• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thủy đạo vùng ven Sài Gòn
  3. Trang 7

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 34
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 34
  • Sau

4Cái túi bom

P

hía địch biết rất rõ dưới những tán dừa nước xanh um trong vùng đồng bưng kia là những người dân theo cách mạng, nuôi cách mạng, là căn cứ của Việt cộng đang trú ẩn, là nơi xuất phát của cộng quân, đêm đến bò ra đánh những trận kinh thiên động địa vào các căn cứ, vào cả nội đô Sài Gòn. Nên ngay từ khi quân Mỹ ào ạt đổ bộ vào Miền Nam Việt Nam, kèm theo các loại vũ khí hiện đại, số lượng vũ khí nhiều vô kể, Mỹ quyết lấy vùng căn cứ này làm nơi thử nghiệm chức năng của các loại vũ khí Mỹ một cách hữu hiệu nhất, sử dụng đồng bưng là cái bia tự do bắn phá, để đạt mục đích nhổ cái căn cứ Việt cộng ngay sát nách Sài Gòn.

Đồng bưng quặn mình chịu trận, hứng chịu cảnh vũ khí Mỹ thể hiện sức mạnh không gì có thể đối chọi lại. Ngày ngày, bom pháo Mỹ dội về từng bầy, bom pháo quyết đánh cho nhồi đất thành sình, nhồi sình thành nước, người trong nước chết nhiều lắm, cái chết đến chỉ trong chớp mắt. Có ngày bom pháo dội xuống đây dày như vãi trấu. Pháo bầy pháo lũ, pháo chụp, pháo bắn theo giờ, bom định kỳ, bom trộm bom chờ nổ (nổ chậm), bom đợt bom càn, Mỹ không thiếu gì bom pháo mà không vãi dày xuống vùng căn cứ cách mạng nơi đây. Thậm chí máy bay đi oanh kích các mặt trận khác khi về ngang, còn trái bom nào cũng trút hết xuống vùng bưng rồi mới về sân bay hạ cánh. Các quân trường, sĩ quan ngụy quanh vùng Thủ Đức, còn lấy đồng bưng làm bia tập bắn pháo. Nhân dân vùng ven gọi đây là cái túi bom.

Loại máy bay phản lực mỗi lần mang bom đến đây là một lần gây khiếp vía kinh hồn cho mặt đất. Tiếng nổ long trời lở đất của bom, rồi mới nghe tiếng rít xé rách bầu trời của máy bay ào qua. Nghĩa là máy bay siêu tốc, bay nhanh hơn tiếng động. Máy bay phản lực F105 mang bom rất lớn, ta gọi là bom đìa vì bom găm xuống sình sâu hàng chục mét, nổ là thành ngay một cái đìa lớn rộng cỡ hàng chục mét. Nếu là mặt đất cứng, chắc nơi đây hố bom sẽ như tổ ong, dày hơn cái rổ; nhưng vì là đồng lầy, nên bùn sình nước lại khỏa lấp bớt đi hố bom sau vài con nước lớn ròng.

