C
huyện kể rằng thời viễn cổ xa xôi, càn khôn chưa định, thiên địa hỗn độn, mông lung khôn cùng. Thế rồi, chẳng biết bao nhiêu năm tháng trôi qua, Bàn Cổ khai thiên lập địa mở mang cõi trần, Nữ Oa đội đá vá trời tạo ra âm dương. Dưới vòm trời, vạn vật được soi tỏ, bắt đầu có nhật, nguyệt, tinh, thần, gọi là tứ tượng. Vạn vật tiếp tục ngưng tụ, tạo nên thủy, hỏa, sơn, thạch, thổ, gọi là ngũ hành. Đó chính là “thiên khí giáng xuống, địa khí bay lên, thiên địa giao hợp, vạn vật sinh sôi”.
Nơi phương Đông hoang sơ, sinh ra mặt trời.
Ở đất Hoa Hạ, trong vùng Trác Lộc, bốn bề hoang tàn xơ xác, khói lửa mịt mù tháng năm. Các thị tộc thượng cổ ở Thần Châu bị cuốn vào chiến tranh khốc liệt, giữa các bộ lạc thường xảy ra xung đột tranh chấp. Thủ lĩnh các bộ tộc dựa vào thần lực mà xông pha chém giết, chúng sinh vùng Trung Nguyên khổ không kể xiết. Trong đó tộc Ma Đế và tộc Cửu Lê dưới quyền cai quản của Hoàng Đế phương Bắc có xung đột lớn nhất, thủ lĩnh đôi bên là Cộng Công và Chuyên Húc dẫn quân dàn trận tại chiến trường hoang dã, huyết chiến ngập trời.
“Ma Đế Cộng Công sắp sửa thành công lại bại trong gang tấc, phẫn nộ va đổ núi Bất Chu. Từ đó trụ trời đứt gãy, đất nứt ra, trời nghiêng về Tây Bắc, nhật nguyệt sao trời di chuyển về Tây Bắc, đất sụt về Đông Nam, toàn bộ sông nước đổ về Đông Nam. Nữ Oa không đành lòng nhìn nhân giới ngập trong tai ương, trước khi lên trời đã rót đầy năng lượng vào Ngũ Hành Châu, trời đất hồi phục như cũ…”
Một giọng kể già nua bình thản vang lên trong Thiên Cơ các, những ảo ảnh xa xôi của thời thượng cổ dần mất đi, không gian yên tĩnh trở lại.
“Sư huynh, tối nay huynh gọi đệ đến đây bàn chuyện, chắc không phải chỉ để kể lại truyền kỳ về Ngũ hành Tôn giả chứ?”
“Tất nhiên không phải.” Chưởng môn Thái Hoa vuốt râu trầm ngâm không nói, tay vỗ nhẹ cuốn tàng kinh một lúc lâu, bỗng dưng mở mắt: “Thiên Cơ các chứa rất nhiều tàng kinh, gần đây ta lật xem vài quyển thì tình cờ phát hiện, trong trận chiến giữa hai bộ tộc Ma Đế và Cửu Lê ngày đó, còn có sự can thiệp của Thiên Nữ Bạt, những nơi ả đi qua đất đai nóng cháy, không một ngọn cỏ nào sống nổi, cương thi hoành hành khắp đất Trung Nguyên”.
“Sư huynh, Thiên Nữ Bạt có quan hệ gì với cương thi vậy?”
“Sư đệ có điều không biết, cương thi đầu tiên trên thế gian chính là Thiên Nữ Bạt, con gái của Hoàng Đế, những nơi ả đi qua đều nóng cháy khô hạn, bị người đời gọi là Hạn Bạt. Sau khi thua trong tay bộ tộc Ma Đế, ả đã bị họ dùng pháp thuật cấm kỵ mà hạ chú biến thành cương thi đầu tiên.”
Mấy người Thương Huyền giật mình hoảng hốt nhìn Thái Hoa: “Có phải sư huynh nghe Thường Sâm kể về chuyện cương thi tàn sát thôn làng, thấy nghi ngờ nên đến Thiên Cơ các xem lại điển tịch không?”.
Thái Hoa gật đầu đáp: “Không sai. Thiên Nữ Bạt là cương thi đời đầu, mặc dù khả năng hủy thiên diệt địa vô cùng đáng sợ, nhưng theo từng thế hệ cương thi sinh sôi nảy nở, pháp lực của chúng ngày một yếu đi, không đủ khả năng làm loạn nữa. Căn cứ theo điển tịch mà nói, sau khi Cộng Công giận dữ va đổ núi Bất Chu, rất nhiều thần tộc thượng cổ ngập trong tai ương, Thiên Nữ Bạt cũng theo đó mà mất tích”.
“Vậy ả đi đâu rồi?”
“Nghe nói ả đã bị một phong ấn thần bí nhốt mấy vạn năm. Chỉ là, ai phong ấn ả, thời gian của phong ấn kéo dài được bao lâu thì trong thư tịch không nói cụ thể, nên ta cũng không cách nào hiểu được huyền cơ trong đó.”
Thương Huyền trưởng lão thốt lên: “Sư huynh, chẳng lẽ huynh nghi ngờ Thiên Nữ Bạt đã phá được kết giới, đi vào nhân gian gây họa chúng sinh?”.
“Nếu thực sự Thiên Nữ Bạt đã thoát ra gây hại nhân giới, thì với đạo hạnh và tu vi của mấy đứa Trường Khanh, Thường Sâm, chắc chắn không thể nào chống đỡ được, chứ đừng nói đến chuyện thu phục ả. Như thế sự việc cương thi làm loạn ở thôn Cửu Tuyền, hẳn không phải do chính Thiên Nữ Bạt gây nên.” Thái Hoa vuốt râu đứng lên, nhìn xuống dãy núi đen như mực, khẽ lắc đầu.
Ngọn núi này ban ngày bồng bềnh trong mây, ban đêm lại trở thành cái bóng đen ngòm, dãy núi trùng điệp như chứa đựng bí mật chồng chất, chờ hậu nhân đến tra xét rạch ròi.
Tuy rằng không nhìn rõ bóng của Trấn Ma Tháp, nhưng chưởng môn Thái Hoa vẫn loáng thoáng nghe được vô số lời nguyền rủa oán độc truyền đến bên tai. Tiếng tụng kinh của chúng đệ tử bên ngoài Thiên Cơ các vang lên đều đều không dứt, hai luồng âm thanh hòa vào làm một giữa đất trời. Lòng Thái Hoa không khỏi chấn động, kể từ ngày tiếp nhận chức vị chưởng môn, đây là lần đầu tiên lão có cảm giác tâm phiền ý loạn cùng do dự khó xử thế này.
Loại cảm giác này tất nhiên không thể nói rõ với các sư đệ, càng không thể giãi bày cùng các đệ tử môn hạ. Chưởng môn phái Thục Thiên xưa nay vững vàng trầm ổn, há có thể ngay thời khắc mấu chốt lòng dạ bất an, làm hỏng việc lớn.
Trên đỉnh Cửu Thiên, non xanh nước biếc.
Hậu sơn Thục Sơn là cấm địa, trước nay vẫn lạnh lẽo vắng vẻ không một bóng người, đệ tử bình thường nếu không được chưởng môn cho phép thì không thể tự ý ra vào. Nhưng lúc này trong thâm cốc, kiếm khí chói mắt bay lượn dọc ngang, ở giữa không trung đan vào nhau thành một tấm lưới chằng chịt chói mắt.
Các trưởng lão Thục Sơn nghiêm mặt, chia ra bốn phía bảo vệ các vị trí quan trọng, còn chưởng môn đương nhiệm là đạo trưởng Thái Hoa thì ngồi ngay giữa trận pháp. Có thể thấy rõ lão đang vận công đến lúc căng thẳng nhất, thái dương nhễ nhại mồ hôi, pháp trượng trong tay tỏa ra kim quang chói lọi.
Bốn mươi chín đệ tử được tuyển chọn kỹ càng của phái Thục Thiên đều tụ tập đông đủ ở đáy cốc, tay ngắt pháp quyết ngồi thành một vòng, cùng lẩm nhẩm một câu mật chú: “Thiên hạ có khởi điểm, khởi điểm ấy là mẹ thiên hạ, đã được mẹ thì phải biết con, đã có con, phải trở về giữ mẹ, thân đến chết cũng không lâm nguy--1--… Phục Ma Quyết!”.
--1-- Trích chương 52 – Quy Nguyên trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử.
“Luật vận hành của đạo là trở lại, diệu dụng của đạo là yếu mềm. Vạn vật trong thiên hạ sinh ra từ có, có lại sinh ra từ không--2--… Thất Tinh Quyết!”
--2-- Trích chương 40 – Khử Dụng trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử.
“Thấy được thứ nhỏ nhặt mới là sáng, giữ được thứ mềm yếu mới là cường. Dùng ánh sáng của Đạo, để quay về với quang minh của Đạo, thân không sợ tai ương, đó là tìm về vĩnh cửu--1--... Huyền Thiên Quyết!” “Ấn đô thiên đại pháp chủ!”
