P
eter Blood, cử nhân y khoa và cũng thạo dăm nghề nữa, vừa hút một tẩu thuốc vừa chăm sóc cho mấy cây phong lữ trồng trong chậu để trên bậu cửa sổ nhà anh nằm phía trên con phố Water Lane của thị trấn Bridgewater1.
1. Tên một thị trấn, cũng là một giáo xứ ở Somerset, Anh. (Các chú thích trong truyện là của người dịch.)
Những đôi mắt nghiêm khắc đầy chê trách quan sát anh từ khung cửa sổ đối diện, nhưng anh chẳng hề để ý tới. Peter Blood đang mải mê giữa việc chăm cây của mình và dòng người trên con phố hẹp bên dưới; một dòng người cuồn cuộn lần thứ hai trong ngày hôm đấy đang đổ dồn tới Castle Field, nơi trước đó, vào đầu buổi chiều, Ferguson, cha tuyên úy của Công tước, đã có một bài thuyết giảng chứa đựng nhiều phản nghịch hơn là thiêng liêng.
Những nhóm người hàng ngũ bát nháo, đầy phấn khích này chủ yếu bao gồm các đấng nam nhi có buộc những cành lá xanh trên mũ và cầm trên tay những món vũ khí nực cười nhất trên đời. Đúng là có một vài người vác trên vai một khẩu súng săn, và thỉnh thoảng đây đó cũng có dăm cây kiếm được vung lên, nhưng còn có nhiều người hơn thế được vũ trang bằng gậy gộc, và phần lớn đám này khuân theo những cây giáo kềnh càng được chế từ lưỡi hái, đáng sợ trong mắt người nhìn bao nhiêu thì cũng vô dụng trong tay người dùng bấy nhiêu. Có cả thợ dệt, thợ ủ bia, thợ mộc, thợ rèn, thợ nề, thợ xây, thợ đóng giày cũng như đại diện của đủ mọi ngành nghề hòa bình trong đám chiến binh ô hợp tự phát này. Bridgewater, cũng như Taunton2, đã hết sức hào phóng cung cấp những đấng nam nhi của mình để phụng sự tay Công tước con hoang, tới mức bất cứ ai tuổi tác và sức khỏe cho phép anh ta cầm vũ khí mà lại từ chối sẽ bị coi là kẻ hèn nhát hay là một gã Công giáo.
2. Tên một thị trấn ở Somerset, Anh. Thuyền trưởng Blood
Ấy thế nhưng Peter Blood, một người không chỉ có khả năng cầm vũ khí, mà còn từng được rèn luyện và thành thạo chuyện này, người chắc chắn không hèn nhát và cũng chỉ là tín đồ Công giáo những khi thích hợp, lại chăm sóc cho những cây phong lữ và hút một tẩu thuốc vào buổi chiều tà tháng Bảy ấm áp đó một cách dửng dưng như thể chẳng hề có chuyện gì đang xảy ra. Quả tình anh cũng có làm một việc khác. Anh ném theo đám người hăng máu đang sôi sục chiến trận đó một câu thơ của Horace1, một thi sĩ có những sáng tác mà anh vốn đã rất yêu thích từ rất lâu rồi:
“Quo, quo, scelesti, ruitis?”2
1. Tên đầy đủ là Quintus Horatius Flaccus (65-6 TCN), là nhà thơ mở đầu dòng thơ trữ tình La Mã.
2. Tiếng Latin, nghĩa là: “Hỡi những kẻ điên, các người hối hả đi đâu, đi đâu?”
Và giờ hẳn quý vị đã đoán được vì sao dòng máu nóng can đảm được thừa hưởng từ các vị tổ tiên ưa lang bạt của bà mẹ người Somersetshire3 của anh vẫn bình thản giữa bầu không khí nóng rực sục sôi một cách cực đoan của cuộc phản loạn; tại sao tính cách nổi loạn từng rứt anh khỏi những mối ràng buộc về học thuật êm ả mà người cha đã áp đặt lên anh giờ đây vẫn lặng thinh ở ngay giữa cơn cuồng loạn. Quý vị hẳn đã hiểu anh nhìn nhận thế nào về những người đang tập hợp lại dưới những lá cờ của tự do, những lá cờ được thêu bởi các thiếu nữ tại Taunton, những cô gái trong các trường dòng của cô Blake và bà Musgrove, những người theo như khúc ballad đã xé váy lót bằng lụa của họ để may cờ cho đạo quân của Vua Monmouth. Câu thơ bằng tiếng Latin đó, được ném theo đám người một cách khinh thường trong khi bọn họ ồn ào đi xuống con phố lát đá, đã cho thấy suy nghĩ của anh. Với anh, bọn họ là những gã ngốc đang hăm hở lao tới sự hủy diệt của chính mình trong một cơn điên cuồng xấu xa.
3. Tên gọi cổ của hạt Somerset.
Quý vị thấy đó, anh biết quá nhiều về gã Monmouth này và ả đàn bà tóc nâu xinh đẹp lăng loàn đã sinh ra y nên không thể bị lừa gạt bởi câu chuyện về sự chính danh hợp pháp mà người ta vin vào đó để phất lên ngọn cờ phản loạn. Anh đã đọc bản tuyên cáo lố bịch được dán ở chỗ Cây Thập tự tại Bridgewater cũng như đã được công bố tại Taunton và những nơi khác nói rằng “sau khi Đức vương thượng Charles Đệ nhị của chúng ta băng hà, quyền kế vị vương miện của Anh, Scotland, Pháp và Ireland, với những lãnh địa và lãnh thổ trực thuộc, được kế thừa và truyền lại một cách hợp pháp cho Vương tử James, có dòng dõi cao quý và lẫy lừng nhất, Công tước Monmouth, con trai và người kế vị chính thống của Đức vua Charles Đệ nhị kể trên”.
