1 Chung Quỳ là một vị thần diệt yêu trừ ma trong truyền thuyết dân gian Trung Hoa.
C
ứ theo tính tình thường ngày, Cảnh Tiểu Thiên tuyệt đối không bằng lòng ngồi trên xe ngựa mà lắc lư đi lại.
Trời sinh cậu tính tình tự do phóng khoáng, lý tưởng mà thiếu niên Du Châu mười chín tuổi luôn hướng tới là giục ngựa giang sơn, hiệp nghĩa anh hùng. Năm đó trong thành Du Châu nghe người thuyết thư mặt mày hăng hái giọng điệu say sưa kể lại những chuyện tiền triều, cậu đã mơ không biết bao nhiêu giấc mộng anh hùng vĩ đại.
Nhưng mà, đi mãi đến giờ, Cảnh Tiểu Thiên thất vọng.
Cậu cùng Tạ Trường Khanh ngày ngày ngồi trong chiếc xe ngựa trải cỏ xanh, nhét đầy cái lỗ tai bằng tiếng trẻ sơ sinh gào khóc không ngừng, nhìn thấy những thứ bẩn thỉu dơ dáy mà nó thải ra hằng ngày, bữa nào cũng phải vật lộn đến kiệt sức mới bắt nó uống cho xong sữa.
Cảnh Tiểu Thiên cảm thấy kiếp sống giang hồ của mình đã hoàn toàn sụp đổ sau khi gặp phải đứa trẻ sơ sinh này.
Cái gì trường kiếm thiên hạ, anh hùng hiệp nghĩa, khí phách hiên ngang… tất cả đều là gạt người, người trong giang hồ cũng không thoát khỏi việc phải ăn phải uống, đại tiện tiểu tiện. Thậm chí đôi khi, nghe thấy bên ngoài xe ngựa có tiếng người đi đường giằng co cãi cọ, Cảnh Tiểu Thiên không nhịn được muốn nhảy xuống “hành hiệp” một phen, thì Tạ Trường Khanh vẫn đang nhắm mắt dưỡng thần sẽ lập tức tỉnh táo trở lại, mở choàng mắt nói một câu: “Cảnh huynh đệ, chớ để những chuyện linh tinh làm lỡ đại sự của chúng ta”.
Cảnh Tiểu Thiên cực kỳ bí bách.
Lão tử đây bước chân vào giang hồ hay là ngồi tù hả? Được rồi.
Đi qua Tung Sơn, nhìn thấy núi Thiếu Thất mỹ cảnh như họa, Tạ Trường Khanh huynh làm như không thấy – Ta nhịn!
Đi qua Nam Triệu, nhìn thấy lầu Như Ý mỹ nữ như mây, Tạ Trường Khanh huynh làm như không thấy – Ta nhịn nữa!
Xe qua Nhữ Dương, nghe thấy tiếng chợ phiên ồn ào náo nhiệt, Tạ Trường Khanh huynh có tai như điếc – Ta… thứ này mà nhịn được thì còn chuyện gì không thể nhịn!
Cảnh Tiểu Thiên nổi giận đùng đùng xốc rèm lên, nhảy khỏi xe ngựa, chốc lát sau ôm về một đống đồ ăn vặt, lương khô, quà bánh các kiểu chất đầy xe, nhờ vậy mới xóa tan được nỗi bực dọc bốc tận đỉnh đầu ban nãy. Cậu vừa cắn hạt dưa vừa rên hừ hừ một khúc hát Du Châu, roi ngựa trong tay vun vút không ngừng, đi thẳng ra khỏi thành.
Tạ Trường Khanh vén mành vải xanh lên, nhìn sắc trời nhắc nhở: “Cảnh huynh đệ, chúng ta đã chậm trễ hành trình rồi, nhanh lên một chút…”.
“Người là sắt cơm là thép, một khi thiếu ăn người sẽ oải. Ta là người, không phải đại hiệp kiếm tiên Thục Sơn gì hết, đền miếu mà để thiếu khói hương thần tiên cũng sẽ bốc hỏa. Huynh yên tâm đi, tiểu tử Thường Sâm trông được Tần Vương, chẳng xảy ra chuyện gì đâu.”
“Chiến trường thay đổi trong chớp mắt, chỉ cần sơ ý một chút sẽ gặp họa sát thân. Tuy rằng pháp thuật lẫn võ công của Thường Sâm đều thuộc hàng cao thủ, nhưng dù sao sức một người không đấu lại được thiên quân vạn mã, nếu chúng ta không kịp thời tiếp ứng, sợ rằng sẽ xảy ra chuyện chẳng lành.”
“Tạ Tiểu Ngốc, huynh không phải dài dòng. Tần Vương là ai chứ? Ta có nghe người thuyết thư nói, hắn mười tám tuổi đã theo cha khởi binh tại Sơn Tây Thái Nguyên, chinh chiến liên miên, số người hắn giết còn nhiều hơn cơm chúng ta ăn đó. Người ta chẳng phải vẫn êm đẹp sống đến bây giờ, trên người không thủng thêm lỗ nào hay sao? Huynh gặp hắn trễ một ngày, chẳng lẽ hắn lại thiếu đi một cọng tóc, ảnh hưởng đến đại nghiệp Thục Sơn, an nguy thiên hạ của huynh?” Cảnh Tiểu Thiên không nhịn được chế nhạo.
“Cảnh huynh đệ, chậm trễ dễ sinh biến, vẫn nên đi nhanh chút là hơn.”
Hai người đi thẳng về hướng Bắc, không lâu sau đã đến vùng đất bình nguyên Quan Trung.
Ven đường họ nhìn thấy vô số lưu dân lếch thếch kéo nhau đi. Những người này ai nấy đều mặt mày xanh xao, tinh thần uể oải, tình cảnh đáng thương vô cùng.
Màn đêm buông xuống, hoàng hôn nặng nề che phủ đất trời.
Xa xa là một trấn nhỏ tan hoang, xe ngựa gần đi đến nơi mới phát hiện đền thờ trước mặt có viết mấy chữ lớn “Trấn Phục Ma”.
Tuy rằng đã gần đến lúc lên đèn, nhưng cả thôn trấn vẫn lặng ngắt như tờ, trên đường yên tĩnh đến rùng rợn, không có một bóng người nào hết, chỉ thấy thấp thoáng ánh đèn dầu hắt ra từ vài căn nhà nhỏ.
Trải qua chiến loạn liên miên, tiểu trấn tấp nập ngày nào đã bị tàn phá đến tiêu điều xơ xác. Cảnh Tiểu Thiên nhớ tới cảnh tượng phồn hoa trong thành Du Châu ở đất Ba Sơn Thục Địa, lại nhìn thảm cảnh dân chúng đói khổ ở mảnh đất Trung Nguyên, lòng thầm nghĩ, thầy đồ từng dạy “một tướng công thành vạn cốt khô”, đáng thương nhất trong mỗi trận can qua vẫn luôn là thường dân bách tính.