--1-- Trích chương 52 – Quy Nguyên trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử.
Chưởng môn Thái Hoa tay trái bấm Dần văn, sau đó lần lượt bấm Mão, Thìn, Tỵ đủ mười hai văn lộ, cuối cùng đến Sửu văn, tổng cộng mười hai cung, liên tục như vậy chín lần.
Nương theo tiếng ngâm tụng đều đều không dứt, một chùm sáng vàng óng từ trong cốc bay thẳng lên trời, trận pháp Nữ Oa Vá Trời lập tức ngập tràn kim quang, mọi người đều thở phào nhẹ nhõm, tinh thần căng thẳng mấy ngày liền đến giờ mới buông lỏng được một chút: “Kể như cũng có chút thành quả, nhiều ngày liền làm phép của chúng ta không uổng phí rồi”.
“Các con vất vả rồi, đêm nay về phòng nghỉ ngơi đi, không cần lên lớp buổi tối nữa.”
“Vâng, cẩn tuân pháp chỉ của chưởng môn!”
Ban đêm, trước thềm Thiên Cơ các là một thế giới chìm giữa biển mây mờ mịt.
Trò chuyện dưới ánh trăng, trưởng lão Thương Huyền thấy vẻ mặt sư huynh đầy vẻ lo lắng, bèn lên tiếng: “Sư huynh không cần lo lắng, trận pháp Nữ Oa Vá Trời lần này luyện tập thành công, chí ít có thể giúp chúng ta duy trì thêm hơn một tháng nữa”.
“Chỉ hy vọng thế.”
Chưởng môn Thái Hoa chắp tay đứng lặng, tay áo phần phật, thần sắc bất động. Thế nhưng, ngực lão đột nhiên dâng lên cảm giác vô cùng bất an, mà nhìn quanh bốn phía lại chỉ thấy ánh trăng trong veo núi non vắng vẻ, xung quanh chẳng có gì khả nghi hết.
“Sư đệ, gần đây đệ có cảm thấy sắp xảy ra chuyện lớn, tâm thần bất an không?”
“Chưởng môn sư huynh muốn ám chỉ điều gì? Chẳng lẽ sư huynh lo lắng chiến sự Lạc Dương?”
“Không phải! Không liên quan đến chiến sự Lạc Dương. Không lâu trước đây, ta có cảm giác năng lượng tà ác nhất trong trời đất đang từ từ hình thành, như thể có một sức mạnh bí ẩn hiểm ác rục rịch chui khỏi lòng đất, chỉ là luồng tà linh thần bí đó hình như lại hoàn toàn mất dấu ở Thục Sơn.”
Trưởng lão Thương Huyền khẽ giật mình, lão biết chưởng môn sư huynh công lực thâm hậu, vô cùng mẫn cảm trong việc cảm ứng vạn vật trong vũ trụ.
“Vậy sư huynh có xác định được luồng tà khí đó đến từ đâu không?”
Thái Hoa thở dài đáp: “Ta chỉ biết nó đến từ tháp Trấn Ma phía sau Thục Sơn, nhưng không thể khẳng định được đó là lực lượng nào”.
Trưởng lão Thương Huyền ngẫm nghĩ một lát bèn an ủi: “Địa mạch Thục Sơn đã dị động nhiều ngày, linh lực trấn áp tháp Trấn Ma cũng hao hụt không ít, chỉ e có không ít yêu nghiệt trong tháp mưu toan vùng vẫy, tà khí phát ra ngoài mới hội tụ thành sức mạnh không thể khinh thường đó”.
“Không sai! Chắc là do yêu nghiệt trong tháp Trấn Ma phát ra, ngưng tụ thành tà khí, ngày mai chúng ta đến tháp Trấn Ma hạ chú phong tháp lần nữa để tránh xảy ra chuyện bất trắc.”
“Vâng!”
“Bọn Trần Diệp xuống núi đã lâu, chắc hẳn đã tới Lạc Dương rồi, không biết tình hình chiến sự ở đó thế nào?”
“Tối nay đệ sẽ dùng Toàn Cơ kính liên lạc với Thường Sâm, sư huynh cứ yên tâm.”
Trong gió đêm, chưởng môn Thái Hoa nhìn màn đêm hồi lâu không nói, tay lão không ngừng bấm độn, tựa như giữa biển mây đen đặc kia có một thứ sát khí thần bí đang tồn tại. Thương Huyền thấy vẻ mặt sư huynh đang hết sức chuyên chú, không dám lên tiếng quấy rầy, tự động lùi sang một bên.
Sao đêm nay không sáng, đạo trưởng Thái Hoa nhìn ra ngân hà mờ mịt trên cao, tựa như vô ý hỏi: “Sư đệ có còn nhớ tình hình lúc nhặt được Trường Khanh không?”.
Trưởng lão Thương Huyền thầm sửng sốt, việc này đã trôi qua hai mươi bảy năm, vì sao tối nay chưởng môn sư huynh lại đột nhiên nhắc tới?
Lão thở dài đáp: “Mặc dù đệ đã già, nhưng tất cả những gì xảy ra sau trận đại chiến với Ma giới đều nhớ rõ như lòng bàn tay. Ngày đó, nếu không phải đệ kịp thời ra tay ngăn cản, chỉ sợ Trường Khanh đã mất mạng trong tay nam tử kia rồi. Người đó tàn nhẫn với một đứa trẻ sơ sinh như vậy, thật là quá đáng!”.
“Đệ có nhớ tướng mạo của hắn không?”
“Nam tử đó mặt đầy râu ria, bên ngoài mặc chiếc áo khoác màu xanh rộng thùng thình, đệ chỉ nhớ rõ trên mi mắt người này có một vết sẹo khá dài. Mặc dù vẻ mặt hắn đầy hoảng hốt, nhưng cả người toát ra khí chất võ giả cực đại, tuyệt đối không giống người Ma giới. Sau lần gặp ở Ma giới hai mươi bảy năm trước thì đệ không còn tin tức gì của hắn nữa, không biết bây giờ hắn đang ở đâu, vì sao nhiều năm qua không hề hỏi đến Trường Khanh.”
Đạo trưởng Thái Hoa vuốt râu trầm tư: “Trẻ nhỏ vô tội, cớ gì ra tay tàn độc? Trường Khanh là do đệ nhặt về từ Ma giới, bí mật này chỉ có ngũ lão Thục Sơn chúng ta biết, sau này cũng không được tiết lộ cho bất cứ ai, để tránh rắc rối cho Trường Khanh. Cũng may Trường Khanh không phụ sự kỳ vọng của chúng ta, sau này chắc chắn dựng được nghiệp lớn. Xem ra, nhiệm vụ làm rạng danh phái Thục Thiên chỉ có thể gửi gắm đám đệ tử trẻ tuổi này, pháp trượng trong Thiên Cơ các sớm muộn gì cũng do Trường Khanh tiếp quản, về phần chúng ta…”. Lão mỉm cười không nói nữa.
“Sao chưởng môn sư huynh lại nói ra những lời này? Trường Khanh còn chưa đến ba mươi, Thường Sâm lại càng trẻ người non dạ, cơ nghiệp ngàn năm của các môn phái tu tiên Thục Sơn sao có thể dễ dàng do chúng toàn quyền tiếp quản.” Thương Huyền nhíu mày, con ngươi đầy vẻ kinh ngạc, lòng có chút nghi ngại.
Đạo trưởng Thái Hoa mỉm cười nói: “Sư đệ, đệ không cần kinh ngạc. Trải qua trận pháp vá trời lần này, mấy ông già Thục Thiên chúng ta đều tổn thương nguyên khí, tổn hại hình thần, chỉ e cách ngày quy thiên cũng không còn xa nữa. Chẳng lẽ sư đệ không cảm giác được hiện tượng chân khí suy yếu trong cơ thể hay sao? Chúng ta cũng chỉ là thân xác phàm trần, không thể trái nghịch với quy luật sinh lão bệnh tử. Nếu thật sự phải đợi đến ngày quy thiên mới lo xử lý mấy chuyện vụn vặt này, chẳng phải sẽ càng khiến Thục Sơn thêm loạn, không bằng sớm ngày sắp xếp chuyện sau này, chuẩn bị chu toàn mọi thứ”.
Thương Huyền trưởng lão gật đầu.
Hai người chậm rãi tản bộ dưới ánh trăng, nhìn lên bầu trời đầy sao, lòng biết rõ một khi đại sự lần này hoàn tất, chắc chắn Tạ Trường Khanh phải tiếp nhận chức vụ chưởng môn rồi.
Trấn Tỷ Thủy bên ngoài thành Lạc Dương.
Từ khi đại quân Lý Đường đánh hạ Lạc Dương và Vương Thế Sung đầu hàng thì đại quân chủ lực đã nhanh chóng vào thành, trên trấn chỉ còn một bộ phận tướng sĩ trấn giữ.
Soái phủ tạm thời của Lý Thế Dân tọa lạc trong rừng trúc cuối trấn Tỷ Thủy.
