R
ời địa đạo Củ chi, Chín Trí (lúc này còn mang tên cúng cơm là Chín Thức) cùng hai cán bộ Tám Năng và Ba Tài với gần ba chục chiến sĩ, được lệnh của đồng chí Tư Qùy, (tên thật là Nguyễn Ngọc Lộc) Chủ nhiệm Chánh trị Quân Khu Sài Gòn - Gia Định, đi xuống địa bàn Thủ Đức - Nhà Bè; Cánh Đông Nam đang gặp rất nhiều khó khăn, để củng cố và xây dựng lực lượng biệt động.
Trong tâm tưởng người chiến sĩ, anh chỉ nghĩ đến nhiệm vụ, “đâu có giặc là ta cứ đi”, hoàn thành nhiệm vụ được cấp trên phân công. Cách đây hơn ba năm (khoảng cuối năm 1962), chiến sĩ Chín Trí đã một lần lãnh nhiệm vụ dẫn một đoàn người xuống miền hạ lưu sông Đồng Nai, hình thức là đoàn người “khai hoang trồng mỳ, trồng bắp”, nhưng chính là những du kích và thanh niên xung phong huyện Củ Chi, bí mật xuống vùng cửa sông, xây dựng đường dây vận chuyển vũ khí từ Rừng Sác lên Long Thành. Nhiệm vụ cực kì gian khổ khó khăn, nhưng “đội sản xuất” do Chín Trí chỉ huy đã khắc phục tất cả để hoàn thành nhiệm vụ.
Lần này, hành quân dọc triền sông Sài Gòn xuống miền hạ lưu, đây là lần thứ hai đi xuống Cánh Đông Nam, Chín Trí mang theo bên mình chiếc khăn tay nho nhỏ, ướp cánh hoa ngọc lan thơm dịu, đó là niềm vui riêng của anh, vật kỉ niệm mà mỗi lần sờ nó, nghĩ về nó, anh lại thấy sung sướng ấm áp rạo rực đến tận đáy con tim. Chiếc khăn tay của Thu! Dù đã hai sáu tuổi, cái tuổi mà thanh niên thời ấy thường yên bề gia thất. Nhưng vừa lớn lên, Chín Trí đã lặn lội hết mặt trận này đến chiến trận khác, hết Long An đến Củ Chi, Tây Ninh... lại thêm máu nhát gái, nên mãi chưa có mảnh tình vắt vai. Mấy năm gần đây, duyên may đã cho anh làm quen với cô y tá ở Củ Chi. Gần ba năm tỏ ý đưa tình mà tận đến hôm chia tay nhau, mới được nắm chưa hết một ngón tay nàng. Đánh trận thì hăng ghê, nhưng với phụ nữ thì nhát như thỏ đế. Cô nàng kia mạnh dạn hơn nhiều, gởi gắm tất cả tình yêu thương hứa hẹn chờ đợi, thêu vào dòng chữ trên chiếc khăn dúi vội vào tay anh.
Đường xuống Thủ Đức chỉ gần trăm cây số, nhưng vì hành quân bí mật, phải né tránh lộ lớn, bốt gác của địch giăng khắp nơi, phải đi vòng vèo mất cả tháng trời. Báo hại dọc đường, bọc tiền 500.000đ cấp trên giao cho Chín Trí bó bên người, mang theo về xây dựng cơ sở biệt động Cánh Đông Nam, đi đường đụng B52 rải thảm, Chín Trí không sao nhưng bọc tiền văng ra, bị sức ép bom đánh cho bay tung tá lả trắng rừng, anh em chỉ vơ lại được chút ít. Lần đầu tiên thấy B52 Mỹ rải thảm bom xuống Miền Nam Việt Nam. Bom từ trên trời rớt xuống dày như mưa, dưới mặt đất con người chỉ còn biết chịu trận, bom trúng là chết, bom trật may ra sống, lúc đó không có một thứ vũ khí nào có thể đương đầu chống trả B52 và bom Mỹ. Mấy hôm sau nữa, đoàn vừa tới Phước Long, đụng ngay trận càn của liên quân Mỹ ngụy, lại cùng địa phương quân quần nhau với địch một trận tơi tả. Du kích là quân ngay thổ địa, đã quen hầm hào luồn lách trú ẩn, người mới tới ẩn nấp khơi khơi, chiến đấu chống trả thiếu công sự. Cuối ngày hôm ấy, có ba cán bộ trong đoàn, thì Tám Năng và Ba Tài chưa kịp đi đến đích đã hi sinh, chỉ còn mình Chín Trí, cùng mấy chiến sĩ sống sót, tiếp tục lần tìm xuống căn cứ vùng Bưng Sáu Xã Thủ Đức.