Cậu dừng xe ngựa ở một vùng đất trống phía đông tiểu trấn, cùng Tạ Trường Khanh lững thững đi vào quán trọ tên là Hối Phong gần đó.
“Cút cút cút… mau cút ra ngoài… lũ quỷ đói hết đám này đến đám khác đến xin cơm, ta đã nói rồi, chúng ta không phải nhà từ thiện, các người đến chỗ khác mà xin.”
“Ông chủ à, xin ông thương xót cho, chúng tôi một mạch chạy nạn tới đây, lộ phí đã hết từ lâu, ông cho chúng tôi xin một ít lương khô đi mà.” Một bà lão gầy guộc dắt theo hai đứa bé một lớn một nhỏ, khúm núm cầu xin tiểu nhị quán trọ đang trừng mắt hầm hầm.
Hai bên vang lên vài tiếng xì xào to nhỏ: “Huynh xem trên tay bà ta còn có một chiếc nhẫn ngọc, đem cầm nó vẫn có thể đổi lấy mấy văn tiền mà, bà lão này thật thiếu linh hoạt quá!”.
“Thứ này phải giữ lại, lỡ như tôi chết rồi, còn phải dùng nó làm bằng chứng để con trai và các cháu tôi nhận nhau, không thể bán được.” Bà lão sờ sờ chiếc nhẫn trên tay, nước mắt lưng tròng đáp lại.
“Trời ơi, ta nói rồi ta không phải chủ quán, ta chỉ là một người làm thuê thôi, không quyết định nổi đâu, mấy người cầu xin ta cũng vô dụng.” Tiểu nhị vung chiếc khăn mặt trắng lên giục ba bà cháu đi mau, sau đó chạy lên đón Cảnh Tiểu Thiên niềm nở nói: “Khách quan, ngài muốn dùng bữa hay nghỉ trọ?”.
“Trời đã muộn thế này rồi, tất nhiên là nghỉ trọ. Lựa ba suất ăn mặn, rồi thêm một suất ăn chay vừa miệng tới đây, sau đó chuẩn bị một gian phòng sạch sẽ.”
“Đã rõ, mời đi bên này, ơ kìa, sao các người lại vào nữa? Không phải vừa mời các người ra ngoài rồi sao?” Tiểu nhị khó chịu gắt gỏng.
Thì ra ba bà cháu lếch thếch khi nãy lại rụt rè đi vào cửa lớn quán trọ.
“Chủ quán, là ta mời bọn họ vào! Bữa cơm này xem như ta mời họ, chắc sẽ không làm khó chủ quán chứ?” Giọng Tạ Trường Khanh từ ngoài cửa truyền vào.
Tiểu nhị quan sát Cảnh Tiểu Thiên và Tạ Trường Khanh, thấy hai người khí độ phi phàm, không biết làm sao đành nói: “Tất nhiên là không!”. Hắn vội vàng bưng mấy đĩa thức ăn lên, miệng vẫn lải nhải: “Khách quan, Thái lão tam ta không phải kẻ tàn nhẫn gì, chỉ là bây giờ thiên hạ đại loạn lưu dân khắp nơi, ông chủ của chúng ta mở cái quán này ra cũng không dễ dàng, đâu có dư thừa nhiều lương thực mà cho những lưu dân chạy nạn này chứ”.
Hai đứa trẻ chắc đã đói đến cồn cào, cho nên vừa ngồi xuống băng ghế đã ngấu nghiến ăn không để ý gì đến lời phân trần của Thái lão tam nữa.
“Ăn từ từ, không ai giành với cháu đâu, cẩn thận nghẹn!” Cảnh Tiểu Thiên lại đặt một bát thức ăn đến trước mặt hai đứa trẻ.
Bà lão cầm đôi đũa trong tay run rẩy gắp chút thức ăn, còn chưa kịp đưa vào miệng đã rơi nước mắt đục ngầu. Bà gạt nước mắt, nói: “Hai vị, hai đứa cháu tôi không hiểu lễ nghĩa, chưa kịp cảm ơn hai vị, bà già này xin tạ tội trước”.
Cảnh Tiểu Thiên và Tạ Trường Khanh liếc mắt nhìn nhau, lòng đều nghĩ, cách nói năng của bà lão này có vẻ không giống thôn phụ quê mùa, chẳng lẽ là do cảnh nhà sa sút mới lưu lạc đến đây?
“Chà, Ân huynh, tuy huynh mất đi một phần gia sản, nhưng lại giữ được tính mạng mình, cũng coi như tổ tiên phù hộ rồi.” Bên bàn ăn gần cửa sổ, một nam tử áo vải đeo trường đao trên lưng đang an ủi người cùng đi với mình.
“Đúng vậy! Hầu huynh, thực không dám giấu, ta thấy tình hình không ổn nên đã chuẩn bị đề phòng, bằng không, chắc chắn lúc này đã bị đại quân Lý Đường vây chết trong thành Lạc Dương rồi. Chỉ thương cho cô và dượng vẫn đang phải chịu khổ trong thành, sống chết không rõ.” Người đàn ông mang dáng dấp thư sinh đáp lại.
Cảnh Tiểu Thiên nhìn thấy nam nhân mặc áo gấm được gọi là “Ân huynh” kia cao gầy nho nhã, tuổi tác chỉ ngoài hai mươi, dáng vẻ rất giống thư sinh mọt sách, chỉ là mặt mũi đầy vẻ lo âu phiền muộn. Mà nam tử áo vải lưng đeo trường đao tuổi tác cũng không quá ba mươi.
“Ân huynh đọc nhiều sách, lại đến từ Lạc Dương, không biết có ý kiến gì về đại thế thiên hạ hiện giờ hay không?”
“Kẻ vô dụng nhất trên đời chính là thư sinh, cho dù Ân Kiệu ta thuộc làu kinh sử tử tập1, hiểu rõ mưu lược an bang trị quốc thì có tác dụng gì? Hiện nay cát cứ phân tranh, các phiến quân đều củng cố sức mạnh quân sự, thiên hạ chiến loạn liên miên, không biết đến bao giờ bách tính mới được an cư lạc nghiệp? Ta kể có đầy bụng sách lược trị quốc cũng…” Thư sinh họ Ân lắc đầu liên tục, nhấp một chén rượu thừa, cảm thấy miệng lưỡi đắng chát.