Nửa đêm lúc Thường Sâm gõ cửa phòng đại sư huynh thì Tạ Trường Khanh đã tắm rửa xong xuôi, thấy sư đệ không mời mà tới tự đẩy cửa vào, y thuận tay khoác áo lên người, thản nhiên nói: “Đệ tìm ta có việc à?”.
Thường Sâm thấy Tạ Trường Khanh trung y đơn bạc, bạch y chân trần, tóc dài đen óng sũng nước dính trên vai áo, cả người vấn vít hơi ẩm, lòng giật mình bất giác cảm thấy xấu hổ.
“Đại sư huynh, đệ vừa nhận được tin tức của sư phụ, người nói trận pháp vá trời của Thục Sơn ta đã luyện thành, tạm thời có thể giữ được hơn một tháng, bảo chúng ta không cần nóng vội.”
Tạ Trường Khanh gật đầu, đáp một tiếng: “Ta biết rồi”. Thấy Thường Sâm vẫn ngồi yên chỗ cũ, tựa hồ không có ý cáo từ, Tạ Trường Khanh bèn hỏi: “Có phải sư phụ còn dặn dò gì đó, muốn đệ truyền lời cho ta đúng không?”.
Thường Sâm gật đầu, đắn đo một lát mới nói: “Phải! Sư phụ nói, hôm nay người xem thiên văn phát hiện hình như huynh sắp gặp phải kiếp nạn, muốn huynh, muốn huynh…”.
“Sư phụ muốn ta làm sao?”
“Sư phụ muốn huynh lúc nào cũng phải cẩn thận, không thể đơn độc hành động để tránh gặp phải sự cố ngoài ý muốn.” Thường Sâm đăm chiêu ngẫm nghĩ, quyết định nuốt xuống câu nói sau cùng của trưởng lão Thương Huyền: “Sư huynh con có tình kiếp vướng thân, chính là ‘thủy hỏa bất dung kỳ tính tương khắc’, Thường Sâm con phải nhớ kỹ cho ta, không thể để Trường Khanh tùy tiện có quan hệ không rõ ràng với nữ nhân mệnh hỏa”.
“Ta biết rồi.”
Tạ Trường Khanh ngồi xuống bàn, tự tay thắp ngọn đèn lên, mở giấy bút ra, rõ ràng muốn chong đèn viết chữ.
Từ sau khi y tỉnh lại tính cách thay đổi rất nhiều, đối xử với mọi người hết sức lạnh lùng, ngày nào cũng chỉ nhốt mình trong phòng không tiếp người ngoài. Ngay cả đám người Thường Sâm, Tiêu Ánh Hàn, Trần Diệp đến thăm bệnh, y cũng không mời trà nước, kiệm lời ít nói, hành động cử chỉ lại càng lạnh nhạt hơn.
Thường Sâm không biết đại sư huynh tao nhã khoan hậu ngày ấy vì sao trở thành thế này, lẽ nào trọng thương lần đó khiến cho y ngay cả tính tình cũng thay đổi, trở thành một người xa cách khó gần?
Thường Sâm còn muốn nói, ngày mai hắn cùng với Trần Diệp sẽ phụng lệnh sư tôn đến núi Hổ Lao điều tra địa động, sau đó lại đến thôn Cửu Tuyền một chuyến tìm hiểu chân tướng cương thi, nhưng thấy Tạ Trường Khanh lạnh nhạt như vậy, lòng thầm nghĩ: “Ta không nói vẫn tốt hơn. Nếu ta báo cho đại sư huynh biết việc này, huynh ấy sẽ lại gồng mình gánh vác. Giờ huynh ấy trọng thương mới khỏi, không thể hao tổn tinh thần quá độ, ngày mai chúng ta cứ lặng lẽ xuất phát là được”.
Thường Sâm nghĩ tới đây, bèn đứng dậy nói: “Đại sư huynh, huynh bị thương chưa lành, nên nghỉ ngơi sớm đi, Thường Sâm cáo từ”.
“Được.”
Thấy bóng dáng đơn độc của Thường Sâm đã biến mất ngoài cửa, Tạ Trường Khanh thầm cảm thấy áy náy. Từ biểu cảm vừa rồi của Thường Sâm, y đọc ra được rất nhiều điều khó nói, đôi mắt nâu sâu thẳm kia tràn đầy quan tâm cùng lo lắng… Thế nhưng, y chỉ có thể lựa chọn lờ đi, làm như không thấy.
Gió đêm len lỏi vào phòng.
Ngoài sân cây lá đong đưa, trong phòng ánh nến chập chờn.
Trên bàn trải tấm lụa trắng như tuyết, Tạ Trường Khanh mới viết ba chữ đã cảm thấy đầu váng mắt hoa, cảm giác đau buốt âm ỉ chạy khắp mình mẩy. Y đã nhận ra tình trạng khác thường trong cơ thể, chỉ có thể buông cây bút lông sói xuống, thở dài một hơi, gấp cuốn lụa trắng trên bàn lại, đứng dậy đi vào phía sau bình phong cởi y phục ra.
Phía sau bức bình phong, đầu ngón tay y lóe tia sáng sắc bén, trong nháy mắt ba mũi châm bạc đã đâm thẳng vào ba đại huyệt Tuyền Cơ, Hoa Cái, Tử Cung.
Đến khi Tạ Trường Khanh ngồi lại chỗ cũ, sắc mặt đã khôi phục lại bình thường, y tiếp tục cầm bút viết nhanh, như thể hoàn toàn không để ý những chuyện vừa xảy ra. Quỷ Môn Thập Tam Châm quả nhiên có hiệu quả nhanh chóng, đến khi chấp bút lần nữa, Tạ Trường Khanh đã hít thở đều đặn, mạch đập bình thường, đặt bút vững vàng, không thấy bất cứ dấu hiệu gì khác lạ.
Gió đêm lạnh lẽo, ánh trăng thê lương.
Một chú bướm vo ve vỗ cặp cánh mỏng như cánh ve, lượn lờ bay múa trong thư phòng. Giữa không gian u ám, thấy nguồn sáng duy nhất là ngọn đèn dầu, nó không do dự lao thẳng vào hào quang nóng cháy ấy, nhưng thể lực không chống đỡ được mà nghiêng ngả giữa không trung, rơi vào cây đèn “xèo” một tiếng, biến thành làn khói xanh vấn vít lượn lờ.
Thiêu thân lao đầu vào lửa chẳng phải tự tìm đường chết? Tạ Trường Khanh ngẩn ra, chẳng lẽ trong lòng con bướm đó, thế giới rực sáng kia còn có thứ nó trân trọng nhất, khiến nó dù phải đánh cược cả tính mạng mình vẫn muốn dấn thân vào, chỉ để đổi lại chút ôn tồn trong giây lát?
Đốt cháy thân ta, hừng hực trong lửa, sống có gì vui, chết có gì buồn, vì thiện trừ ác, giữ lấy quang minh, vui buồn sầu muộn, tan thành cát bụi, thương thay thế nhân, vui buồn lắm vậy?
Mà chú bướm kia cũng có linh hồn, trong thời khắc cuối cùng ngọn lửa thiêu đốt thân mình, chắc hẳn đã “có niềm vui sướng vì đạt được sở nguyện”.
Dưới ánh đèn, lòng Tạ Trường Khanh nhất thời hoảng hốt.
Giữa huyễn cảnh mông lung, y phảng phất trông thấy một thiếu niên lười nhác đang vui vẻ ra mặt níu lấy cánh tay mình: Như vậy đi, sau khi chuyện Ngũ hành Tôn giả kết thúc, ta lập tức đưa huynh rời khỏi Thục Sơn, không ai có thể ngăn cản ta. Nếu như chưởng môn và các trưởng lão Thục Sơn ngăn cản ta, ta sẽ nhổ râu bạc của họ, phá hủy Thiên Cơ các của họ, khiến cho đám tiểu đạo sĩ, lão đạo sĩ không còn chỗ tụng kinh. Huynh đồng ý ở lại thành Du Châu là tốt nhất, chúng ta cùng nhau trông coi tiệm cầm đồ Thuận Phong…
Khi nói những lời này, nơi khóe mắt đuôi mày của thiếu niên mười chín tuổi toát lên vẻ rạng rỡ cùng hạnh phúc khôn cùng.
Tạ Trường Khanh hơi siết chặt cán bút, nhắm chặt mắt muốn xua đi những ảo ảnh trong đầu, thế nhưng thiếu niên mười chín tuổi lại khăng khăng nấn ná trong đầu y, ngoan cố không buông mà nhắc nhở chính mình.
“Không phải huynh rất thích hồ nước ở thôn Cửu Tuyền sao? Chúng ta có thể nửa năm ở đó, nửa năm đến thành Trường An. Đúng rồi, chúng ta sẽ mở một chi nhánh tiệm cầm đồ Thuận Phong tại Trường An, để cho A Thông và Giang Bình quản lý, dù sao thì A Thông nằm mơ cũng muốn được đến Trường An mà…”
Đây là những lời hai người vô ý nói ra trong lúc tán gẫu, y không hề nhận lời, nhưng giữa lúc thần hồn phiêu lãng, trong thời khắc nguy hiểm cận kề, y lại không thể nào quên được.
