• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thủy đạo vùng ven Sài Gòn
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 34
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 34
  • Sau

2Đốn lá phá lùm

T

rước đây, từ cuộc kháng chiến chống Pháp, vùng bưng Thủ Đức - Quận 9 đã là căn cứ cách mạng. Cù lao Long Phước từng có tên: Chiến khu A. Truyền thống đấu tranh ấy đến nay càng lớn mạnh hơn. Nhân dân, du kích và địa phương quân Phân khu Cánh Đông Nam, bao gồm Thủ Đức, Quận 9, Nhà Bè, và một phần Long Thành, Rừng Sác, đã có những hoạt động liên tục đánh địch, từ lẻ tẻ, trừ khử ác ôn, tay sai chỉ điểm, đến cắm chông, gài mìn phá cầu, chống địch càn, phá ấp chiến lược. Đồng bào vùng này tuy nghèo, cuộc sống khó khăn, gạo nước vô cùng thiếu thốn nhưng bát cơm xẻ nửa, gáo nước chia đôi, thắm tình thắm nghĩa nuôi quân như nuôi người thân gia đình. Căn cứ trong rừng Thủ Đức những năm sáu tư, sáu lăm, đã từng là nơi cất dấu vũ khí cung cấp cho biệt động Sài Gòn. Đây là nơi xuất phát của những “Hùm Xám Thủ Đức” Tư Việt, Tư Tăng, của các chiến sĩ biệt động đội 66, trong nhiều trận đánh kinh thiên động địa vào nội đô Sài Gòn. Tháng 3 - 1965, “Hùm Xám Thủ Đức” Lê Văn Việt vừa tham gia trận đánh sập tòa Đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi. Từ khi quân Mỹ đổ vào nhiều, Mỹ chọn nơi đây để xây dựng những căn cứ quân sự. Cánh Đông Nam vừa là bãi đậu quân, căn cứ hậu cần của Mỹ ngụy, vừa là cửa ngõ phía đông, hàng rào chắc chắn bảo vệ đô thành Sài Gòn.

Vậy là trong toàn vùng Cánh Đông Nam Sài Gòn, nơi nào đất cao khô, bãi đất gò nổi, nơi ngon lành đều là điểm đóng quân chốt giữ của Mỹ ngụy. Chỉ còn vùng đầm lầy cỏ lác rừng cây biền lạch trong cánh đồng bưng và kinh rạch ven sông là nơi chúng chưa kiểm soát hết. Quân cách mạng của ta ở nơi đó.

Từ đầu năm 1965, quân chủ lực Sài Gòn đã nhiều lần tới đây “dọn dẹp” vùng căn cứ cách mạng. Cả Sư đoàn 18 ngụy lùa hết quân xuống vùng bưng, chúng dùng biện pháp “đốn lá phá lùm”, quyết biến nơi đây thành vùng trắng, phá hết lùm cây, đốn hết lá cho “lòi Việt cộng”. Từng đoàn lính Sư đoàn 18 từ tàu thủy đổ quân xuống bưng, dùng dao rựa lội bì bõm phạt lá đốn cây. Hai bên biền kinh, lá cành nghiêng ngả, nằm rạp rồi khô héo, chúng chất lá khô đốt cháy. Nhưng “đốn lá phá lùm” vùng này thì có khác gì “đấm bịch bông”, đấm chỗ nọ nó phồng chỗ kia. Với khí hậu nắng nhiều mưa lắm, cái xứ sở nhiệt đới gió mùa trời cho, cây cối thoắt cái đã mọc lên như rừng. Một cành ngả xuống có mười cành mọc lên, một cây gục ngã có hàng chục cây khác nhoi sình chen nhau chui lên, chỉ vài ngày sau lại xanh ngời xum xuê.

Báo hại, lính Sư đoàn 18 vào đốn lá phá lùm còn chịu trận, đạp chông, vướng mìn, đụng trái, bị du kích bắn tỉa, chết nhiều vô số. Tức khí, chúng vô ấp chiến lược bắt dân, lùa cả dân xuống đốn lá. Vừa thêm tay đốn, vừa dùng dân làm bình phong che chắn tránh Việt cộng gài mìn cài chông bắn tỉa. Chúng biết Việt cộng không diệt dân, dùng cách này, ‘‘một công đôi việc”. Quả nhiên việc đốn lá phá lùm có khá hơn. Du kích bị hạn chế rất nhiều trong chiến thuật đánh tỉa. Có những điểm, biết sớm mai có dân cùng vào đốn, anh em phải lặn lội gỡ mìn, dời chông. Nhưng không chịu bó tay, du kích vẫn “thua keo này, bày keo khác”, đủ các keo gây cho địch nhiều thiệt hại. Quân ta ra sức tuyên truyền vận động dân, cứ đêm đến là ta bò vào từng nhà, giáo dục bà con không nghe theo, nếu bị bắt mà không trốn tránh được thì cứ đi đốn, nhưng đốn qua loa, cầm chừng, đến khi nghe tiếng súng nổ là chạy ngay, bỏ chạy nhanh càng xa càng tốt. Chạy theo hướng nào để tránh bàn chông, tránh mìn gài, chạy xa để cho du kích còn đánh địch. Nhiều lần vào đốn chẳng được bao nhiêu lá, lại còn bị ăn đòn đậm của Việt cộng, lính sư đoàn 18 thiệt hại quân số, lính chết bằng đủ mọi cách.