1 Kinh, sử, tử, tập là cách phân loại sách vở thời xưa, bao gồm: Kinh điển, Lịch sử, Chư tử, Văn tập.
Nhưng nam tử áo vải họ Hầu ngồi đối diện lại nói: “Lời của Ân huynh ta không dám gật bừa. Vẫn có câu ‘loạn thế sinh anh hùng’, mà nay thiên hạ đại loạn, đại quân Lý Đường hùng cứ một phương, Hạ Vương Đậu Kiến Đức cát cứ đất Hà Bắc, Trịnh Vương Vương Thế Sung dong binh chốn Lạc Dương, Đường, Hạ, Trịnh từ lâu đã hình thành thế chân vạc. Loạn thế như vậy có thể so với phân tranh thời Xuân Thu Ngũ Bá, Chiến Quốc Thất Hùng, chính là cơ hội quý báu cho chúng ta vung roi giục ngựa, kiến công lập nghiệp. Dù huynh là văn nhân, nhưng kinh luân đầy bụng, có thể đảm nhiệm chức trách phụ tá tùy quân, hà tất tự coi nhẹ mình?”.
Hắn cảnh giác nhìn quanh bốn phía, sau đó đè thật thấp giọng: “Hiện tại đại quân Lý Đường đang vây khốn Lạc Dương, nghe nói người dẫn binh chính là nhị công tử Lý Thế Dân, hay là chúng ta tranh thủ chiêu binh mãi mã, đầu quân cho ngài ấy đi”.
Ân Kiện sửng sốt, do dự một lúc lâu: “Chuyện này… chuyện này… để tiểu đệ bàn với người nhà rồi mới quyết định sau”.
Nam tử áo vải họ Hầu vỗ trường đao bên hông: “Còn bàn bạc cái gì, tôn phu nhân trước nay vẫn nghe lời huynh răm rắp, có bao giờ cãi lại đâu. Hơn nữa, dù nàng không đồng ý cũng chẳng sao. Ân huynh, ta phải nhắc nhở huynh, nữ nhân xưa nay đều tóc thì dài mà kiến thức thì ngắn, thấy huynh muốn đi tòng quân, đương nhiên sẽ khóc lóc ỉ ôi quyến luyến không rời, đến khi phong thê ấm tử1 rồi thì lại càng ỷ được chiều chuộng mà kiêu căng càn quấy coi mình là trung tâm vũ trụ. Hầu Quân Tập ta trước nay làm gì cũng quyết định dứt khoát, huynh đi hay không đi?”.
1 Quyền lợi dành cho công thần thời phong kiến: Vợ được ban tước hiệu, con cái được đi học và bổ làm quan.
Cảnh Tiểu Thiên liếc nhìn Hầu Quân Tập mấy cái, thấy mặt mày hắn cũng khá khôi ngô, chỉ là cằm nhọn mắt đục, lúc nói chuyện con ngươi chuyển động liên tục, cho thấy đây là người rất có mưu mô.
“Cảnh huynh đệ, làm sao vậy?”
“Không có gì, ta đang nghe hai vị sát vách thảo luận đại sự thiên hạ thôi.”
“Đại sự thiên hạ thì liên quan gì đến tiểu dân chúng ta, ai làm hoàng đế chúng ta vốn chẳng quan tâm, chỉ cần thiên hạ thái bình, dân chúng được ăn bữa cơm an nhàn, được ngủ những giấc bình an, có phải không, đạo trưởng?” Một hán tử da mặt ngăm đen ngồi ở bàn bên phải vừa húp mỳ sột soạt vừa cười ha hả nói.
“Mấy tòa thành phía trước đã đánh đến một mất một còn rồi, đại quân Lý Đường vây chặt Lạc Dương đến con kiến cũng không chui lọt, sớm muộn gì trong thành cũng cạn kiệt lương thực, đến lúc đó, bách tính trong thành chỉ có thể chịu cảnh chết đói thôi. Huynh nói đám người Trịnh Vương, Hạ Vương, Đường Vương tranh thiên hạ, tranh mãi không xong, những tháng ngày cơ cực của dân chúng cũng chẳng biết ngày nào mới chấm dứt.”
“Bà ơi, lúc nào mới hết chiến tranh? Con muốn về nhà, con nhớ cha mẹ…” Một giọng nói non nớt vang lên.
“Bà ơi, con cũng muốn về Lạc Dương, con không thích chiến tranh.” Đứa bé nhỏ hơn ngồi bên cạnh khóc lóc ầm ĩ.
Thấy hai đứa cháu Đại Bảo, Tiểu Bảo đột nhiên khóc to, bà lão cuống quít dỗ dành chúng: “Đừng khóc đừng khóc, đừng làm phiền các đại thúc dùng cơm, chúng ta mau đi thôi”.
“Lão nhân gia, khoan đã, đây là một ít bạc vụn, bà cầm lấy mà dùng.” Tạ Trường Khanh đứng dậy, đưa bạc vụn cho bà lão.
Bà lão nhìn Tạ Trường Khanh, gương mặt nhăn nheo tràn đầy cảm kích, thế nhưng, bàn tay khô quắt như vỏ quýt của bà lại đẩy bạc trả lại Tạ Trường Khanh, nói: “Đạo trưởng, ngài cũng là người đến từ nơi khác, có ngân lượng cũng không dễ dàng, lão không thể lấy bạc của ngài”.
“Lão nhân gia, bà hãy nhận lấy đi.”
Bà lão khẽ thở dài: “Lão thân vốn sống trong thành Lạc Dương, tuy không phải đại phú đại quý nhưng gia cảnh cũng khá đủ đầy. Con ta họ Hầu, tên là Hầu Đại Văn, làm nghề rèn đồ trang sức, có tiệm vàng Hầu Ký mở được nhiều đời, cuộc sống vô cùng yên ấm. Đáng tiếc, chiến loạn tiền triều vừa nổi lên, trong lúc chạy nạn ta đã lạc mất vợ chồng nó rồi, chỉ còn thân già này cùng hai đứa cháu mà thôi”.
Lão nhân lắc đầu, kéo hai đứa bé tập tễnh đi ra ngoài cửa.
“Lão nhân gia, khoan đã!” Hầu Quân Tập vội vàng đứng dậy, đuổi theo mấy bước: “Số tiền này không nhiều, nhưng cũng là chút tấm lòng của hai huynh đệ chúng con, bà đừng từ chối, xem chúng ta cùng họ Hầu cả, cho con mặt dày xưng là đại thúc, coi như quà gặp mặt hai đứa bé này”.
Hắn trở lại bên cạnh bàn, Ân Kiệu rót cho hắn một chén trà, mặt đầy vẻ tán thưởng: “Hầu huynh quả nhiên nhiệt tình giúp người”.
“Đâu có đâu có.” Hầu Quân Tập không giấu được vẻ khoái chá, miệng lại khách sáo mấy câu: “Gặp chuyện bất bình ra tay tương trợ là bản sắc của lớp người chúng ta, không có gì đáng nói! Không có gì đáng nói!”. Hắn như nhớ tới cái gì, liền quay đầu về phía Tạ Trường Khanh, chắp tay nói: “Vị đạo trưởng này tuy là phương ngoại chi nhân, thân ở ngoài hồng trần, nhưng tâm lại buộc giữa hồng trần, tiểu đệ mạo muội xin hỏi đạo trưởng pháp hiệu là gì, thanh tu nơi nào?”.