Không quên được.
Không quên được thì phải nhớ cả đời.
Thế nhưng, thật sự phải khiến Cảnh Tiểu Thiên nhớ cả đời, dốc cạn tâm lực vẫn không thể giải thoát?
Từ đáy lòng Tạ Trường Khanh dâng lên nỗi mê man cùng sợ hãi không sao nói rõ. Nhiều năm thanh tu tâm như nước đọng, tưởng rằng lòng đã có thể thản nhiên không gợn sóng, nào ngờ chỉ một lần mềm lòng buông thả tình ý, lại rơi vào tình nghiệt không lối thoát này.
Cảnh Tiểu Thiên đối với y vẫn luôn ôm một mảnh tình si, y biết rõ. Nếu như người đó cầu mà không được, thì chuyện sau này rồi sẽ ra sao?
Tạ Trường Khanh đọc thuộc nhiều điển cố Lão Trang, tất nhiên hiểu rõ cái gọi là “đạo trong trời đất, thứ gì đạt đến cực điểm thì ắt sẽ phản lại, tràn đầy thì sẽ dễ hư hao”. Lời thề bên nhau đời đời kiếp kiếp, đại nghiệp Thục Sơn, truyền nhân kiếm Diệt Tuyệt, lời nguyền không chết không thôi… vô số ý niệm cứ quẩn quanh trong đầu khiến y chần chừ khó quyết.
Có thể thiêu thân lao đầu vào lửa không phải hi sinh, mà là một loại lĩnh hội triệt để.
Chi bằng đừng nghĩ ngợi gì nữa, chỉ cần thuận theo tâm mình, làm những việc cần phải làm, cảm nhận một đời không oán không hối.
“Có thể, tất cả đã được định sẵn từ trong bóng tối, đâu cần mình phải cân nhắc trước sau…” Chẳng biết qua bao lâu, sau một tiếng “cách” giòn tan, cây bút thanh trúc trong tay Tạ Trường Khanh gãy đôi.
Trên mặt Tạ Trường Khanh hiện lên nét cười nhàn nhạt, nhưng nụ cười nhạt nhòa mà kiên nhẫn ấy chung quy vẫn ẩn chứa ba phần khổ sở. Ngón tay của y vuốt nhẹ cây châm lạnh như băng trên mặt bàn. Cảnh huynh đệ, bỏ đi, tất cả gặp gỡ nên duyên, từ ta bắt đầu, cũng nên từ ta mà kết thúc, khi câu chuyện này đến hồi kết rồi, cứ để ta thay huynh quyết định.
Phía trước, không có gì hết, nhưng đã tuyên bố kết cục của chúng ta rồi.
Là ta phản lại lời thề giữa ta và huynh, quả báo ắt do ta gánh chịu. Đợi đến ngày mọi chuyện kết thúc, huynh dù có oán giận nguyền rủa, rồi cũng tan thành mây khói. Đúng vậy, chỉ cần dùng một cây châm, đến khi huynh trở lại hồng trần, bão cát đã chôn vùi ta thành quá khứ xa xôi.
Đêm nay, ngoại trừ Tạ Trường Khanh trằn trọc không ngủ, còn có một đệ tử Thục Sơn khác lòng dạ rối bời, tạp niệm quẩn quanh.
Ánh trăng thê lương từ cửa sổ chiếu vào phòng ngủ của Tiêu Ánh Hàn, vẩy nên một lớp sương mù nhàn nhạt.
Tiêu Ánh Hàn công lực cao thâm, thị lực hơn người, giữa sắc trời tối tăm vẫn thấy được vô số bụi bặm lượn lờ trong không khí, mà lòng hắn lúc này lại giống như bị một tảng đá lớn đè lên.
Mở cửa sổ nhìn ra, hắn chỉ thấy bầu trời ngoại thành Lạc Dương ánh trăng ảm đạm, mây mù trắng đọng lại thành sương.
Từ sau khi gặp được Cảnh Tiểu Thiên cùng Tạ Trường Khanh trong địa động dưới núi Hổ Lao, cảm giác nguy hiểm thấp thỏm bất an ấy luôn quẩn quanh trong đầu hắn. Tiêu Ánh Hàn không nói rõ được đó là cảm giác gì, như thể chuyện mà mình vẫn trông ngóng bấy lâu sắp thành hiện thực, nhưng sự mong chờ này lại pha lẫn nỗi sợ hãi khó tả.
Một năm? Hai năm? Đã bao nhiêu năm rồi?
Thời gian cùng số phận đã chia cách bọn họ quá xa, xa tựa như một giấc mộng, một ảo ảnh.
Hắn thậm chí không nhớ nổi mọi thứ cảm xúc từng có trong cuộc đời mình, tốt đẹp, mất mát, đau thương, tuyệt vọng… Hắn chỉ nhớ mỗi năm vào những ngày nhất định, hắn sẽ lẳng lặng đứng trong hậu hoa viên Địch Trần sơn trang mà ngắm nhìn Ưu Đàm huyết sắc nở rộ.
Những cánh hoa đẹp đẽ mà đầy quỷ dị này bừng nở dưới ánh trăng, tựa như ánh lửa bập bùng, mang theo hi vọng trùng sinh.
Huyết sắc Ưu Đàm, còn có tên là hoa Dẫn Hồn, là sứ giả vong linh, đưa linh hồn vượt qua dòng Vong Xuyên đến cầu Nại Hà, uống hết chén canh Mạnh Bà, quên hết mọi vướng bận kiếp trước. Sau đó, người chết sẽ cam tâm tình nguyện đạp lên chỉ dẫn của biển hoa này mà đi xuống chốn u minh rồi luân hồi sống lại. Khi đối diện với cái chết, với sức mạnh lớn lao không thể kháng cự trong trời đất này, con người chỉ mỏng manh như cỏ rác. Năm tháng càng kéo dài thì đời người sẽ chỉ còn chờ đợi, chờ đợi đến phiên mình tiếp tục lao vào nỗi phiền muộn, mê man, trùng phùng không thể đoán trước.
“Huynh, rốt cuộc còn sống? Hay đã chết?” Đây là nghi vấn vẫn quẩn quanh trong đáy lòng Tiêu Ánh Hàn bấy lâu nay.
Trong bóng tối vang lên một tiếng thở dài thật khẽ, yếu ớt như có như không, nhưng lại làm Tiêu Ánh Hàn đang chìm giữa trầm tư bừng tỉnh.
“Kẻ nào?”
Hắn khẽ giật mình, tung chưởng phá vỡ cửa sổ, nhảy ra ngoài sân.
Xung quanh yên ắng không một tiếng động, chủ nhân của âm thanh vừa rồi tựa như biến mất hoàn toàn vào không khí. Nhưng một hơi thở quen thuộc mang theo mê hoặc thần bí, đột nhiên tràn đầy trời đêm.
Tiêu Ánh Hàn vén vạt áo, nhảy lên đuổi theo hơi thở quen thuộc kia.
Trên sơn đạo, dưới ánh trăng, hắn chạy băng băng đuổi theo chẳng biết mất bao lâu, cuối cùng mới nhìn thấy một vách núi dựng sừng sững trước mắt, đây là đường cụt.
“Ngươi là kẻ nào, vì sao dưới ánh trăng dẫn dụ ta đến đây?”
Bóng người kia tựa như không nghe thấy, vẫn lẩn khuất dưới vách núi mờ mịt, như khẽ chập chờn lại không thể nào nhìn rõ. Nếu không phải thị lực Tiêu Ánh Hàn cực tốt, thì chắc chắn đã cho rằng đó chỉ là một ảo ảnh dưới trăng.
Cái bóng đó vẫn cúi đầu không nói, đến khi nghe được lời truy hỏi của Tiêu Ánh Hàn thì mới ngẩng đầu lên, chỉ thấy dưới ánh trăng mờ nhạt, khuôn mặt kia rõ từng góc cạnh, sắc lạnh như đao, vẻ mặt không vui không giận.
Tiêu Ánh Hàn vừa nhìn thấy đã tái mét, lảo đảo lùi liền ba bước, cả kinh thốt lên: “Ngươi là...”. Nhìn thấy bóng người đứng lặng trước vách đá, lòng hắn mừng vui lẫn lộn.
Trước mắt hắn là một khuôn mặt quen thuộc, bao nhiêu ký ức không thể xóa nhòa trong cuộc đời ào ào hiện lên, cõi lòng tức khắc trở nên hỗn độn, khiến toàn thân hắn cứng đờ.
Hai người cách nhau mấy bước, lặng lẽ nhìn nhau, chẳng biết đã bao lâu.
Toàn thân người kia tản ra một mùi máu tanh nhàn nhạt, quỷ quái vô cùng, chẳng lẽ đây là thủ pháp che mắt? Những gì trước mắt đều là trò ma thuật mà thôi?
Đệ tử Thục Sơn lấy lại sự bình tĩnh cùng cẩn thận ngày nào, vội vàng lui về phía sau một bước, cảnh giác nói: “Ngươi là ai?”. Thấy Tiêu Ánh Hàn đầy vẻ đề phòng, người kia dường như vô cùng thất vọng, con ngươi lóe lên nỗi mất mát đau thương.