Đến Bưng Sáu Xã, làm quen địa hình địa vật, Chín Trí được anh Tư Quỳ lúc đó vừa về làm Bí thư Phân khu Cánh Đông Nam, giao nhiệm vụ làm đội trưởng Đội Biệt động Cánh Đông Nam. Đội Biệt động 66 trên địa bàn Thủ Đức - Quận 9 lúc này đã được chia làm hai cánh, một cánh hoạt động ở bắc Thủ Đức, Long Thành. Một bộ phận hoạt động ở Cánh nam Thủ Đức được giao cho Chín Trí, bổ sung anh Hai Bông là cán bộ cũ, với ba chiến sĩ đầy kinh nghiệm chiến trận vùng bưng là Bảy Hát, Đại và Minh vào ban chỉ huy đội, hình thành bộ khung đầu tiên của đội biệt động, lấy Bưng Sáu Xã làm căn cứ ẩn náu, dựa vào dân, dân nuôi. Chỉ huy đội, phải có nhiệm vụ gây dựng lực lượng, cho phát triển quân số, tự tìm địch mà đánh, nghĩ ra cách mà đánh, đánh những đòn bất ngờ, đánh không cho chúng yên thân, “bám thắt lưng Mỹ” mà đánh, nhằm tiêu hao ngay tại ổ lực lượng quân và hậu cần Mỹ ngụy tại vùng đông nam Sài Gòn.

Trước đây, dân bị chúng dồn vào ấp chiến lược nhằm mục đích ngăn cách dân với cán bộ cách mạng. Đội Biệt động Chín Trí vừa làm quen với vùng bưng là bám dân liền, ngày ra bưng trú ẩn, đêm vào ấp chiến lược hoạt động xây dựng căn cứ ngay trong lòng dân. Quân đội chỉ được cấp một ít vũ khí, ngoài ra không có gì, cả quân trang đến hạt gạo, tất cả nhờ vào dân nuôi. Hồi đầu khi mới làm quen, mỗi lần gặp dân là tìm mọi cách dân vận, vận động, khi kết thúc cuộc gặp gỡ, Chín Trí lại nở nụ cười xã giao, nhìn các bà các mẹ các chị tha thiết, cười nói có vần điệu:

- Các dì các chị ơi!.. Gió đông thổi bạt gió tây, đồng bào lại đây có gạo cho xin vài lít..!

Thế là các mẹ các chị nhà có gì mang cho nấy, có nhà chỉ còn vài lon gạo ăn cháo cầm hơi, cũng mang vò gạo nhỏ ra trút hơn phân nửa cho các chiến sĩ. Có má lột chiếc khăn trên đầu quàng cổ cho các anh. Sau này quen rồi, cứ thấy các anh, thấy mặt Chín Trí không phải xin, dân tự động mang gạo ra cho. Dân ở đây một lòng xẻ cơm nhường áo nuôi quân. Vì vậy mà việc phát triển lực lượng gặp nhiều thuận lợi, số người bổ xung vào đơn vị ngày càng nhiều lên. Mới về được hai tháng, lực lượng biệt động đã có trên ba chục chiến sĩ. Anh em đồng chí chỉ bảo nhau, đào tạo ngay tại đồng bưng, sử dụng vũ khí, kinh nghiệm mặt trận đông - tây truyền lại cho nhau. Du kích là dân, biệt động cũng là nông dân cày cuốc, thân thiết như anh em trong gia đình.

Đội Biệt động Cánh Đông Nam cùng với du kích, địa phương quân lao ngay vào chiến dịch chống “đốn lá phá lùm” của địch.

Trên địa bàn Cánh Đông Nam, từng tiểu đoàn liên quân Mỹ ngụy chốt giữ những điểm thiết yếu, xây dựng vành đai thép án ngữ, bảo vệ cửa ngõ Sài Gòn. Đến lúc này, người Mỹ và chính quyền Cộng hòa đều tự mãn, họ cho rằng, những đám Việt cộng ẩn nấp trong vùng sình lầy kia sẽ dễ dàng bị đè bẹp.