“Tại hạ…”
“À, ta là Cảnh Tiểu Thiên, y là bằng hữu của ta, tục gia họ Bùi, tên là Văn Thanh, tu tại Ngọc Hư Quán. Ta cùng song thân và đứa con về thăm nhà, ai ngờ cha mẹ trên đường mắc phải bệnh dịch không may qua đời, chuyến này muốn mời Bùi đạo trưởng làm pháp sự cho họ.” Cảnh Tiểu Thiên thầm nghĩ, cha mẹ, hết cách rồi, đành phải thiệt thòi hai người chết thêm lần nữa vậy.
“Không biết nên xưng hô nhị vị thế nào?”
“Tại hạ Ân Kiệu, tự Khai Sơn, người Ung Châu!”
“Tại hạ Hầu Quân Tập, người vùng Tam Thủy đất Mân Châu.”
“Hân hạnh! Hân hạnh!”
Tiểu nhị thấy mấy người đã ăn xong bữa cơm, vội vàng chạy đến thấp giọng căn dặn: “Các vị khách quan, đến trấn Phục Ma chúng tôi, có một quy tắc trăm năm không thể không nói. Ở đây buổi tối không thể ra ngoài, chỉ có thể đóng chặt cửa phòng, như vậy sẽ đảm bảo cho các vị ngủ ngon giấc đến hừng đông. Nếu đi xen vào chuyện người khác, chọc giận thiên sư Chung Quỳ, thì e họa lớn ập đầu đó, nói chung buổi tối bất luận xảy ra chuyện gì hoặc nghe được bất cứ tiếng động gì ngoài đường, cũng phải nhớ không được ra ngoài”.
“Vì sao vậy?”
“Ôi chà, tiểu nhân cũng không biết.” Tiểu nhị cười tươi: “Nói chung, các vị khách quan cứ nghe lời tôi là được rồi. Trước đây cũng có một khách quan ở trọ nhất thời hiếu kỳ chạy ra ngoài xem náo nhiệt, kết quả, không thấy quay về nữa”.
“Xem náo nhiệt? Xem náo nhiệt gì vậy?”
“Rước dâu.” Tiểu nhị như ý thức được mình vừa lỡ miệng đã lập tức im bặt.
“Xì, rước dâu thì có gì hay ho chứ. À không đúng, nửa đêm đi rước dâu, phong tục đúng là rất đặc biệt.” Cảnh Tiểu Thiên thầm nghĩ.
Nhưng Tạ Trường Khanh lại dừng bước, xoay người hỏi: “Cảnh huynh đệ, huynh có cảm thấy trấn nhỏ này có gì đặc biệt không? Thứ không khí âm u chết chóc này…”.
“Không thấy, chỉ là hơi hoang vu một chút thôi. Thời buổi chiến tranh loạn lạc, huynh đừng trông chờ nó đẹp như Du Châu. Thôi lên lầu nghỉ đi, mệt chết rồi!”
Tạ Trường Khanh nhìn bóng đêm bên ngoài, lập tức đóng cửa phòng lại.
Đêm đến, trong phòng trọ.
Tạ Trường Khanh đả tọa xong xuôi, vắt chiếc khăn mặt còn bốc hơi nóng lên giá gỗ tử đằng, vân vê đôi mắt, có vẻ mệt mỏi nói: “Cảnh huynh đệ, tại sao vừa rồi huynh không muốn nói tên họ thật của ta cho họ biết?”.
“Lòng người hiểm ác! Tên Ân Kiệu kia không nói làm gì, chứ huynh không nhìn thấy tên Hầu Quân Tập lưng đeo trường đao là người trong võ lâm à? Huynh là chưởng môn tương lai của phái Thục Thiên từ lâu đã nổi danh bên ngoài…”
Tạ Trường Khanh mỉm cười: “Cũng không hẳn, ta chưa bao giờ đặt chân đến Trung Nguyên, cái tên Tạ Trường Khanh người trong võ lâm sao mà biết được”.
“Người này tâm cơ kín đáo, không thể không đề phòng, hắn thấy Ân Kiệu kia gia cảnh sung túc, bèn kêu người ta bỏ vốn giúp hắn chiêu binh mãi mã. Hắn thấy đại quân Lý Đường đánh đâu thắng đó thì muốn đến góp sức cho Lý Thế Dân, nếu như là Vương Thế Sung đắc thế, chắc chắn hắn sẽ đi nương nhờ Trịnh Vương. Loại người gió chiều nào che chiều ấy như thế, ta không thèm kết giao.”
“Yến tước sao hiểu được chí lớn của thiên nga, ngựa tốt không lẫn mình giữa đám ngựa tồi, quân tử đối nhân xử thế phải có lựa chọn của chính mình. Huống chi, chim khôn chọn cây lành mà đậu, đại quân Lý Đường tiến quân Nam Hạ đánh đâu thắng đó, Tần Vương chiến công hiển hách uy chấn Trung Nguyên, hắn muốn đầu quân cho Lý Thế Dân cũng là chuyện đương nhiên thôi.”
Cảnh Tiểu Thiên “hừ” một tiếng, khoanh chân ngồi trên giường, khinh thường đáp: “Theo lý thường thì đúng là vậy! Hừ hừ, xem ra huynh coi trọng Tần Vương ghê nhỉ. Dù sao thì trông tên Hầu Quân Tập kia con ngươi đảo liên hồi, chứng tỏ chẳng phải loại người có lòng dạ rộng rãi gì”.
“Nhưng ta thấy hắn nói chuyện rất có tầm nhìn, có thể thấy người này kiến thức sâu rộng. Ta đã tính quẻ Ngũ hành của hắn, có dấu hiệu của nhân tài kiệt xuất đấy.”
“Tạ Tiểu Ngốc này Tạ Tiểu Ngốc, huynh đúng là một miếng Đậu Phụ Trắng Thục Sơn mà, trong sáng đến không dính bụi trần. Huynh ở Thục Sơn lâu ngày không rành thế sự, không hiểu lòng người hiểm ác khôn lường.” “Nguyện nghe cho rõ.”
Cảnh Tiểu Thiên lật người Tạ Trường Khanh, vừa vạch áo ra vừa giải thích: “Huynh chỉ thấy hắn ban chút ân huệ nhỏ, lại không thấy âm mưu mờ ám phía sau. Ta là chủ tiệm cầm đồ, khả năng nhìn người lợi hại hơn miếng đậu phụ trong veo huynh nhiều lắm”.
Ngọc Thanh Cao lành lạnh được xoa lên sống lưng Tạ Trường Khanh, cảm giác mát lạnh ngấm vào da thịt xương cốt, Tạ Trường Khanh nhắm mắt thầm vận nội lực, đưa thuốc cao ngấm vào lục phủ ngũ tạng.
