• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thủy đạo vùng ven Sài Gòn
  3. Trang 20
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 34
  • Sau

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 34
  • Sau

17Căn cứ lòng dân

H

ậu cần cho căn cứ đồng Bưng Sáu Xã là cả một vấn đề phức tạp. Thời kỳ đầu, dân còn ở khá đông, trong khi căn cứ cách mạng lực lượng không nhiều lắm. Du kích và bộ đội địa phương hầu hết là con em nông dân sở tại, nên việc nuôi quân, tiếp tế không mấy khó khăn, trông cậy hoàn toàn vào dân. Vùng bưng nước ngập, ruộng rẫy mùa màng lúa gạo không được phong phú dư giả gì, dân còn thiếu ăn, bát cơm xẻ nửa, rau củ cá mắm quanh năm, nhưng cũng đủ nuôi quân. Thời gian sau này, càng ngày tình hình chiến sự ngày càng ác liệt, bom đạn ngày đêm, những cuộc càn liên miên, càn muốn trắng đồng, dân không còn được yên mà làm ăn, lớp chết vì bom pháo, lớp bị cưỡng bức vào ấp chiến lược, lớp phải bỏ nhà, bỏ hoang ruộng vườn ra đi, sản xuất lương thực bị đình trệ, vấn đề cung cấp lương thực cho quân gặp rất nhiều khó khăn. Nhất là giai đoạn chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân 1968, số người đông đảo, lực lượng vũ trang phát triển mạnh, ngoài lực lượng bộ đội địa phương và du kích các xã đã khoảng một trung đoàn, còn lực lượng tiểu đoàn 4, đơn vị biệt động, công an vũ trang, cả cán bộ phân khu, kể cả đơn vị quân y... lực lượng đông như thế, con số có đến mấy trung đoàn, quân lấy gì ăn, vấn đề hậu cần là bài toán vô cùng khó khăn. Chưa nói đến đánh giặc, chuyện lo ăn cho từng ấy người cực kỳ vất vả.

Trước đến nay, việc lương thực chủ yếu là đơn vị tự lo, tất nhiên là dựa vào dân dân nuôi, nhưng dân ở đây khó khăn như thế, bom đạn như thế, cũng đói rách nghèo khổ, rau cháo thay cơm, thì quân cũng đói. Nếu chỉ có “gió đông thổi bạt gió tây, đồng bào lại đây có gạo cho xin vài lít” thì bây nhiêu đó của bà con nông dân có bóp mồm bóp miệng bao nhiêu, cũng không đủ nuôi quân, lực lượng đông như thế lấy gì mà ăn. Quân phải có ăn mới chiến đấu được, ăn bằng gì để sống và chiến đấu! Đó là cả bài toán hóc búa, bắt buộc chúng ta phải có những tính toán tinh vi, sáng suốt, dầy kinh nghiệm...

Người chăn vịt

Thấy người nuôi vịt ngày nào cũng kềnh càng chở vào đồng bưng trên xe máy những bao cám, có người còn tỏ ra ái ngại, hỏi thăm:

- Bom đạn vầy mà nuôi vịt mần chi, lỗ sặc máu.

- Của tôi đâu mà lo lỗ, làm mướn cho bà trung tá Hoan thôi.

Trạm kiểm soát chính trên đường vào bưng thường rà soát gắt gao tất cả những gì khả nghi vận chuyển vào đây. Chúng cũng biết “Việt cộng đang có rất nhiều cách thức vận chuyển lương thực vũ khí vào bưng. Mỗi lần qua trạm, những bao cám, lúa của người nuôi vịt là mục tiêu kiểm soát của bọn cảnh sát.

- Bà già kia! Chở gì đây?

- Trấu càng không hà, nuôi vịt cho bà trung tá.

- Bà trung tá nào?

- Bà trung tá Hoan chớ còn ai, các chú không thấy những bầy vịt của bả trong bưng sao! Tui chỉ là người làm mướn cho bả, ngày nào cũng tới đồng trông coi, mang thêm thức ăn nuôi vịt. Đây, tui có mang giấy đây, bả đưa cho để coi chừng mấy anh làm khó.

Đúng là giấy thông hành cấp cho người làm mướn, ra vào vùng bưng nuôi vịt của ngài trung tá. Các bà vợ sĩ quan thường kinh doanh đủ ngón nghề, ở đây là bà vợ trung tá Hoan kinh doanh cả việc nuôi vịt. Những bao thức ăn kia cũng phải trải qua nhiều vòng thử thách, xăm moi, đổ cả bao. Mấy lần như vậy, thấy bao nào cũng toàn trấu càng, cũng là lúa cám...