Bom nổ, cây cối bay gốc trốc rễ nghiêng ngả. Nhưng mỗi quả bom cũng chỉ hại được một vài gốc cây. Không thấy loại cây nào bám đất chặt như dừa nước đước vẹt bần mắm nơi đây. Bom pháo dù có lật gốc lên thì gốc chỉ nghiêng nghiêng, vẫn cố bám đất, lá có xơ cành vẫn vươn lên trời, mấy ngày sau đã hồi sinh, lại vươn cành đón ánh thái dương, lại xanh tốt um tùm, chỉ như vừa chịu một cơn gió mạnh thổi qua, cây gãy cành nghiêng ngả lại đứng vững vươn cao như thách thức. Còn con người ở đây thì sao! Bom pháo rơi trật thì sống, bom pháo dội trúng người thì chết, tránh sao được mất mát hi sinh, không hầm hào mà chỉ có sình và nước. Nhưng không nhẽ bom pháo giết chết hết người ở đây sao! Không chết hết được, con người ở đây có kinh nghiệm né tránh. Trong làn mưa pháo, họ dầm mình bám vào gốc dừa tránh bom tránh pháo, gốc cây rễ dừa che chắn cho họ. Có những kỳ, hàng đêm bom dội về liên hồi từ tối tới sáng. Có đợt cách một giờ pháo bay về từng bầy, nghỉ một tiếng sau pháo dội bầy tiếp. Chuẩn bị cho một trận càn, pháo lên tiếng làm việc dọn dẹp trước, pháo từ bốn phương tám hướng chĩa về đồng bưng thả sức trút. Pháo từ Thủ Đức bắn qua, từ Hãng Lọc Nước hướng vào, từ Cát Lái bắn tới, từ căn cứ Long Trường, Liên Trường bắn sang, từ Tân Cảng bắn lên. Trường Võ bị Thủ Đức còn coi vùng bưng như là một cái bia bắn tập cho pháo. Pháo bom dầy như thế, cây cối dù có tróc rễ nghiêng ngả xơ xác cành, vẫn bám đất hồi sinh. Pháo bom dầy như thế, máu xương da thịt tránh sao khỏi. Con người có hồi sinh như cây cỏ được không!.. Người chết nhiều lắm. Củ Chi còn có hầm hào để tránh, còn ở đây, vùng bưng nắng mưa ngay đầu, bom đạn trút xuống không chỗ chui. Con người sống tính giờ tính phút, đùng một phát đã chết, oàng một cái đã lìa đời. Ban ngày máy bay quần vẹt sát lá, một khi địch phát hiện có “Việt cộng” chúng quày ngang, sục dọc, vạch vòi, bắn đạn hỏa tiễn đạn nhọn xuống liên hồi “bụp bụp”. Chiến sĩ ta tản lặn xuống đìa mất hết dấu tích. Máy bay bay khỏi, nghe hết bụp bụp lại ngoi lên thở. Nó quần trở lại, lặn nữa, đạn bụp trúng là không còn ngoi lên nữa. Cứ thế suốt ngày như những cuộc chơi ú tìm chết người. Chiến sĩ ta sợ nhất là lúc nước ròng, lội xuống kinh rạch, nước ròng khuấy đục, chúng từ trên máy bay, nhìn nước đục là phát hiện ra có người ẩn náu, liền xả đạn xuống như mưa rào. Tránh sao khỏi cho những con người đang lặn dưới nước, bám gốc dừa nín thở. Máu người dân và chiến sĩ ta từng hòa đỏ nước bưng sau mỗi trận mưa pháo kích, mưa bom. Một đêm không biết mấy lần nhảy xuống nước, ngoi lên, nhảy xuống, anh em cho đó là chuyện bình thường. Ướt lạnh giáp ngày giáp tháng, nhảy xuống nước trú ẩn nghe chừng tránh pháo, lúc ngoi lên mới biết mình còn sống.

Loại quần áo nilon vừa trơn mỏng, vừa dai, tiện lợi nhất là mau khô. Nghe tiếng bom pháo, anh em trầm ngay xuống nước. Nghe nổ xong rồi ngóc lên thở, ngụp xuống né, nghe êm là ngoi lên, có khi vừa ngoi lên lại ngoi xuống nước; quần áo chưa kịp ráo lại ngụp, ướt như chuột lột, có khi chỉ độc chiếc xà lỏn. Người ướt giáp tháng như thế, may ra thì còn giữ được chiếc tăng làm võng.

Có khi cả mấy ngày liền không nấu được cơm ăn, đành vơ kèo lèo, đọt lác nhai cho đỡ đói. Gian khổ hi sinh là vậy, nhưng chiến sĩ vùng Bưng Sáu Xã trong suốt những năm tháng ấy, không một ai nao núng bỏ đội ngũ chạy trốn, không một người chịu đầu hàng.

Ba Đẹt mang tăng cột gốc mắm gần anh Chín, nằm tòng teng nhìn ánh nắng rọi qua tán lá, cậu ta cười nói:

- Anh Chín ơi! Đời sướng nhất là sớm mai no bụng, được nằm võng đong đưa ngủ một giấc ngon lành ngay dưới tán lá như lúc này.

- Được nằm võng ngủ ngon còn gì bằng. Mày thấy tụi mình mấy khi được ngủ êm như này, thôi ngủ đi.

- Cả đêm qua em không ngủ được, có tới năm sáu lần lặn ngụp, ngoi lên lội xuống, người ướt như chuột lột, lạnh quá sao ngủ được, giờ mình ngủ bù nghe!