Cảnh Tiểu Thiên vẫn tiếp tục giảng giải cho y: “Có một số người, chỉ cần nhìn mặt là có thể thấy rõ bản tính. Tin vào con mắt của ta đi, người này cho dù ngày sau đại phú đại quý, sử sách lưu danh, thì cũng không thể chết yên lành được”.
“Vậy sao?”
“Đương nhiên rồi, chúng ta cưỡi lừa xem hát, cứ chờ mà xem.”
Nhiều ngày trôi qua, vết thương trên lưng Tạ Trường Khanh đã đóng vảy, Cảnh Tiểu Thiên đã bôi hết số thuốc còn lại trong lọ Ngọc Thanh Cao rồi mới tạm yên lòng.
Tạ Trường Khanh kéo vạt áo lại, vừa thắt đai lưng vừa nói: “Quân tử quý ở chỗ chân thành đối đãi, ta đến tên họ thật cũng không nói cho người ta”.
Cảnh Tiểu Thiên ưỡn ngực hùng hồn: “Ai nói không cho hắn biết chứ, ta chẳng phải đã cho hắn biết tên ta là Cảnh Tiểu Thiên rồi sao? Người nói xạo chính là ta, không phải Tạ Trường Khanh huynh, sau này có phải vào địa ngục thì cũng là ta, ta sẽ không để huynh…”.
“Cảnh huynh đệ!” Tạ Trường Khanh rõ ràng đã hơi giận, y không kịp nghĩ ngợi gì vội đưa tay bịt lại cái miệng liếng thoắng của Cảnh Tiểu Thiên, gấp gáp cao giọng nói: “Đừng nói bậy…”. Ngay sau một giây, y giật mình hoảng hốt.
Trên mặt Cảnh Tiểu Thiên vẽ ra nụ cười gian tà, ánh mắt long lanh đầy cợt nhả: “Huynh làm cái gì thế, cuống lên như vậy để làm gì?”. Cậu nắm chặt lấy tay của Tạ Trường Khanh, hung hăng giữ chặt không cho đối phương rút về.
“Họ Tạ kia, lá gan huynh càng ngày càng to đấy, dám phạm thượng động tay động chân với ta, ừm?” Cậu cố ý cao giọng nhấn mạnh chữ cuối cùng một cách đầy dí dỏm. Mỗi lần Cảnh Tiểu Thiên chọc ghẹo Tạ Trường Khanh, cảm giác được tim đập rộn ràng, thì chữ “ừm” này sẽ luôn xuất hiện.
Cảnh Tiểu Thiên nhăn nhở nhìn gò má người kia dần dần ửng hồng, càng ngày càng đỏ, sau đó đến hai tai cũng đỏ bừng lên.
“Tạ Tiểu Ngốc, trên mặt huynh bôi nước ớt hả? Hay là tương ớt vừa ăn chạy hết lên mặt rồi?”
“Ta… ơ…” Đầu óc Tạ Trường Khanh hoàn toàn trống rỗng.
“Không cần giải thích, xin lỗi vô ích. Để ta nghĩ xem, phải nghiêm phạt kẻ phạm thượng tác loạn thế nào.” Cảnh Tiểu Thiên đột nhiên cúi đầu, nhanh như chớp đặt một nụ hôn lên mu bàn tay của đối phương.
Tạ Trường Khanh như bị bọ cạp cắn cho một phát, cả kinh nhảy dựng lên.
Đáng tiếc, Tạ đại chưởng môn của chúng ta đã quên béng mất vị trí hiện tại của y – trên giường! Cho nên sau cú bật người này, đầu tiên đụng phải cột giường, sau đó đến màn giường, tiếp nữa là màn che đổ “rầm” một cái, hai người rơi vào một thế giới toàn là màu trắng.
“Xoẹt!”
“Cảnh huynh đệ, đó là y phục của ta!” Tạ Trường Khanh thiện ý nhắc nhở.
“Ối chà, thật ngại quá, xé nhầm rồi.” “Xoẹt!”
“Cảnh huynh đệ, huynh lại xé nhầm rồi!” Giọng nói của Tạ Trường Khanh tràn đầy chính trực.
“Không sai đâu, xé đúng rồi!” Tiếng Cảnh Tiểu Thiên đáp lại đầy vẻ hân hoan. “Huynh…”
“Đừng nhúc nhích, nếu huynh còn lộn xộn nữa, nói không chừng ta lại xé nhầm đó.”
“Huynh…” Sắc mặt Tạ Trường Khanh lại bắt đầu ửng đỏ, thở hổn hển uốn nắn sai lầm của Cảnh huynh đệ. Mà Du Châu Cảnh Tiểu Thiên lại bừng bừng khí thế, quyết không chuyển hướng mà tiếp tục xé nhầm.
Trong sa trướng trắng phau, hai bóng người tranh đấu dữ dội.
Trên chiếc nôi đặt trong sương phòng, đứa trẻ sơ sinh mở to đôi mắt tròn xoe, hiếu kỳ nhìn chăm chú hai bóng người đang liều mạng trên giường, “ê a a…”, cậu nhóc chảy nước dãi gặm nắm tay nhỏ, như thể muốn hò hét trợ uy cho hai người.
“Ê a a…” “Cảnh…”
“Đừng… nhúc nhích…” “Cảnh huynh đệ…” “Bảo huynh đừng nhúc nhích thì đừng có nhúc nhích…”
Những âm thanh xé vải liên tiếp vang lên.
Đúng lúc này, ngoài đường loáng thoáng truyền đến tiếng kèn trống, nghe giai điệu thì hình như là tiếng nhạc trong lễ cưới, nhưng cũng không giống tiếng kèn trống nhà bình thường lấy vợ gả chồng.
“Đón tân nương?” Tạ Trường Khanh giật mình một cái, lập tức tỉnh táo lại. Y nhìn Cảnh Tiểu Thiên ngẩn ra giây lát, vùng thoát khỏi cánh tay kìm kẹp của đối phương, dùng cả chân lẫn tay bò ra khỏi chiến trường đổ nát, vội vã mặc thượng y mở cửa sổ.
Từ trên lầu nhìn xuống, đường phố chìm giữa bóng đêm lặng ngắt, dưới những mái hiên đen đặc không thấy nổi một ngọn đèn dầu. Thế nhưng, ngay đầu đường lại có vài bóng người lắc lư xuất hiện.
Cho dù giữa màn sương lượn lờ, Tạ Trường Khanh vẫn có thể thấy được đội ngũ này trước có nhạc công, sau có kiệu tám người khiêng, còn có không ít hạ nhân bưng đồ sính lễ, mấy chục người nối nhau giữa sương mù dày đặc, trên con đường chìm trong bóng tối, đi về một phương vô định.