Mỗi lần kiểm tra, chị người làm không dám kêu ca phàn nàn gì, chỉ thủ thỉ như nói chuyện:

- Tôi có nói với bà trung tá việc này rồi, bả biểu các chú cứ làm phận sự, đó là nhiệm vụ của các chú. Bả còn nói, thương cho các chú vất vả canh gác ngày đêm, nói tôi phải lo cà phê, bà trung tá còn gửi theo ít đồ nhậu đây!

Đến khi đã quen đường quen việc, quen cà phê cà pháo, thông thoáng mọi đường đi nước bước, thì không cần đến cái việc xăm moi kiểm tra gì nữa.

Khi ấy, lẫn trong các bao chở thức ăn cho vịt từ nơi khác xuống bưng, thường có những bao gạo, bao thuốc men, bông băng... chuyển vào bưng cho chiến sĩ, có khi chở vào nhà cơ sở trong ấp. Đêm đêm, các đội vũ trang lại vào ấp lấy lương thực ra bưng.

Dùng “bà trung tá”, dùng giấy tờ hợp lệ, dùng cách dân vận, địch vận, mua chuộc lính, con đường vận chuyển của đội hậu cần vẫn được lưu thông. Người phụ nữ có chiếc Honda chuyên nghề nuôi vịt trong đồng bưng tên Năm Tiền, nhà ngay Rồng Ông Tố xã Bình Trưng, chiếc xe Honda ấy trong bao nhiêu năm như con thoi vận chuyển. Nuôi vịt chỉ là cái cớ, có đến hàng chục hàng trăm tấn lương thực nuôi quân được chiếc xe này chuyển vào bưng trong những năm khói lửa chiến tranh. Âm thầm lặng lẽ với nhiệm vụ, có đến hàng trăm cách thức vận chuyển, không trực tiếp cầm súng đánh giặc, nhưng như anh em nói:

- Chị Năm, chị Năm Tiến và chiếc Honda tiếp tế cho vùng Bưng, không thua đại đội trưởng đâu nghe, không có gạo chị Năm, chúng tôi đói, sao cầm nổi súng.

Người phụ nữ bán dầu dạo, trong thùng dầu hai đáy, có một bọc thuốc nổ. Có khi trong giỏ cá khô có thuốc tây, có đạn. Có lần, chị đã bị bắt quả tang, chúng moi ra từ ruột trái mít ba trái lựu đạn, một bằng chứng không còn đường chối cãi. Người nữ giao liên ấy bị bắt, tất nhiên chị không thể tránh khỏi những đòn tù dã man, nhưng chị cắn răng chịu, không khai ra cơ sở.

Những mất mát hi sinh, những năm tháng tù đày trong nhà lao là những gì người nữ giao liên, người chiến sĩ cách mạng từng trải qua. Biết rằng mỗi lần vận chuyển giao liên, là một lần nguy hiểm, là cái chết cận kề, vẫn có những con người dũng cảm, mạo hiểm, không ngại hi sinh. Hậu cần vào căn cứ nuôi quân gian nan nguy hiểm như thế. Những người phụ nữ Thủ Đức dũng cảm lĩnh nhiệm vụ, chỉ có anh em chiến sĩ chiến đấu trong đồng bưng, những người được các má, các chị, các em nuôi từng bữa từng ngày, biết ơn nhiều, công lao đó lớn lắm.

Anh em trong đồng bưng đói đã mấy ngày không còn gì vào bụng, một lão nông vác cuốc lặn lội, vượt làn đạn pháo vào bưng “làm ruộng”. Trong cán cuốc rỗng ruột kia, đựng đầy gạo. Một em nhỏ với cần câu, giỏ cá vào bưng cắm câu, trong giỏ cá, trong gói mồi kia, có mấy vắt cơm, vào tiếp tế cho chiến sĩ. Dân ta vẫn có trăm phương ngàn kế, như kiến tha mồi, như ong làm mật, cứ thế ngày tháng trường kỳ nuôi quân đánh giặc.