Thời gian chậm chạp trôi qua, tay chân Tiêu Ánh Hàn không còn cứng ngắc như lúc nãy nữa, trong lòng dâng lên cảm giác ấm áp nhè nhẹ.
Con ngươi như vậy, không thể là giả.
Tướng mạo con người có thể biến đổi trăm ngàn kiểu, nhưng ánh mắt không thể gạt được người thân thiết nhất. Đây là Thẩm Trạch! Chắn chắn là huynh ấy! Giống hệt với người hắn từng gặp gỡ tại Miêu Cương nhiều năm về trước, không hề thay đổi chút nào. Về phần mùi máu tanh kia, Thẩm Trạch nhiều năm bị giam cầm trong Trấn Ma Tháp, nhiễm mùi máu tanh cũng chẳng có gì lạ.
Nghĩ đến đây, lòng Tiêu Ánh Hàn thoải mái hơn nhiều. Tiêu Ánh Hàn lúc này vô cùng kích động, trong lòng tràn ngập niềm hân hoan cửu biệt trùng phùng, tựa như được trở về với những năm tháng bên nhau nhiều năm trước. Nhưng khi hắn vươn cánh tay ra, thì năm ngón tay lại hoàn toàn trống rỗng, xuyên qua huyễn ảnh không hình không dáng của Thẩm Trạch.
Thì ra, người kia không hề có thân xác máu thịt.
Tiêu Ánh Hàn cả kinh, khóe mắt rưng rưng, hắn đã hiểu ra, Thẩm Trạch lúc này vẫn là nguyên hồn rời rạc không có thân thể, chỉ tranh thủ lúc ánh trăng dày mà đến đây gặp hắn thôi. Âm dương cách biệt, ngay cả nói chuyện cũng không làm nổi.
Thẩm Trạch đối diện cũng đầy kích động, nhìn Tiêu Ánh Hàn không chớp mắt, đôi môi run run như có rất nhiều lời muốn nói.
“Huynh có chuyện gì muốn nói với ta đúng không?”
“…” Tuy rằng Thẩm Trạch chỉ mấp máy môi không thành tiếng, nhưng Tiêu Ánh Hàn vẫn đọc ra được cảm giác của người kia. Hai người đã từng đồng sinh cộng tử vượt qua bao chuyện, cho nên họ có thể hiểu được lòng nhau. Hắn biết, Thẩm Trạch muốn có được hình thể rồi cùng hắn nối tiếp tiền duyên.
Dưới ánh trăng, Thẩm Trạch mặc hắc bào không hề phả ra hơi thở, nhưng Tiêu Ánh Hàn vẫn có thể cảm thấy được lồng ngực người kia khẽ phập phồng rất yếu, nhịp đập tuần hoàn không dứt, cho thấy Thẩm Trạch đã bắt đầu ngưng tụ được nguyên thần, chỉ cần thêm thời gian, nhất định có thể thành hình.
Trong lòng Tiêu Ánh Hàn sôi trào máu nóng, lập tức thốt lên: “Huynh yên tâm, ta nhất định giúp huynh”.
Thẩm Trạch mặc hắc bào nghe vậy, khẽ gật đầu tỏ vẻ hiểu rõ. Khi mới gặp Tiêu Ánh Hàn vừa rồi, con ngươi hắn như lóe lên tia lạnh lẽo, nhưng lúc này đã tràn đầy cảm động cùng mừng rỡ.
Gặp lại nhau sau sinh tử ly biệt, Tiêu Ánh Hàn hiểu được sâu sắc cảm giác vui sướng cực hạn khi tìm lại được thứ đã mất đi, không cần biết xảy ra chuyện gì, hắn cũng không muốn phải chịu đựng nỗi đau thấu xương nhập cốt này thêm một lần nào nữa.
Trong gió truyền đến tiếng gà gáy sáng, phương Đông trời dần sáng tỏ.
Thẩm Trạch khẽ thở dài một tiếng, ngón trỏ quơ giữa không trung vẽ ra hai chữ: “Bảo trọng!”. Thân hình hắn khẽ nhúc nhích, bước chân di chuyển, tựa như làn khói dần biến mất sau màn sương mờ ảo.
Tiêu Ánh Hàn chỉ mặc một chiếc áo mỏng nhạt, đứng lặng dưới ánh ban mai, như đang lạc vào giấc mộng.
Mặt trời mọc cũng là lúc Thường Sâm dẫn theo vài đệ tử phái Thục Thiên công lực cao thâm đến thôn Cửu Tuyền điều tra vụ án cương thi.
Đoàn người ngự kiếm đến nơi, chỉ thấy thôn làng tiêu điều xơ xác, nhà cửa bụi bặm, cả thôn chìm trong không khí chết chóc nặng nề. Đến lúc đi qua một khoảnh sân, Thường Sâm đột nhiên nhìn thấy một tấm bùa màu vàng đặc biệt của Thục Sơn dán ngay trên cửa sổ, nhẹ nhàng đong đưa dưới làn gió sớm.
Hắn đi lên phía trước, bóc tấm bùa đã phai màu này ra, nhận ra đây chính là sân nhà huynh đệ Lương Thụ Nguyên, mấy lá bùa đại sư huynh để lại đã cứu được mấy chục mạng người, nhờ đó mà thôn Cửu Tuyền thoát được thảm họa diệt thôn.
Trong gió thoang thoảng hương rượu gạo thơm ngát, nhưng lại trộn lẫn mùi máu tanh nhàn nhạt.
Thường Sâm thầm nghĩ, huyết án xảy ra đã lâu, sao đến giờ vẫn còn mùi máu tanh ma quái này?
Hắn thầm sinh cảnh giác, nhớ tới “quỷ binh” bên bờ sông mà Cảnh Tiểu Thiên từng nhắc đến, bèn dặn dò: “Mọi người cẩn thận một chút, chúng ta đi kiểm tra từng nhà một, nếu như phát hiện có cương thi ẩn nấp thì phải giết ngay, không thể để lại mầm họa. Sau đó chúng ta sẽ đến bãi tha ma gần sông kiểm tra xem có dấu hiệu gì khác thường hay không”.
Chúng đệ tử nghe lệnh tản đi.
Trong số họ có mấy người mới lần đầu xuống núi, còn lại mặc dù có nhiều kinh nghiệm hàng yêu phục ma, nhưng chủ yếu là tiểu yêu hoa cỏ không đáng kể, chứ không hề có chút kinh nghiệm xử lý đám yêu nghiệt lớn như cương thi hút máu thế này. Nhóm Trần Diệp rút kiếm ra khỏi vỏ cẩn thận lục soát, không phát hiện thứ gì khác thường, càng không đụng phải cương thi mắt xanh hay yêu quái lông đỏ gì hết.
Có điều, chuyện ngoài ý muốn vẫn cứ xảy ra.
Dân gian có câu “chó cậy gần nhà”, đệ tử Thục Sơn đến quân doanh Lạc Dương được tiếp đãi long trọng đến thế, vậy mà tới thôn Cửu Tuyền lại bị mấy sinh vật nho nhỏ coi khinh.
Thì ra, trong thôn có mấy chú chó lông vàng trung thành, thấy chủ nhân bị hại mà vẫn nấn ná nơi ở cũ, bảo vệ vườn tược không chịu rời đi. Bây giờ, thấy mấy kẻ lạ mặt đẩy cửa đi vào, đàn chó đó lao ra sủa inh ỏi hòng đuổi cổ mấy đạo sĩ vừa tự tiện xông vào nhà chúng.
Tuy rằng trận pháp Phục Ma của Thục Sơn lợi hại, nhưng lão tổ tông lại không dạy họ trận pháp Đả Cẩu, cho nên đám đệ tử Thục Sơn chỉ còn nước nhảy trái tránh phải, khó khăn lắm mới thoát khỏi sự đuổi riết bạt mạng của đám chó này, nhếch nhác chạy ra khỏi sân.
Đã qua giờ Ngọ, mọi người mở bọc lương khô chia nhau ăn tạm, sau đó lại tiếp tục lục soát.
Tạ Trường Khanh và Cảnh Tiểu Thiên đến chiều nghe Lương Tiểu Nguyên nói lại, mới biết Thường Sâm đã dẫn người đi điều tra thôn Cửu Tuyền.
Tạ Trường Khanh vừa nghe xong vội nói: “Vì sao tối qua Thường Sâm không báo cho ta biết…”.
Cảnh Tiểu Thiên trừng mắt nhìn y: “Nói làm cái gì? Huynh định làm thế nào? Mới hồi phục chưa được hai ngày đã muốn ngự kiếm phi hành sao? Phi đi, huynh phi ngay cho ta coi, ‘rầm’ một cái ngã lộn nhào xuống đất chắc vui lắm nhỉ?”.
