặc chiếc áo choàng dành cho tu sĩ, người vẫn đang mỉm cười đứng giữa văn phòng và vẫn đội mũ trùm đầu che mái tóc nâu dày. Tôi hạ giọng, “Làm sao anh có được quả bóng golf mạ vàng này? Tôi đã tặng nó cho một người bạn thân thiết vài năm trước nhân dịp sinh nhật của anh ấy”.
Vị khách trả lời, “Tôi biết chuyện đó mà. Anh ấy thật sự trân trọng những gì anh đã làm”.
Tôi kiên nhẫn, “Vậy thì anh có thể nói cho tôi biết làm sao anh biết điều đó không?”.
“Bởi vì tôi chính là người bạn thân thiết đó của anh. Tôi là Julian Mantle.”