Các trạm lục soát ngày càng kĩ hơn, xăm moi tất cả những hàng hóa vận chuyển ra vùng bưng. Nhưng làm sao kiểm soát hết, rừng có bao nhiêu loại cây ngập mặn, ta có bấy nhiêu kế sách đối phó, có bấy nhiêu cách vận chuyển tiếp tế. Ghe cắm câu ban đêm, cắm tôm khi chạng vạng. Đáy ghe, thả dây cột những bọc hàng quý giá, vũ khí cho chiến sĩ, thuốc men, bông băng cho quân y. Cả những cuộn vải nilon để làm tăng võng, có cả kéo cắt vải, kim chỉ may khâu cho anh em tự tay may mặc. Nghĩa là ta có dân, là có trăm phương ngàn kế vận chuyển vào vùng bưng. Cách mạng lấy dân làm gốc, bởi “dễ một lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Giác ngộ cách mạng trong lòng dân không phải tự dưng nó có, không phải tự nó đẻ ra, mà phải từ con đường vận động giáo dục, dân nhìn nhận cách mạng qua con người cách mạng. Từ nhận thức thực tế, Mỹ ngụy tàn sát dân, đốt nhà, giết người, xé xác trẻ con vứt vào đống lửa, tra tấn cột xác Việt cộng vào dây cho xe kéo chạy đến tan nát hết thân thể? Những việc làm ấy sẽ dẫn tới đâu! Chúng tưởng làm như vậy để trấn át tinh thần người dân theo cách mạng. Ngược lại, tất cả những thực tế trước mắt đã khiến lòng dân căm phẫn. “khổ đau nhiều càng yêu thương lắm”, đó là nguyên nhân dân đi theo cách mạng.

Anh Năm Lý, người chỉ huy du kích, chỉ huy lực lượng vũ trang địa phương quân Thủ Đức, về sau là chỉ huy lực lượng quân sự Cánh Đông Nam. Kết hợp tài tình với anh em du kích, trinh sát diệt ác ôn chỉ điểm, anh là mũi tên đồng trên địa bàn Thủ Đức. Gia đình anh chị Năm Lý, cô con gái đầu tên Súng, mới 12, 13 tuổi đã được cha và các chú “sai bảo” khá được việc. Khi thì ngồi sau xe đạp của cha ôm trái mìn trong giỏ bàng, khi dắt trâu dắt bò có những giỏ cơm, khi gánh rơm vào trong đồng bưng mà hai bên đòn sóc những bó rơm trong có AK, tiểu liên, bọc đạn. Một đứa bé gái “ngây ngô”, dù “cái chúm cau” đã nhô rõ mồn một trên ngực, nhưng vẫn ở trần lội bưng xúc cá, cái giỏ cua cá kia trong toàn là đạn, súng, có khi là cơm... tiếp tế ra bưng. Đúng là cha nào con nấy, cô bé còn chưa biết thế nào là tham gia cách mạng nhưng đã hoạt động như một chiến sĩ tí hon, lì lợm gan dạ “sai” việc gì làm tròn việc ấy, được cha má và các chú khen:

- Con Súng giỏi hết sức, lanh thấy mê! Tự nó bày ra cách ứng phó, qua mặt lính cái một.

Chị Năm Lý là người phụ nữ điển hình cho lòng dân huyện Thủ Đức hướng theo cách mạng, hết lòng hết sức đóng góp công sức hỗ trợ cho anh em chiến sĩ đánh giặc, giúp cho chồng đánh những trận bất ngờ vào bọn bảo an dân vệ trong vùng. Chị là cơ sở chứa vũ khí, vận chuyển vũ khí, là trinh sát và nuôi quân, hoạt động ròng rã hàng chục năm như thế. Lặn lội sống chết với đồng bưng, chắt chiu từng hạt gạo, con tép, nuôi anh em chiến sĩ, nuôi đồng chí đồng đội. Chỉ nghe một tiếng “đói” trong bưng là chị lo lắng còn hơn con nhỏ ở nhà đói cơm. Năm 1969, anh Năm Lý hi sinh lúc chưa đầy bốn chục tuổi, chị một mình với sáu đứa con, mấy đứa lớn đã tham gia du kích, trinh sát tìm điểm đánh, vận chuyển, tiếp tế cho đồng bưng cùng với mẹ, đứa nhỏ coi bò dẫn trâu cũng đã biết trinh sát. Không chỉ lo cho các con, chị Năm Lý vẫn ngày đêm tham gia hoạt động, vẫn như ngày anh Năm còn sống. Năm sáu lần tan hoang cửa nhà vì bom pháo, chỉ chạy quanh vùng Thủ Đức, lại dựng nhà dựng chòi, mẹ con vẫn tiếp tục hoạt động. Gia đình chị Năm Lý là cơ sở, là “dân” cho chiến sĩ trong vùng bưng “bám” chặt.