Nhưng, quân cách mạng vẫn đang ẩn hiện trong đồng bưng, vẫn âm ỉ như những tổ mối nằm bên cạnh đống gỗ ẩm ướt, vẫn thường xuyên quấy rối. Căn cứ cách mạng như cái gai ngay bên nách, nhức nhối, mà cái gai kia không dễ dàng nhổ. Địa phương quân, đội biệt động và quân du kích các xã suốt cả tháng trời quần nhau với “quân đốn lá”. Suốt cả tháng 5, tháng 6 năm 1965, ngày nào cũng có tiếng súng bắn tỉa, tiếng nổ của lựu đạn gài. Biệt động Cánh Đông Nam của Chín Trí nhập cuộc ngay, chỉ huy và chiến sĩ vừa vào trận, vừa rút kinh nghiệm, vừa nghĩ ra cách đánh, sáng tạo kết hợp kinh nghiệm gài trái, bắn tỉa, cài chông, vào trận nhanh nhẹn như những con thoi. Có ngày tiếng nổ của quân ta vang rền rã ở khắp mọi nơi, tiếng nổ của lựu đạn gài, bắn tỉa.

Trận lớn nhất vào ngày 8 - 6. Không chỉ là bắn tỉa gài trái nữa mà ta đánh tàu. Ba tàu địch nghênh ngang từ sông Sài Gòn tiến vào sông Rạch Chiếc. Trên tàu chở đông nghẹt lính tráng Sư đoàn 18 ngụy, mang súng ống dao rựa vào vùng bưng đốn lá phá lùm. Một điểm phục kích ven sông Rạch Chiếc gần cửa kinh Ông Thoàng, đội biệt động đã phục sẵn. Vũ khí đã được công binh kết hợp.

Thật khó tin lúc đó quân ta đã chế ra loại thủy lôi đánh tàu thủy. Nói là thủy lôi cho oai thôi, “Công trường”, nơi tự chế tạo vũ khí của ta, nhồi thuốc nổ thành từng bánh, thuốc nổ có khi là thuốc thứ thiệt TNT, có thêm chút C4, có khi là thuốc nổ moi từ ruột trái bom lép. Gọi là mìn đánh dưới nước thì đúng hơn nhưng ta cứ gọi là “thủy lôi”. Khối mìn cột chặt vào trong cái thùng, gắn kíp nổ, thòng cột vào dây kẽm giăng ngầm ngang dòng kinh cách mặt nước chừng vài tấc. Trái thủy lôi nằm lập lờ trong nước theo sự tính toán rất kinh nghiệm, chờ khi nào tàu địch tới đúng điểm, ta chập dây kíp nổ. Trái nổ có khi 10kg, có khi lớn hơn, sức nổ đủ phá chìm tàu địch. Trên bờ đã bố trí AK và một số thủ pháo ném, thủ pháo ném cũng tự chế, cỡ 700 gam thuốc nổ một trái, to bằng cái ly nước.

Tất cả đang ẩn mình trong công sự ven sông chờ lệnh. Lúc đó là 8 giờ sáng, ba con tàu lừng lững chở trên mình đầy lính, tua tủa những súng dao, tiến vào đến trước điểm mai phục, chúng không ngờ hôm nay đang có thần chết nghênh tiếp.

Nghe tiếng hô đanh gọn của đội trưởng, thủy lôi nhận lệnh đầu tiên, Chiến sĩ Trần Văn Nù căn đúng khoảng khắc chập dây. Ba trái thủy lôi đã sẵn sàng. Tiếng nổ bùm… chừng mấy giây sau lại bùm… lại bùm… giòn giã, nước tung thành cột lớn, khói lửa dữ dội. Chiến sĩ Nù lăn lộn với chập dây, sức ép của “thủy lôi” đã khiến anh bất tỉnh trong khói lửa mù mịt, nhưng vẫn còn sống, để tiếp tục chiến đấu. (Sau này Trần Văn Nù đã trở thành chiến sĩ xuất sắc, được đi dự hội nghị thi đua toàn quân, sau đó đã anh dũng hi sinh trong một trận chiến đấu).

Ba con tàu chở lính trúng thủy lôi nổ tung, cả tàu cả người bay lật. Đồng thời ngay lúc đó, tiếng AK, tiếng thủ pháo ném chối chát chĩa ra mục tiêu, hỏa lực ta ào ạt, tiêu diệt những tên địch còn ngoi ngóp sống sót sau tiếng thủy lôi nổ phá tàu. Kết quả trận đánh thắng lợi thật bất ngờ, trên 90 tên địch trên ba tàu kia, lớp tan xác nổ tung cùng tàu, lớp chìm, lớp bị thương cũng chìm, lớp trúng đạn, trúng thủ pháo ném cũng chìm, bỏ xác dưới dòng kênh, máu đỏ loang hòa cùng nước bưng. “Thủy lôi” tự chế của ta đánh hay như thế, đội quân trong thủy đạo, đội quân không quân phục mà sáng tạo, mà dũng cảm tuyệt vời như thế.

Kế hoạch “đốn lá phá lùm” của địch đến đây thấy im re lặng lẽ. Đốn đã không ăn nhằm gì mà còn bị thiệt hại con số đáng kể. Đúng là “đấm bịch bông”. Những ngày sau đó không thấy chúng vào đốn nữa, đành bỏ cuộc, coi như chịu thất bại.