Tạ Trường Khanh bị cậu mỉa mai một trận thì nhất thời nghẹn họng, lòng muốn cãi lại vài câu, miệng lại không phát ra tiếng nào. Bởi vì hiện tại đúng là y không thể ngự kiếm, nếu cứ ngoan cố ngự kiếm phi hành, sợ rằng cũng có khả năng giữa đường ngã nhào xuống đất thật. Cũng may y trước nay không so tính thiệt hơn, hỉ nộ không hiện ra mặt, nên dù lòng thấy xấu hổ, ngoài mặt vẫn tỏ vẻ thản nhiên.
Đến chiều ngày hôm sau đám người Thường Sâm mới trở lại Lạc Dương, vừa về là lập tức tìm Tạ Trường Khanh báo cáo tình hình.
Tạ Trường Khanh nghe đến chuyện quỷ binh thì vô cùng ngạc nhiên: “Ngày ấy sau khi hàng phục quỷ binh, ta còn chưa kịp thu vào hồ lô đã bị làn sương máu thần bí nhanh chân đến trước hút đi oán khí. Chẳng lẽ đám quỷ binh này vẫn còn có những tên lọt lưới, tiếp tục ở lại bãi tha ma không chịu rời đi?”.
Thường Sâm trả lời: “Đúng vậy. Đêm qua mấy người bọn đệ đến bãi tha ma điều tra, quả nhiên phát hiện mấy tên quỷ binh âm hồn không tan tiếp tục nấn ná quấy rối nơi đó. Bọn đệ hợp lực vây bắt chúng, thu vào hồ lô, chuẩn bị đêm nay sẽ làm đàn tràng siêu độ cho những người này, tránh cho họ cả ngày lượn lờ nhân gian, nhiễu loạn sự yên bình của chúng sinh”.
“Cũng tốt, đêm nay nghi thức lập đàn cầu khấn để ta làm, cầu siêu cho bọn họ.”
Thường Sâm vội vàng ngăn cản: “Việc này cần tiêu hao rất nhiều chân nguyên, đại sư huynh, huynh bệnh nặng không nên hao tổn sức lực, đêm nay cứ để đệ chủ trì đi”. Tạ Trường Khanh liếc mắt nhìn hắn, cũng không cố chấp nữa, chỉ nói: “Vậy được, đệ cố gắng vậy, những quỷ binh này chồng chất oán khí, e rằng rất khó siêu độ”.
“Sư huynh yên tâm.” Ban đêm.
Cảnh Tiểu Thiên ăn no xỉa răng xong thì bệ vệ đi đến, đúng lúc Thường Sâm đã lên đài bắt đầu thi pháp.
Cảnh Tiểu Thiên thấy ai nấy đều hết sức chăm chú nhìn lên tế đàn, thầm nghĩ: “Nếu như ngay mấy tiểu binh này cũng không thu phục được, phải phiền đến Tạ Tiểu Ngốc ra tay, thì Thường Sâm ngươi không cần bấu víu ở Thục Sơn nữa, trực tiếp theo ta về tiệm Thuận Phong làm tạp vụ đi”.
Bảy bảy bốn mươi chín ngọn đèn thanh đồng được treo làm hai hàng, đủ loại cao thấp đan xen nhau. Gió mát thổi qua, trên tế đàn vô số lá cờ vàng bay phần phật, thổi ngọn đèn chập chờn bất định. Thường Sâm tập trung tinh thần, kiếm Đào Mộc trong tay đâm thẳng vào vị trí quẻ Tốn.
“Bắt đầu!” Tạ Trường Khanh thấp giọng ra hiệu. Thường Sâm đốt tấm phù chú có viết chữ Triện trên nền giấy vàng, đặt lên trước thánh đàn, sau đó nhanh chóng bỏ phù chú vào lư hương. Tia lửa bùng lên, ngón tay hắn duỗi ra thẳng tắp bắn liền bảy phát, trong lò nổ ầm một tiếng, ngọn lửa bùng cháy dữ dội sáng rực cả mảnh trời đêm. Thường Sâm mặt mày nghiêm trang, nghe Trần Diệp gõ đủ mười lăm tiếng trống Minh Thiên Cổ thì lập tức nín thở niệm chú. Hắn giơ tay trái đến quẻ Ly, tay phải đến quẻ Khôn, cứ thế vờn quanh bảy vòng. Sau đó tay trái lại điểm quẻ Chấn, tay phải điểm quẻ Đoài, cũng xoay đủ bảy vòng.
Nghi thức đàn tràng của Đạo gia vô cùng phong phú, nhưng Thường Sâm không hổ là đệ tử Thục Sơn, hàng loạt nghi thức Hồi Thi Khởi Tử, Phục Ngự Địa Chỉ, Quần Ma Thúc Hình, Quỷ Tinh Diệt Hình, Thúc Phược Ma Linh, Phổ Tảo Bất Tường đều được hắn thực hiện thuần thục như nước chảy mây trôi.
“Tách lửa địa ngục đón nhận vong linh!” Các đệ tử còn lại cùng niệm chú, Thường Sâm đập mạnh pháp trượng trong tay vào nền đất trên đàn tế, biểu thị trên chạm tới Thái Thượng, dưới xuyên qua hoàng tuyền, mời chân quân tứ phương đến tiếp nhận vong linh.
“Đàn tràng này của Thường Sâm pháp lực thật thâm hậu…” Chẳng biết từ bao giờ Tiêu Ánh Hàn đã đi đến bên cạnh Tạ Trường Khanh.
Tạ Trường Khanh hơi gật đầu, mặc dù y vẫn bình thản không nói, nhưng nét mặt đã thoáng hiện vẻ tán thưởng: “Phải, Thường Sâm lên đàn còn nhuần nhuyễn hơn cả huynh đệ chúng ta năm đó, đệ ấy từ nhỏ đã rất có căn cơ, chính là lựa chọn thích hợp nhất của Đạo gia chúng ta”.
Tiêu Ánh Hàn nhẹ nhàng thở dài: “Chẳng lẽ đệ muốn nhường lại vị trí chưởng môn Thục Sơn cho Thường Sâm? Đệ có biết quyết định này sẽ khiến các vị sư tôn suy nghĩ thế nào không?”.
“Trường Khanh sẽ có ăn nói với sư môn!” Chỉ một câu nói ngắn gọn lại khiến Tiêu Ánh Hàn nhìn ra được sự sắc lạnh cùng quyết tuyệt trong đôi mắt người kia. Dưới ánh trăng, con ngươi Tạ Trường Khanh lạnh lùng mà sáng rõ, mang theo quyết tâm không thể lay động.
Người này, mày sắc như gươm, mắt sáng như gươm, anh tuấn như gươm.
Toàn thân y như một thanh gươm sáng tỏa ánh hào quang, tĩnh tại mà sắc bén, như gươm dưới đáy nước, tinh hoa trong đá sỏi. Từ nhỏ, suy nghĩ của y vẫn luôn đơn giản thấu triệt, nhưng chính vì thông thấu không sót một thứ gì, ngược lại không ai đoán được tâm tình cùng suy nghĩ của y.
“Đại sư huynh, đêm hôm trước đệ thấy huynh một mình ra khỏi trấn, đi về hướng núi Hổ Lao.” Tạ Trường Khanh bình tĩnh, như thể lơ đãng hỏi.
Tiêu Ánh Hàn hơi cau mày, nhìn lên khuôn mặt y, cười đáp: “Vậy thì sao?”.
“Không sao!”
“Đệ không hỏi ta ra ngoài làm gì à?”
Tạ Trường Khanh thờ ơ đáp: “Mặc dù Trường Khanh không biết sư huynh làm chuyện gì, nhưng chắc chắn sư huynh biết mình đã ‘làm chuyện gì’, đệ cần gì phải dò hỏi chứ”. Lời này y nói thật trúc trắc, nhưng Tiêu Ánh Hàn tu đạo nhiều năm, lại lớn lên cùng y, tất nhiên hiểu được đạo lý trong đó.
Tiêu Ánh Hàn trầm giọng: “Cũng không có chuyện gì, chỉ là gần đây cõi lòng phiền muộn, ra ngoài đi dạo mà thôi”.
Tạ Trường Khanh “à” một tiếng, cũng không quay đầu lại.
Tiêu Ánh Hàn không nhìn rõ nét mặt y, chỉ thấy dưới ánh đèn mờ mịt, con ngươi sâu thẳm của sư đệ lóe sáng bất định, mừng giận khó phân.
Hai người nhất thời chìm vào yên lặng.
Nói chuyện chẳng chút ăn ý, có một số việc lại không thể diễn tả bằng lời, sư huynh đệ thẳng thắn chân thành ngày đó, năm tháng trôi qua đã trở nên xa cách, để rồi hôm nay tại chỗ này nói ra những lời sắc bén sâu xa.
Sự việc trên thế gian nhìn chung đều là như vậy, thuở nhỏ thanh mai trúc mã vô tư lự, đối xử với nhau bằng trái tim đơn thuần, nhưng đến khi lớn lên, trải qua hồng trần phiền muộn, ai cũng có những nỗi khổ riêng, rốt cuộc không thể tìm lại được tình cảm chân thành ngày trước.
Đúng lúc này, trên tế đàn đột nhiên chập chờn bóng đen, lửa cháy dữ dội, sự cố xảy ra chỉ trong chớp mắt.