Hồi thì anh Năm Lý “sai bảo”, lúc thì anh Chín Trí cánh biệt động “chỉ huy”, khi thì anh Sáu Phụ, Bí thư Huyện đoàn, hồi thì anh Mười Minh bên Tuyên huấn huyện điều khiển, chị Năm Lý và cô Súng cùng các em từ lâu đã thành một tiểu đội hoạt động du kích như những con thoi, đào hầm bí mật, tổ chức đấu tranh cho các xí nghiệp, trong các nhà máy Visibasa, Dệt Phước Long, Dệt Phong Phú, hãng Tô Châu... Vũ khí trên đã bí mật về tới cơ sở ở bến Bà Cả Bảy. Từ bến, vũ khí dần dần được gánh gồng mang vác vận chuyển về hầm đã đào sẵn ở nhà hoặc cơ sở trong hãng xưởng.

Gia đình chị Năm Lý là hiện thân cho người dân bất khuất kiên cường trên mảnh đất Thủ Đức, đất nuôi người, người bám đất, sống chết với đồng bưng. Cho đến ngày nay, 40 năm sau cuộc chiến, mẹ con chị Năm Lý vẫn là những người dân Nam Bộ chân chất nguyên sơ, hiền lành. Hai mẹ con chị Năm Lý đón anh Chín Trí, anh Tám Trăm, bạn chiến đấu của anh Năm Lý, những mái đầu bạc, chị em đã ở tuổi xấp xỉ 80, thân thiết như người ruột thịt.

Trên Quân khu có tiền, vàng, có cả đô la Mỹ. Hồi đó quyên góp từ dân hay ở đâu ra, không ai biết.

Con đường chuyển ngân của chúng ta, không thể nói hết được những cách vận chuyển thiên biến vạn hóa, thường có khi từ ngân hàng một số nước, chuyển về ngân hàng Việt Nam Cộng hòa, tới tay người có chức sắc trong chính quyền rồi mới chuyển tới cơ sở, chuyển ra Căn cứ. Cũng có khi mạo hiểm lênh đênh trên những con tàu hai đáy đánh bắt cá, buôn bán hợp pháp trên biển Đông. Dưới đáy bí mật kia là những bao đạn, còn có từng “cục” đô la được chia nhỏ nhét trong khe đáy, từng hộp vàng trét nhớt cặn đặt dưới máy tàu. Ta có cả những xưởng đóng tàu trá hình, chuyên đóng tàu đánh cá hai đáy, bí mật vận chuyển vũ khí, vàng và đô la. Vàng và đô la ta mua từ Hồng Kông, chở vào Miền Nam xây dựng cơ sở. Đã có câu chuyện một chuyến tàu hai đáy đánh cá, do ông Phan Văn Nhờ(1) thuyền trưởng, xuất phát từ cảng Vạn Hoa, một cảng đảo phía bắc Vịnh Bắc Bộ, vào đến ngang bờ biển Vũng Tàu, đáy tàu bị xối nước, thủy thủ Thôi Văn Nam xé cả mùng mền nhồi trét xảm tàu, đáy tàu vẫn xối nước, phải bơi ra ngoài nhồi trét khe hở. Ông Sáu Dân còn nói vui: Tàu mà chìm, người còn bơi được chứ đô la và vàng nó không biết bơi đâu nghe mấy chú!..

(1) Tư Mao

Chuyện một tiệm vàng lớn giữa thành phố, chính tay chị Năm Lai vợ Mai Hồng Quế dát vàng mỏng, cuộn làm nhân bánh tét, chuyển một lúc 800 cây vàng ra căn cứ ở Tây Ninh cho ông Tư Chu, thủ trưởng Biệt động Sài Gòn. Đô la từng cục, có lúc hàng chục ngàn đô nhét trong bọc cá khô, nhận trong hũ nước mắm của bà bán hàng rong lên căn cứ.

Tiền, vàng, đô la ấy xây dựng cả xưởng đóng tàu đánh bắt cá, lập tiệm vàng, mở tiệm thuốc tây, phát triển vựa gạo, tiệm vải, biến thành “kho” hậu cần của ta ngay trong lòng thành phố; rồi lại trăm phương ngàn kế, hậu cần của ta vận chuyển ra chiến trường, bằng những xe tải hai bửng, xe vải, xe bột mì xe gạo buôn bán công khai dưới danh của các “bà trung tá”, các “nhà buôn” giầu có nổi tiếng Sài Gòn, vẫn ra ra vào vào thành phố và vùng căn cứ, bán mua “công khai”, thậm chí dùng cả xe cảnh sát chở hàng ra chiến khu cho ta. Mạng lưới lòng dân như thế, mỗi người dân là một chiến sĩ gan dạ dũng cảm như thế. Hậu cần của chúng ta như những tổ mối ngay giữa bãi gỗ ẩm, cứ âm thầm âm ỷ hoạt động tràn lan như thế, trước sau mau chậm gì chúng ta cũng chiến thắng.