Vậy mà Đẹt có nhắm mắt liền đâu, hình như mới được ăn miếng cơm nóng, nó hứng thú kể chuyện:

- Bữa hổm em vào chợ Thủ Đức trinh sát, mình nằm bẹp trong lùm cỏ, muỗi chích đỉa đeo thả sức bám đu mà không dám đuổi. Nhìn vào chuồng heo nhà kia, sáng đèn, nền láng xi măng khô ráo, quanh chuồng heo còn bao một lớp mùng tránh muỗi. Thật đúng mình không bằng con heo nhà giầu ha anh Chín!

- Mầy, so sánh người với heo, heo nó chỉ biết ăn với ngủ, so gì kỳ vậy.

- Ấy là em thấy thế thôi! Thực ra như em đây nè, chỉ hơn con heo có cái quần xà lỏn. Bộ quần áo của em còn tốt, thế mà mấy bữa trước, máng phơi trên cành, bị pháo đốp trúng, tan không còn một mảnh.

- Anh em mình không có mùng, muỗi chích no, muốn hết cả máu, đúng là không sướng bằng con heo nhà giàu thật, nhưng còn sống, còn người là tốt rồi.

- Em còn có cái xà lỏn này thôi, cũng khỏi cần giặt hay chờ khô, cứ thế suốt ngày đêm, ướt khô không để ý!

- Ngủ đi mầy, ngủ lấy sức chớ hai đêm rồi pháo nó quần suốt có ngủ được chút nào đâu.

Đẹt còn hứng chí ca một câu vọng cổ, đổ khúc mùi mẫn, Chín Trí cười, nhìn chú lính mình trần, quấn trong chiếc tăng rách mà anh cũng vui theo.

- Đêm qua là pháo bầy pháo chập, pháo bắn theo giờ. Còn đêm hôm kia là pháo tép, pháo mồ côi, pháo bắn vu vơ, mầy biết sao gọi là pháo tép không?

- Không, anh Chín nói nghe coi.

- Đêm hôm trước là thứ bảy, tụi lính được nghỉ, nó dẫn gái vào trại ăn chơi. Ác nhơn thay, cái tụi gái còn thỏa cơn nhõng nhẽo ngông nghênh, vui chơi chán còn hứng chí đòi tụi lính cho bắn thử pháo. Tụi kia say rượu, làm le ra oai, lại sẵn đạn pháo, nó cho gái bắn chơi thỏa sức. Đứa đòi bắn một phát, đứa đòi bắn hai ba phát, vừa cười nói hò hét vừa bắn. Pháo cứ việc chĩa vào vùng có Việt cộng bắn tự do, đang ngủ nghe “đùng”, đang im lặng giữa đêm nghe “đoàng”, trúng người là chết. Tao nói pháo tép cho lịch sự đó, chứ tụi nó còn kêu là “pháo đĩ”, pháo do bọn gái đĩ bắn. Báo hại tụi mình phải hứng chịu, tưởng pháo chập pháo hồi bắt đầu nổ, chạy thấy mụ nội, ngoi lên ngoi xuống, ướt sũng suốt đêm… lại không may mà trúng pháo tép, chết lãng nhách.

Trong hoàn cảnh ngặt nghèo như thế, nếu không cách đối phó, hẳn sự sống của người nơi đây khó có thể tồn tại. Bom đạn quá, một số người dân phải ra khỏi vùng bưng. Một số lánh ra xa, nhưng đêm đến vẫn lần vào đồng bưng tiếp tế. Ngày vẫn đội bom pháo, vào đồng bưng sản xuất tăng gia, ra vào căn cứ tiếp tế cho chiến sĩ. Quân Giải phóng vẫn bám bưng, bám căn cứ không rời, phải tồn tại để chiến đấu, đó là mục tiêu, là lẽ sống là mạch đập con tim những người chiến sĩ.

Chiến sĩ ta sau mỗi trận chống càn, sướng nhất là được tòng teng nằm trong võng tăng, lại mở lò xô nấu cơm ăn, thậm chí còn pha trà gọi nhau lại một chỗ nhâm nhi, cười đùa:

- Anh Chín hay quá ta, kiếm đâu ra thứ xịn vầy cà!