Thì ra, Thường Sâm đã dẫn quỷ binh vào trận pháp, mời chân quân tứ phương đến, chỉ đợi nghi thức phá giới kết thúc là có thể hoàn thành siêu độ. Vậy mà thật kỳ lạ, tên quỷ binh được dẫn hồn sau cùng vừa nhìn thấy Cảnh Tiểu Thiên đứng dưới tế đàn, thì đột nhiên phát ra một tiếng rít dài chói tai không rõ là mừng hay giận.
Mặc dù người này đã chết nhiều năm, nhưng sinh tiền công lực thâm hậu, sau khi chết đi lại dựa vào oán khí không tan mà phát ra được thứ âm thanh thực thể, liên miên không dứt.
Tiếng rít khiến cờ xí bay loạn, phần phật không ngừng. Mấy đệ tử công lực không cao dưới đàn tế bị tiếng rít đó làm cho kinh mạch tê rần, trong đầu ong ong, thân thể như muốn nứt ra.
Cảnh Tiểu Thiên cũng cảm thấy hô hấp khó khăn, trong người có luồng khí mạch liên miên không ngớt, chân khí chạy loạn khắp cơ thể. Sau một lát, các đại huyệt trên lưng đều nóng lên, một luồng nội lực thuần hậu chậm rãi truyền vào cơ thể, dẫn chân khí tán loạn trong người trở lại bình thường, cảm giác bồn chồn buồn nôn lập tức biến mất. Cậu quay lại nhìn, thấy Tạ Trường Khanh đứng ở sau lưng mỉm cười với cậu.
Sau khi cất lên một tiếng rít gào thê lương, quỷ ảnh chập chờn ẩn hiện nhìn thẳng vào Cảnh Tiểu Thiên, lệ đổ ào ào.
Mọi người thấy cảnh tượng này quá đỗi quỷ dị, lòng đầy nghi ngờ nhìn về phía Cảnh Tiểu Thiên.
“Đây là sao?” Cảnh Tiểu Thiên cũng hốt hoảng không hiểu.
“Đừng hoảng!” Tạ Trường Khanh sải bước giữ lấy Cảnh Tiểu Thiên, thấp giọng an ủi: “Kẻ đó không thể làm huynh bị thương”. Cảnh Tiểu Thiên cảm giác được ngón tay Tạ Trường Khanh dịu dàng như nước, hơi ấm theo lòng bàn tay chảy vào cơ thể, khiến cậu ấm áp vô hạn, lòng cũng lập tức ổn định trở lại.
Thường Sâm gặp nguy không loạn, thấy biến cố đột ngột xảy ra, biết quỷ binh này tất có mưu cầu. Hắn lập tức cầm một tấm phù chú lên, dán vào mặt quỷ binh đó, quát lớn: “Hiện hình!”.
Dưới ngọn đèn dầu yếu ớt, quỷ binh chập chờn lắc lư rồi dần hiện rõ nguyên hình: Hắn xấp xỉ ngoài ba mươi, thân hình cao lớn mặt mày thô kệch, khoác trên thân áo giáp đồng đỏ, tràn đầy khí thế lẫm liệt hành quân ra trận.
“Thần, Phượng Trác, Định Quốc đại tướng quân, tham kiến Thái tử điện hạ!”
“Phượng… Trác? Phượng Trác là ai? Thái tử là ai? Ngươi đang nói ta sao? Ta là Cảnh Tiểu Thiên, chưởng quỹ tiệm Thuận Phong trong thành Du Châu. Cha ta, cha của cha ta, cha của cha của cha ta… đều làm nghề buôn bán trong thành Du Châu. Ngươi nhận sai người rồi, ta chẳng phải là Thái tử gì hết. Lão huynh, hai chữ ‘Thái tử’ mà kêu lung tung là dễ mất đầu lắm đó.”
Cảnh Tiểu Thiên vừa dứt lời lại cảm thấy có gì đó không đúng: “Ờ phải, ngươi cũng đã chết rồi, đương nhiên không sợ mất đầu lần nữa. Huynh đệ, ngươi nghe theo sự thu xếp của đạo sĩ Thục Sơn mà lên đường đầu thai đi. Nếu để lỡ thời gian thì thật không ổn, sẽ bỏ mất cơ hội vào nhà tốt đấy”.
“Thần Phượng Trác, từ thời Cao Tổ vẫn cống hiến cho nước Hoa Khuyết, lòng trung như một, chết nơi sa trường, sau khi chết không được chôn về cố hương. Thái tử điện hạ cùng thần sinh tiền có quen biết nhau, vì sao bây giờ lại không nhìn nhận vi thần?” Quỷ ảnh khấu đầu vái một vái, ngôn từ vô cùng khẩn khoản.
Nghe đến đó, đám người Thường Sâm liếc mắt nhìn nhau, lòng đều nghĩ: Chẳng lẽ Cảnh Tiểu Thiên kiếp trước thật sự là Thái tử nước Hoa Khuyết nào đó?
Thấy Cảnh Tiểu Thiên cùng mọi người không tin lời mình nói, quỷ tướng Phượng Trác mắt ngấn ánh lệ, giọng nói đột nhiên cao hơn, chỉ sang Tạ Trường Khanh bên cạnh: “Nếu thần không nhận lầm, đây chính là thái phó Lâm Nghiệp Khanh, thụ nghiệp ân sư của Thái tử. Nếu Thái tử tạm thời mất trí nhớ, vậy hãy hỏi Lâm thái phó sẽ biết lời thần nói là thật hay hư”.
Cảnh Tiểu Thiên xoay người nhìn Tạ Trường Khanh, con ngươi lóe sáng, chẳng biết là mừng hay lo.
Thấy mọi người đồng loạt quay ra nhìn mình, Tạ Trường Khanh đột ngột nhắm mắt không nói.
Cảnh Tiểu Thiên cùng y đan chặt mười ngón tay vào nhau, cảm giác được mồ hôi lạnh trong lòng bàn tay đang chảy ròng ròng. Ký ức xa xôi tựa ngọn cờ phấp phới trên đàn tế, như làn khói mỏng lượn lờ xung quanh, những âm thanh tế tụng rì rầm như thủy triều ùn ùn quẩn quanh màng tai họ.
Mấy trăm năm trước.
Đô thành nước Hoa Khuyết bị bao vây, tiếng chém giết dậy trời vây lấy ngôi thành trì ầm ầm đổ sụp, chiến họa phủ đầy thiên địa nhân gian.
“Thái tử có kế sách nào không?”
“Nếu thái phó có kế sách vẹn toàn xin hãy nói ra để mọi người bàn luận.”
“Thần, Phượng Trác, nguyện dẫn tám mươi tử sĩ hi sinh vì nước. Chỉ mong sau khi chết được táng về quê cũ, bằng không chết không nhắm mắt.”
“Sư phụ, người không thể chết được…”
Những đối thoại này như gần như xa, tựa như không thể nghe rõ, lại cứ như văng vẳng bên tai. Không gian bỗng dưng ngập tràn tiếng khóc, ban đầu rất nhỏ rất yếu, dần dần trở nên rõ ràng, trở thành tiếng gào thét thống khổ đau thương, rồi không lâu sau chuyển thành tiếng chém giết dậy trời, thành cổ nước Hoa Khuyết chìm trong biển máu ghê rợn cùng bóng tối vô biên.
Sau cùng, mọi thứ trở về thực tại.
Cảnh Tiểu Thiên trợn mắt đầy hoảng hốt, toàn thân run rẩy đờ ra, không biết bản thân vừa trông thấy ảo ảnh gì. Khi những cảnh tượng thê lương xưa cũ ấy dần biến mất, cậu chỉ cảm thấy trong lòng dâng lên nỗi chua xót khổ sở không sao kiềm chế được, chỉ muốn khóc rống lên mặc kệ bao nhiêu ánh nhìn. Nhưng mọi thứ lại cứ tắc nghẹn ở yết hầu, không cách nào thoát ra được.
Đúng vào lúc này, có đôi bàn tay vững vàng nắm lấy mười ngón tay lạnh lẽo của cậu, giọng nói quen thuộc quanh quẩn bên tai: “Đây đều là những chuyện đã qua, trở thành quá khứ rồi. Hiện tại, huynh là Cảnh Tiểu Thiên, ta là Tạ Trường Khanh”.
“Huynh là Tạ Trường Khanh, ta là Cảnh Tiểu Thiên? Đúng, đúng, không phải vong quốc Thái tử, cũng không phải thụ nghiệp ân sư. Không có tàn sát, không có chiến loạn, không có sinh ly, không có tử biệt, có đúng hay không?” “Đúng!”
“Cái gì bại hoại cương thường, hết thảy đều là nói dối, đúng hay không?”
“…”
Tạ Trường Khanh ngẩn ra, con ngươi phức tạp nhìn Cảnh Tiểu Thiên, nhất thời không biết trả lời ra sao. Hai người bốn mắt nhìn nhau, cảm giác thê lương tràn ngập cõi lòng.
Chẳng biết đã qua bao lâu, Cảnh Tiểu Thiên mới mở miệng đầy khổ sở: “Bỏ đi, trò đùa tiền thế đều là hư vô chẳng ai biết được, không cần bận tâm”.