“Tạ Tiểu Ngốc!”, không biết từ lúc nào Cảnh Tiểu Thiên đã đến sát cạnh Tạ Trường Khanh, “Nghe nói đây là đội ngũ đưa dâu em gái Chung Quỳ. Vừa rồi ta đi lấy nước ngang qua căn phòng bên cạnh, có nghe mấy người bên trong nói chuyện, tên Chung Quỳ này là thiên sư chuyên nghề bắt ma, có không ít tiểu quỷ bán mạng cho hắn. Em gái hắn xấu đến ma chê quỷ hờn, không cách nào gả đi được, thế là hắn bèn nửa đêm mang một đám tiểu quỷ ra ngoài tìm em rể. Theo đúng tục lệ ở đây, tối đến phải đóng cửa không được ra ngoài, những nhà có nam đinh đều phải treo một chiếc đèn lồng đỏ trước cửa. Nếu đèn tắt, thì có nghĩa là Chung Quỳ đã nhìn trúng đàn ông nhà ngươi rồi, muốn gả em gái cho ngươi đó”.
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó à…” Cảnh Tiểu Thiên không nhanh không chậm thong thả đáp: “Tạ Tiểu Ngốc, nếu không phải vừa rồi huynh vội vội vàng vàng bò ra ngoài, thì sẽ biết, sau đó phải động phòng hoa chúc thế nào rồi”.
Tạ Trường Khanh đang ghé sát vào cửa sổ nghe vậy, quay đầu lại căm tức nhìn Cảnh Tiểu Thiên, mà tên đó thì vẫn ngang nhiên cười cợt không thèm để ý gì đến cơn giận đang bốc lên trong đầu y.
Tạ Trường Khanh đột nhiên nghĩ, cùng cái tên nam nhân này tranh cãi mấy chuyện “quân tử giữ mình trong sạch, tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ…” hoàn toàn là vô nghĩa. Người nọ chính là đun không chín, luộc không nhừ, nện không bẹp, xào không bung.
Cái câu “đàn gảy tai trâu”1 là nói ai?
1 Nguyên văn là “trẻ con không thể dạy”, ý chỉ đứa trẻ này ngu ngốc chậm hiểu, giảng đạo lý cho nó nghe cũng chẳng khác nào đàn gảy tai trâu.
Chính là loại người như Cảnh Tiểu Thiên này đó.
Từ đây trở đi, chưởng môn tương lai của phái Thục Thiên bi phẫn từ bỏ ý định ban đầu: Giáo hóa tên côn đồ thành Du Châu.
Mặc kệ Tạ Trường Khanh có bằng lòng hay không, không cần biết y tự giác hay bị ép buộc, nói chung y cảm thấy nếu còn muốn cùng tên côn đồ thành Du Châu này đi hết hành trình Ngũ hành Tôn giả còn lại, thì chỉ còn cách luyện đến cảnh giới mắt điếc tai ngơ mới là lựa chọn sáng suốt nhất. Bằng không, đến một ngày kia linh hồn mình dật dờ bay về Thiên Cơ Các của Thục Sơn, các vị sư tôn hỏi vì sao mà chết, mình chung quy cũng không thể trả lời là “bị tức mà chết” được.
Thời khắc Tạ Trường Khanh trợn mắt trừng trừng, Cảnh Tiểu Thiên đương nhiên cũng nhận ra.
Chỉ là dưới ánh nến mơ hồ, cho dù người kia mặt mày giận dữ, trong đồng tử sâu thẳm đó vẫn có thể thấy được sóng nước dập dềnh, sương mai phiêu lãng. Cho nên ba hồn bảy vía của Cảnh Tiểu Thiên đều bay mất tiêu rồi, bộ dạng Tạ Trường Khanh chau mày kiếm giận đến tái mặt, lọt vào mắt cậu lại trở thành cảnh tượng diễm lệ vô song. Hồn vía tên côn đồ thành Du Châu đã hoàn toàn bay theo gió.
Tạ Trường Khanh đứng dậy mở cửa sổ, cả người giống như một áng mây trôi mà bay ra, đáp xuống đất không một tiếng động.
Trên con đường lát đá xanh, giữa màn mưa bụi mịt mờ.
Mấy chục người nối nhau bước đi, động tác cứng đờ mà lại hết sức thẳng hàng ngay lối.
“Thiên sư Chung Quỳ? Có phải là thiên sư bắt quỷ xuất thân từ núi Chung Nam?”
Đi theo sau thiên sư Chung Quỳ có đủ loại người với đủ bộ dạng khác nhau, già có, trẻ có, nam có, nữ có, chỉ có điều vẻ mặt họ vô cùng kỳ lạ, cứng đờ như xác chết, nhìn thế nào cũng không giống một người sống đang đi lại, mà chỉ như mấy con rối đang bị điều khiển bởi một sợi dây mà chuyển động cứng nhắc mà thôi.
Trong tay những người này đều mang ít nhiều lễ vật, là các vật dụng thường ngày như gấm vóc, chăn đệm, hết thảy đồ cưới nên có trong hôn lễ của nữ nhân bình thường đều đầy đủ cả. Thậm chí Cảnh Tiểu Thiên còn trông thấy trong tay một nam tử có chiếc gương đồng bằng vàng chạm trổ hoa văn cực kỳ tinh xảo. Xem ra thiên sư Chung Quỳ vô cùng coi trọng đại sự cả đời của tiểu muội nhà mình.
Giữa đội ngũ là một chiếc kiệu đỏ cờ tua hoa lệ, được trang trí đầy vẻ hân hoan, theo từng bước chân của phu kiệu, chiếc mành vải đỏ thắm khẽ phất phơ trong gió, chuông vàng treo trên kiệu phát ra những tiếng leng keng quanh quẩn trên đường phố hun hút giữa đêm khuya vắng lặng.
Gió đêm thổi qua phố chợ, vô số đèn lồng đỏ lắc lư.
“Leng keng leng keng…”
Theo tiếng chuông mơ hồ, đoàn người đưa dâu dần biến mất phía cuối con đường, mà tiếng kèn trống réo rắt vẫn luẩn quẩn trong bóng đêm đen đặc, toát ra bầu không khí ma quái ghê rợn vô cùng.
Tạ Trường Khanh ẩn thân trong một góc tối, thấp giọng nói: “Huynh mau trở về”.
“Không được, muốn hành động thì hành động cùng nhau, huynh không thể bỏ ta lại.”
“Huynh theo sát ta, tuyệt đối đừng để rớt lại.”
“Ta biết rồi.” Giọng nói của Cảnh Tiểu Thiên đầy vẻ hưng phấn, lần đầu tiên cậu đối mặt với cảnh tượng ma quái như vậy, trong lòng háo hức khó tả, chỉ tiếc không thể lập tức ra tay hàng yêu phục ma.
“Nếu ta chưa ra tay, huynh không được hành động thiếu suy nghĩ.”
“Biết rồi.”