- Ông “cán bộ mùa thu” cho tao đó, của quý bọc kín lâu nay, giờ mới có dịp chiêu đãi bọn bây.

- Giá ngày nào cũng được uống trà nóng như vầy!..

- Có chớ sao, điều này dễ ợt, hồi ở trong địa đạo Củ Chi, tao còn pha cà phê cho anh Tư uống đó mầy.

Chiến sĩ trẻ quay về nơi trú, Chín Trí gọi với theo:

- Chiều mai lại tới tao uống trà nghe mầy!

- Ờ, mai lại hen! Mà biết mai còn sống không đây!..

Kỳ diệu thay những con người, suốt mùa kháng chiến gian nan ấy, không thấy ai bỏ đội ngũ ra đầu hàng địch. Khi gặp càn thì tất cả hũ gạo lò xô, cả đạn dược cũng nhanh chóng được bao lại, vùi sâu trong sình, không để lại dấu vết nơi đây đang có sự sống con người. Chỉ có đội quân ẩn mình trong nước, xuất hiện cũng vô hình, bắn tỉa diệt địch thì bách phát bách trúng. Ẩn núp trong lùm từ xa, mắt dõi theo từng bước đi của tốp lính địch, nhằm bắn không trật viên đạn nào. Gây cho địch những cái chết đến bất ngờ, đến từ phía trước, phía sau, bên hông, hướng nào cũng khiến chúng hoảng hốt sợ hãi. Bọn ngụy ở các chốt, các bốt đồn không dám huênh hoang coi thường Việt cộng, nhất là từ chiều xắp xuống.

Vùng sình đi lại di chuyển trong nước. Nhưng không hẳn ở miền sình nước không đào được hầm. Kinh nghiệm của cha anh vùng Thủ Thừa quê hương Chín Trí, của mặt trận Đức Hòa trong những năm Chín Trí tham gia đoàn quân Chủ lực Long An, của đồng bưng cỏ lác Củ Chi và ngay cả đồng bưng Thủ Đức, từ lâu đã có kinh nghiệm đào hầm trong biền nước, đủ các loại hầm, ta đặt tên là hầm cá trê, hầm hàm ếch. Khi nước lớn, còn gò nổi, nghĩa là còn những nơi khô, chọn nơi đó đào. Nhưng nếu đào hầm, cũng chỉ xuống vài tấc là gặp nước. Mà hầm ấy, dù có ngụy trang đến đâu, địch cũng dễ phát hiện. Muốn vào hầm, phải lặn ngụp xuống nước chui vào hốc ngầm dưới bờ, nhoai một đoạn mới ngóc cổ lên thở. Trong ấy đào một khoảng trống, thường là ngay dưới gốc lùm cây, rễ cây chằng chịt, đó mới là hầm. Hầm nào rộng rãi, có thể nhoai cả người lên nằm ẹp. Nhưng hầu hết hầm ở đây chỉ đủ cho nhô vừa cái đầu ngoi khỏi mặt nước để thở, còn người thì cứ ngâm trong nước. Không khí trong hầm được tiếp hơi bằng hai ống, xuyên lên mặt đất trong hốc cây, đủ hơi cho một người thở, núp kín trong hầm như thế, khi nào thấy êm lại trầm mình xuống, lặn một hơi nhoai ra cửa hầm, rồi ngoi lên mặt nước. Đó là loại hầm cá trê. Hầm vùng bưng biền là cả một sự tính toán tinh vi, khoa học, nhưng không cần nhà khoa học nào nghiên cứu, chỉ là những kinh nghiệm mà chỉ người vùng bưng mới phát minh ra. Ẩn núp như thế tránh địch, đúng là người tàng hình trong chuyện cổ tích. Quân địch càn qua, rất khó phát hiện dấu vết hầm. Có lẽ trên thế giới này, các loại hầm có tên “hàm ếch, cá trê” chỉ ở Miền Nam Việt Nam mới có.

Nhờ có những hầm cá trê, hàm ếch mà chiến sĩ ta giảm bớt được thương vong, trong nhiều lần địch mở những trận càn khốc liệt mang những tên: “tát nước bắt cá”, “cất vó”, “vén sình tróc gốc”…vv, ta vẫn còn tồn tại.