Đây là vùng đồng lầy khu vực hạ lưu sông Đồng Nai, và sông Sài Gòn. Vùng sa bồi đang còn ảnh hưởng của nước thủy triều, kinh rạch chằng chịt, cây cối xanh tốt, dừa nước, cỏ lác sú, bần vẹt, ô rô mọc thành rừng. Trên miền Củ Chi - Hóc Môn cao hơn, có thềm đất là chân cao nguyên nên rắn chắc lợi thế biết bao nhiêu, tha hồ đào hầm trú bom, lập địa đạo trong lòng đất đi lại liên thôn liên xã; còn ở đây là miền của nước, của đất sa bồi, mà lại bồi chưa xong, sình chưa chắc, hầu hết còn là rừng đầm lầy chưa khai phá. Con người trú ẩn vận động lội nước sình, băng mình trong nước, đường liên xã liên thôn chỉ lội, đầm mình trong cụm cỏ lùm cây. Có thể gọi đây là miền thủy đạo, là căn cứ cách mạng nằm sát nách Sài Gòn, theo đường chim bay chỉ cách cỡ chục cây số.
Vùng Bưng Sáu Xã Thủ Đức, nơi đây có địa hình lòng chảo, cao ở phía tây, gò ở phía nam, bao lấy một vùng đồng trũng rộng mênh mông ăn ra biền kinh biền sông. Gồm những xã Tân Nhơn Phú, Phước Long, An Phú, Phú Hữu, Long Trường, Long Thạnh Mỹ. Vùng bưng sình lầy với kinh rạch mặt nước lờ lờ nặng trĩu phù sa, rừng cây um tùm xanh tốt đang níu giữ vuốt ve nguồn dinh dưỡng trong nước kia, hay lắng đọng bồi đắp, đừng vội trôi ra biển nước ơi! Năm này năm khác hàng ngàn năm nhịp điệu phù sa bồi đắp, rừng bám sình sinh sôi, dân bám rừng để sống, kinh rạch chằng chịt liên hoàn. Đi lại di chuyển lội sình nước, chỉ có xuồng ghe là phương tiện duy nhất, thiên nhiên và con người ở đây bám vào nhau, sống với nhau bao đời như thế, mộc mạc nguyên sơ. Nhưng nào cuộc sống có bình yên theo nhịp trong con nước lớn ròng, nơi đây đã một thời: Máu đỏ nước bưng, máu của người dân, của chiến sĩ ta sau mỗi trận pháo bom và cả máu của quân thù sau mỗi trận chiến đấu sục sôi khói lửa.
Cánh Đông Nam Thành phố, là cửa ngõ phía đông Sài Gòn, ngay từ đầu năm 1965 khi quân Mỹ ào ạt đổ vào miền Nam Việt Nam, các căn cứ quân sự của Mỹ, ngụy đã được xây dựng hàng loạt, đang nở phình khắp vùng Thủ Đức, Quận 9, Long Thành, Long Bình; vừa chốt giữ, vừa là căn cứ hậu cần, nơi đóng quân, nơi xuất phát quân càn quét vùng căn cứ cách mạng miền Đông Nam Bộ.
Nhận lệnh của Trung ương Cục miền Nam, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã có chỉ thị cho Quân khu Sài Gòn - Gia Định, hãy “bám thắt lưng Mỹ mà đánh”. Quân khu đưa đồng chí Ngọc Lộc (Tư Qùy) xuống mặt trận Cánh Đông Nam, xuống sát nách Mỹ để “bám thắt lưng”. Anh Tư Quỳ xin Quân khu cho Chín Trí xuống vùng bưng giúp một tay, về xây dựng lực lượng biệt động.