“Huynh nhất định phải theo sát ta, không được tự ý hành động.”
“Này, Tạ Tiểu Ngốc, huynh có biết không, huynh dông dài lắm đấy. Nhanh lên, đuổi theo đi, bọn họ sắp đi mất rồi.”
Gió thổi từng trận, lá rụng đầy đường.
Đội ngũ đưa dâu đi đến cuối phố, rẽ vào một khu rừng đen ngòm.
Trong rừng thấp thoáng có ánh lửa truyền ra, đó là một tiểu viện cổ xưa, quanh tiểu viện là bức tường đá cao dày. Trên cánh cửa trước tiểu viện có một tấm biển khắc bốn chữ: “Nghĩa Trang Phục Ma”, một chiếc đèn lồng treo trên cột trụ bên trái, chập chờn đong đưa trong gió lạnh.
Chiếc bóng chập chờn chiếu lên đám người, càng khiến cho vẻ mặt bọn họ thêm dữ tợn kinh khủng.
Đúng lúc này, thiên sư Chung Quỳ phất tay ra hiệu, tiếng kèn trống lập tức ngừng bặt. Hắn cẩn thận quét mắt nhìn ra bốn phía, thấy không có người bám theo, mới cất bước đi vào nghĩa trang đen như mực.
Một tiếng sáo ma quái khác từ trong kiệu truyền ra. Tiếng sáo ngập tràn ai oán thê lương, tựa như nỗi quyến luyến sinh mệnh trước khi từ giã cõi trần, đưa tiễn kẻ sắp rơi vào trầm luân cùng đau thương vô tận. Men theo tiếng sáo ấy, linh hồn sắp chết sẽ chìm xuống địa ngục vô bờ mà bước vào vòng luân hồi kế tiếp.
Tạ Trường Khanh ngẩn ra, tiếng sáo này y không hề xa lạ, khi còn bé lúc nào cũng réo rắt quanh quẩn bên tai.
Hỉ kiệu đỏ thẫm được vén lên, một nữ tử khoác hỉ bào đỏ thắm, đầu đội mũ châu chậm rãi bước ra. Chẳng lẽ đây chính là muội muội xấu ma chê quỷ hờn, không thể nào gả đi được của thiên sư Chung Quỳ sao? Mặc dù không nhìn rõ diện mạo, nhưng từ bóng lưng nàng vẫn có thể thấy được đó là một thân thể nở nang, mỗi động tác đều tràn đầy yểu điệu quyến rũ, trên môi nàng đang thổi chiếc sáo Sưu Hồn quen thuộc kia.
“Sáo Tử Ngọc, còn được gọi là sáo Sưu Hồn. Nhưng vì sao mình lại nghe được âm thanh này ở đây? Cây sáo đó không phải đang ở trong tay sư huynh sao?”
Không đợi Tạ Trường Khanh kịp phán đoán bất cứ điều gì, đám người rối đã theo tiếng sáo nối đuôi nhau bước qua cửa lớn, đi vào nghĩa trang mờ mịt.
“Hừ, Chung Quỳ gả muội, tiểu quỷ đưa dâu gì chứ, đều là nói năng bậy bạ hết. Huynh chưa thấy sao? Biểu cảm của những người này vô cùng lạnh lẽo, mặt mày trắng bệch không có chút huyết sắc nào, giống y như xác sống vậy đó.”
Đúng vậy, những người này hành động cứng nhắc vụng về, chỉ đi theo tiếng sáo quỷ dị kia, giống như đã bị một lực lượng thần bí nào đó khống chế, mọi động tác đều làm trong vô thức mà thôi.
“Nữ tử áo đỏ kia mới là then chốt, những người này đã đánh mất ý thức, mọi hành động đều do cô ta khống chế. Ta vừa kiểm tra Toàn Cơ Kính, phát hiện nơi này dày đặc sát khí cùng tử khí, xem ra có không ít oán linh tụ tập ở đây.”
Cảnh Tiểu Thiên nhìn chằm chằm cánh cửa trống không, chần chừ nói: “Huynh có phát hiện ra, bóng lưng nữ tử áo đỏ kia trông rất quen mắt hay không?”.
“Quen mắt?” Tạ Trường Khanh do dự một lát, gắng sức nhớ lại.
“Cảnh huynh đệ, ta nghĩ không ra.”
“Bỏ đi, đệ tử Thục Sơn các huynh cả ngày ở lỳ trong đạo quan tụng kinh, quanh năm suốt tháng chẳng gặp được bao nhiêu đàn bà con gái, phỏng chừng huynh cũng chẳng biết cô ta. Nhưng ta thì thật sự cảm thấy bóng lưng cô ta rất quen mắt.”
Nữ tử áo đỏ vẫn tập trung thổi sáo Sưu Hồn, dẫn đoàn người rối không cảm xúc đi thẳng qua sân, tiến vào đại sảnh.
Đại sảnh không lớn, trước hiên treo mấy ngọn đèn lồng đỏ chập chờn đầy tử khí, bên trong bày la liệt quan tài đen đặc. Trong quan tài phần nhiều là những thi thể vô chủ tha hương chết nơi đất khách, bởi vì không có người thân kịp đến nhận hài cốt, nên được những người dân tốt bụng trong thôn đưa đến nghĩa trang này.
Trên mỗi cỗ quan tài đều dán một lá bùa màu vàng, mặt trên viết họ tên, tuổi tác và quê hương của họ.
Nghĩa trang này đã nhiều năm không được tu sửa, bụi bặm giăng đầy, mục nát hết cả, nhất là dãy quan tài để dựa vào tường, chỉ cần đẩy nhẹ một cái, sợ rằng sẽ ầm ầm sụp xuống ngay lập tức.
Nữ tử áo đỏ đối mặt với nghĩa trang rùng rợn này lại không hề sợ hãi, nàng dừng thổi sáo, bước nhanh tới trước bàn thờ, đặt tay lên cái sừng thú vặn nhẹ một cái, trong bóng tối vang lên tiếng cơ quan chuyển động lách cách.
Tiếng động dần biến mất, nền nhà trước bàn thờ nứt ra một cái hố lớn, phía dưới là những thềm đá từng bậc từng bậc sâu không thấy đáy, bên trong lờ mờ hiện ra ánh nến yếu ớt cùng với tiếng người kêu gào ầm ĩ.
Nữ tử áo đỏ thổi sáo Sưu Hồn lần nữa, mấy chục người rối theo tiếng sáo của nàng đi xuống đường hầm.
Cảnh Tiểu Thiên bám theo địa đạo mới phát hiện, địa cung này là một công trình kiến trúc rất lớn, mật đạo bên trong rẽ ra bốn phía, nữ tử áo đỏ thành thạo dẫn đám người đi qua mấy vách đá ẩm ướt, qua đường hầm tối tăm, cuối cùng dừng lại trong một hang động hình tròn.