Tạ Trường Khanh xoay người nhìn Phượng Trác, nghiêm mặt nói: “Phượng tướng quân, mặc kệ ngươi và ta kiếp trước có quen biết hay không, nhưng vong linh các ngươi chết trận, vốn đều là hi sinh cho tổ quốc giữ lấy bình yên trăm họ. Nếu đã xả thân vì nước, hà tất còn ở lại quấy rầy bách tính lương dân?”.
Thấy quỷ tướng Phượng Trác muốn nói lại thôi, Tạ Trường Khanh nhất thời ngộ ra: “Ta biết các ngươi tâm nguyện chưa thành, cho nên oán khí không tan, du đãng nhân gian không chịu siêu độ. Có phải vì các ngươi chưa được quy táng cố hương, xương cốt chôn vùi nơi đồng hoang nên mới…”.
Quỷ tướng Phượng Trác dù sao cũng chỉ là một du hồn, lại vừa gặp được chủ cũ nên tâm tư đầy hỗn loạn, hắn mờ mịt gật đầu: “Thần khổ sở trông mong bao năm, vẫn không thấy Thái tử sai người thu lượm hài cốt, nên chỉ có thể lưu lạc nơi đồng hoang làm dã quỷ cô hồn”.
Cảnh Tiểu Thiên nhịn không được biện hộ: “Không phải ta không chịu, hợ, nhầm, không phải Thái tử Long Hạo không chịu thu lượm di cốt các ngươi, mà là sau khi nước Hoa Khuyết diệt vong, Thái tử Long Hạo cũng tử trận. Thiên hạ thay triều đổi đại, ngươi bảo hắn làm sao an táng được các ngươi? Không bằng như vậy đi, sau này ta sẽ đến thôn Cửu Tuyền tìm kiếm thi hài các ngươi, đem về cố thổ nước Hoa Khyết an táng, cũng coi như hoàn thành tâm nguyện cho các ngươi”.
Phượng Trác nghe vậy, cõi lòng chấn động, ngập tràn cảm giác bi thương, không nhịn được cảm thán: “Vong quốc… vong quốc… nói như vậy Phượng Trác cũng đã thành vong quốc chi thần”.
“Cũng đành vậy, đại thế thiên hạ phân rồi lại hợp, hợp rồi lại phân, hôm nay ngươi làm Hoàng đế, ngày mai ta làm Hoàng đế, cứ đánh qua đánh lại thế đấy. Làm gì có cái gọi là cơ nghiệp muôn đời, đến Tần Thủy Hoàng cũng ngỏm rồi đấy thôi.” Cảnh Tiểu Thiên kiên nhẫn khuyên nhủ: “Ta thấy ngươi trung thành với chủ cũ, quả thật là trang hảo hán đường hoàng, chắc chắn sau này sớm được đầu thai vào nhà tốt”.
“Không đâu!” Thường Sâm giọng điệu trầm khàn, cũng không để ý Cảnh Tiểu Thiên liên tục ngầm nháy mắt ra hiệu mà nghiêm mặt nói: “Ngươi sinh tiền ở chốn chiến trường giết chóc âm khí quá nặng, lại chần chừ không chịu siêu độ, hiện tại đã bỏ lỡ thời gian tốt nhất để đầu thai, chỉ có thể tạm chờ cơ hội khác, xem ta có thể làm đàn tràng siêu độ lần nữa cho ngươi hay không”.
Cảnh Tiểu Thiên vừa nghe vậy, cả tiếng phản đối: “Thường Sâm, không được, ngươi nhất định phải giúp Phượng tướng quân”.
“Thái tử không cần hoảng hốt.” Quỷ tướng Phượng Trác nghe thế lại không hề sợ hãi, trái lại thản nhiên nói: “Nghĩ lại Phượng Trác ta, sinh tiền bảo vệ quốc gia chiến công hiển hách, chết rồi còn sợ gì hình phạt nặng nề. Sinh ra là hào kiệt, chết cũng là quỷ hùng. Không đầu thai được thì thôi, Phượng Trác cùng huynh đệ thủ hạ đã hoàn thành tâm nguyện, sẽ không quấy nhiễu nhân gian nữa. Sau này du đãng trời đất, cũng là tướng quân oai hùng tung hoành khắp chốn, còn sợ cái gì. Nếu như ta nổi hứng, biết đâu còn tập hợp mười vạn quỷ binh, đến điện Diêm La quậy phá một phen…”.
Chúng đệ tử thấy hắn đã trở thành du hồn dã quỷ, nhưng vẫn bừng bừng ý chí chiến đấu, đều không khỏi âm thầm kính phục.
Cảnh Tiểu Thiên thấy Phượng Trác không hề đau thương, cho thấy sinh tiền cũng là hạng người lòng dạ rộng rãi, lập tức cười nói: “Được đó, chỉ sợ Diêm Vương thấy mười vạn đại quân của ngươi đến, cũng sợ đến nỗi thoái vị nhượng quyền luôn”.
Phượng Trác thản nhiên cười, nhìn Tạ Trường Khanh: “Mặc dù thái phó đã chuyển thế làm người, nhưng phong thái vẫn không hề khác xưa. Chuyện xảy ra ở thôn Cửu Tuyền quả thật là hiểu lầm, lúc đó Phượng Trác không có ở đó, bằng không quyết không dám để tướng sĩ thủ hạ đối địch với thái phó. Còn nữa, ngày đó Phượng Trác ở nước Hoa Khuyết đã đắc tội nhiều, mong thái phó rộng lòng tha thứ”.
Tạ Trường Khanh không rõ ý tứ của hắn, nhưng thấy người này ngôn từ khẩn thiết, cũng thản nhiên đáp lại: “Chuyện cũ đã qua, tướng quân không cần để mãi trong lòng”.
“Như vậy là tốt rồi, nhân quỷ khác biệt, không tiện nhiều lời, Phượng Trác xin từ biệt các vị tại đây.”
“Chờ một chút, ta nhớ tại bãi tha ma thôn Cửu Tuyền, hồn phách và oán khí của mấy chục quỷ binh đều bị một làn khói đỏ hấp thụ, tướng quân có biết tung tích những quỷ binh đó, còn cả lai lịch làn khói đỏ ấy hay không?”
Phượng Trác lắc đầu: “Lúc đó thần không ở bãi tha ma, sau này nghe huynh đệ thủ hạ nhắc đến, cũng không ai nhận ra nguyên thần của làn khói đỏ này. Nhưng có quân sĩ may mắn chạy thoát kể lại, làn khói đỏ ác độc ấy tuyệt đối không phải yêu nghiệt tầm thường, nó chưa thành hình đã lợi hại như vậy, lỡ sau này tu luyện thành thực thể chỉ e sẽ làm hại sinh linh. Sau này nếu có gặp phải làn khói đỏ đó, đạo sĩ Thục Sơn các vị nhất định phải cẩn thận đối phó đấy”.
“Tướng quân ở bãi tha ma đã lâu, có biết chân tướng vụ huyết án diệt thôn xảy ra ở thôn Cửu Tuyền hay không?”
“Đúng là thần đã chứng kiến cương thi hoành hành trong thôn Cửu Tuyền, chạy khắp nơi cắn người hút máu, thậm chí quân sĩ dưới trướng thần cũng từng giao đấu với cương thi…”
Đệ tử Thục Sơn nghe được lời ấy, lòng bỗng cảm thấy kỳ lạ, bọn họ biết chuyện đám quỷ binh ở thôn Cửu Tuyền này tuy thỉnh thoảng nhiễu dân, nhưng cũng chưa từng đả thương tính mệnh con người. Vậy mà không ngờ trong vụ huyết án kia, họ lại từng ra tay cứu giúp dân làng. Có lẽ quỷ binh sống ở thôn Cửu Tuyền lâu ngày, đã nảy sinh tình cảm với thôn dân bách tính cũng nên.
“Vốn dĩ những cương thi cấp thấp này không phải đối thủ của chúng thần, nhưng sau đó ngoài thôn lại truyền đến tiếng sáo quái dị, ngay sau đó xuất hiện mấy con cương thi mắt xanh vô cùng ghê gớm, thế là chúng thần chỉ có thể lui về bãi tha ma tự bảo vệ mình.”
“Tiếng sáo?” Cảnh Tiểu Thiên thốt nhỏ một câu, không khỏi liếc mắt nhìn Tạ Trường Khanh, hai người đều nhớ lại chuyện từng xảy ra tại trấn Phục Ma, khi ấy Mị Cơ dùng sáo Sưu Hồn khống chế bách tính, diễn màn kịch Chung Quỳ gả muội. Lẽ nào Mị Cơ có liên quan tới những cương thi này? Có lẽ nào Mị Cơ chính là đầu sỏ đứng đằng sau vụ cương thi làm loạn? Nhưng sáo Sưu Hồn vẫn ở trong người Tiêu Ánh Hàn, vậy thì sáo Sưu Hồn trong tay Mị Cơ từ đâu ra?
“Phượng Trác cáo từ!”
“Bảo trọng!”