Hang động này do những tảng đá lớn xây thành, những cây nến to như cánh tay cắm khắp các bức tường, thỉnh thoảng lại vang lên vài tiếng lửa cháy lách tách khô khốc.
Đám người nam nữ già trẻ như con rối vẻ mặt đờ đẫn xếp thành hàng ngang ngay ngắn trong hang động.
“Khởi bẩm chủ thượng, đây là những người bắt được lần này, tổng cộng bảy mươi tám người đều ở đây.” Giọng nói của nữ tử áo đỏ quẩn quanh trong đêm tối vẫn không giấu nổi vẻ yểu điệu say lòng người.
Cảnh Tiểu Thiên nghe vậy rùng mình một cái, bởi vì cậu vô cùng quen thuộc ngữ điệu này.
Nữ chính trong câu chuyện Chung Quỳ gả muội, cô nàng xấu đến ma chê quỷ hờn, lại là Mị Cơ của Ma giới.
“Mị Cơ không phải ở trong Ma giới sao? Cô ta chạy tới nhân giới từ lúc nào chứ? Chủ nhân của cô ta là ai? Chẳng lẽ Ma quân Trùng Hiệt là chủ nhân nơi này?” Cảnh Tiểu Thiên nấp trong bóng tối, trong lòng lộn xộn hàng trăm câu hỏi.
Nhìn thấy nữ tử áo đỏ là Mị Cơ, trong lòng Tạ Trường Khanh cũng nghi hoặc không kém gì Cảnh Tiểu Thiên.
“Mị Cơ cô nương, ta thấy những dược nhân mang về lần này kẻ nào cũng xanh xao vàng vọt, yếu đuối dặt dẹo, chẳng có nổi một nam giới tráng kiện. Cô nương nói xem, chủ nhân có hài lòng hay không?” Hai gã nam tử trung niên mặc hắc bào xuất hiện trước mắt.
Tạ Trường Khanh ngẩn người, chợt nhận ra một trong số đó chính là “thiên sư Chung Quỳ” dẫn lối đến đây.
“Thiên sư Chung Quỳ lại là La Diệm? La Diệm đường chủ bang Thiên Lôi sao lại xuất hiện ở chỗ này?” Cuối cùng Cảnh Tiểu Thiên cũng thấy rõ tướng mạo người trước mắt, lòng không khỏi kinh ngạc, thầm nghĩ: “Phạm vi thế lực của bang Thiên Lôi chẳng phải ở đất Thục sao? Từ lúc nào lại mon men đến vùng Trung Nguyên này chứ?”.
Nhưng đến khi thấy rõ nam tử bên cạnh La Diệm, lòng Cảnh Tiểu Thiên lại càng sợ hãi.
“Đàm Ích tổng quản Đàm Gia Bảo, nhị thúc của Tuyết Ngâm.”
Cậu từng nghe Tuyết Ngâm nói, Đàm Ích là người có khả năng dùng độc cùng ám khí giỏi nhất trong Đàm Gia Bảo, nhưng vì là con thứ nên không có địa vị cao trong gia tộc, thường bị võ lâm đồng đạo bên ngoài chê cười. Lẽ nào Đàm Ích cấu kết với bang Thiên Lôi tiếng xấu võ lâm lén mưu đồ chuyện đen tối gì?
“Chủ thượng có thỏa mãn hay không, các ngươi biết thế nào được.” Mị Cơ thờ ơ liếc mắt, cười khanh khách: “Nói chung, nhiệm vụ của ta đã xong. Ai dà, lúc nào cũng phải diễn trò này, thật là mệt mỏi quá đi. Ta muốn nghỉ ngơi, chuyện kế tiếp các ngươi biết phải làm thế nào rồi đấy”. Nàng xoa xoa bờ vai mềm mại, yểu điệu đi vào đường hầm bên cạnh.
Đợi đến khi cái bóng lả lướt của Mị Cơ biến mất hẳn, Đàm Ích nhịn không được chửi thề một tiếng: “Xì, suốt ngày uốn éo lẳng lơ, không biết có phải Tà Vương thích cái điệu bộ đó nên mới giữ ả lại bên cạnh không nữa”.
“Đàm Ích, bớt lo chuyện bao đồng đi, ả đàn bà này không dễ chọc đâu.”
Trong bóng tối, Cảnh Tiểu Thiên và Tạ Trường Khanh liếc mắt nhìn nhau, không hẹn mà cùng nghĩ: “Trong tam giới, lẽ nào thật sự tồn tại Tà Vương này? Tà Vương là kẻ nào?”.
“Chúng ta đuổi theo.” Thân hình Tạ Trường Khanh khẽ động, muốn bám theo Mị Cơ.
Cảnh Tiểu Thiên giữ tay áo y lại, thấp giọng: “Chờ một chút, xem rốt cuộc bọn chúng muốn làm gì”.
Nhưng bộ dạng Tạ Trường Khanh lại nóng như lửa đốt. Cảnh Tiểu Thiên bừng tỉnh, thấp giọng nói: “Huynh nhìn thấy sáo Sưu Hồn, lo lắng Tiêu Ánh Hàn xảy ra chuyện đúng không? Vậy chúng ta chia ra hành động, huynh bám theo ả Mị Cơ kia, ta theo dõi bên này. Đừng đánh rắn động cỏ, một canh giờ sau tụ họp tại đây”.
Tạ Trường Khanh gật đầu, nói: “Đưa tay cho ta!”.
Y cầm bàn tay trái của Cảnh Tiểu Thiên lên, cắn đầu ngón tay của chính mình, vẽ nhanh một đạo bùa chú ngay trong lòng bàn tay của đối phương. Cảnh Tiểu Thiên nhìn thấy bùa chú đỏ chói đó giống hình quẻ âm dương, đang muốn hỏi cho rõ, thì bàn tay trái của Tạ Trường Khanh đã chập làm một với lòng bàn tay cậu.
Tại khe hở giữa hai bàn tay có ánh sáng lóe lên, nhưng nháy mắt đã không thấy đâu. Cảnh Tiểu Thiên xòe tay ra, chẳng còn thấy thứ gì nữa, ngay cả ký hiệu âm dương cũng biến mất không dấu vết.
“Thứ gì vậy?”
“Không có gì, chỉ là một bùa chú bình thường.” Tạ Trường Khanh thoáng xấu hổ, né tránh ánh mắt của Cảnh Tiểu Thiên, giải thích qua loa: “Nếu huynh gặp nguy hiểm, chỉ cần tập trung tinh thần gọi tên ta, ta có thể kịp thời cảm nhận được mà qua đây giúp huynh”.
Lòng hiếu kỳ của Cảnh Tiểu Thiên lại nổi lên, cậu giơ bàn tay trái gí sát vào mặt nhòm đến nửa ngày vẫn không phát hiện chỗ nào kỳ lạ. Huyết phù thần bí, chớp mắt vụt tan.