Những lời này đã khiến anh bật cười, cũng như tuyên bố tiếp theo rằng “James, Công tước xứ York, trước tiên đã sai đầu độc Đức vua quá cố nói trên, sau đó lập tức tiếm vị và cướp lấy vương miện”.
Anh không biết đâu là lời dối trá trắng trợn hơn. Vì Peter Blood đã trải qua một phần ba cuộc đời tại Hà Lan, nơi mà chính tay James Scott, lúc này đang tự xưng là James Đệ nhị, vua nhờ lượng Chúa, vân vân và vân vân, đã chào đời chừng ba mươi sáu năm về trước, và anh đã quen thuộc với câu chuyện lan truyền ở đó về cha đẻ thật sự của y. Không những chẳng phải là con hợp pháp nhờ một cuộc hôn nhân bí mật được giả bộ đã tồn tại giữa Charles Stuart và Lucy Walter, có thể tay Monmouth lúc này đang tự xưng là vua nước Anh thậm chí còn không phải là con ngoài giá thú của vị vua quá cố. Nhưng còn điều gì ngoài hủy diệt và tai họa có thể là kết cục của đòi hỏi lố bịch này chứ? Làm sao có thể hy vọng là nước Anh sẽ nuốt trôi được thứ dối trá sống sượng này chứ? Và nhân danh kẻ này, để ủng hộ yêu sách trời ơi đất hỡi của y mà những kẻ quê mùa ở vùng miền Tây nước Anh kia, dưới sự cầm đầu của dăm nhà quý tộc theo phe Whig1, đã bị cám dỗ vào cuộc nổi loạn!
1. Một phe cánh chính trị ra đời từ năm 1678, tiền thân của Đảng Tự do ở Anh.
“Quo, quo, scelesti, ruitis?”
Anh vừa bật cười vừa thở dài; nhưng tiếng cười áp đảo tiếng thở dài, bởi Peter Blood không hề đồng tình, cũng như phần lớn những người biết tự lực; và anh là người rất biết tự lực; nghịch cảnh đã dạy anh trở nên như vậy. Một người đa cảm hơn nếu sở hữu tầm nhìn và hiểu biết của anh có lẽ đã tìm thấy lý do để rơi nước mắt khi chứng kiến những con chiên theo đạo Tin lành chất phác, đầy nhiệt huyết này hăm hở tìm đến với cái chết, được những người vợ, những cô con gái, những người mẹ và người yêu của họ đưa tiễn tới nơi tập kết tại Castle Field, được động viên bởi ảo tưởng rằng họ phải ra trận để bảo vệ Quyền chính thống, Tự do và Tôn giáo. Vì anh biết, cũng như cả Bridgewater đều biết và đã biết được vài giờ nay, là Monmouth dự định giao chiến vào ngay tối hôm đó. Công tước sẽ đích thân chỉ huy một cuộc tấn công bất ngờ vào đạo quân Bảo hoàng dưới quyền Feversham lúc này đang đóng trại ở Sedgemoor. Peter Blood phỏng đoán rằng Huân tước Feversham hẳn cũng đã được thông tin chu đáo chẳng kém, và nếu trong phỏng đoán này anh có sai đi nữa thì ít nhất anh cũng có thể được biện minh về nó. Anh không thể cho rằng vị tư lệnh Bảo hoàng lại kém cỏi đến thế trong nghề nghiệp ông ta theo đuổi.
Peter Blood gõ tàn thuốc ra khỏi tẩu của mình, rồi lui người lại để đóng cửa sổ. Trong khi làm việc đó, ánh mắt anh lướt thẳng sang bên kia phố và cuối cùng cũng bắt gặp tia nhìn từ những cặp mắt thù địch đang theo dõi anh. Có tất cả hai cặp mắt, và chúng thuộc về hai chị em nhà Pitt, hai bà cô độc thân đáng mến, đa cảm, không chịu nhường ai tại Bridgewater trong sự tôn thờ anh chàng Monmouth bảnh trai của họ.
Peter Blood mỉm cười và nghiêng đầu chào, vì anh vốn có quan hệ tốt với các quý cô này, một trong hai người quả thực từng là bệnh nhân của anh trong thời gian ngắn. Nhưng không có trả lời cho cử chỉ chào hỏi của anh. Thay vì thế, những đôi mắt kia đáp lại anh bằng ánh nhìn chằm chằm lạnh lùng, khinh miệt. Nụ cười trên đôi môi mỏng của anh nở rộng hơn một chút, và ít thân mật đi một chút. Anh hiểu lý do của thái độ thù địch kia, vốn đã tăng lên từng ngày trong suốt tuần vừa qua kể từ khi Monmouth xuất hiện làm quay cuồng đầu óc phụ nữ đủ mọi lứa tuổi. Anh đã tìm hiểu được rằng các tiểu thư nhà Pitt coi thường anh bởi một người trẻ trung, khỏe mạnh như anh, có kinh nghiệm nhà binh mà lúc này rất có ích cho nghiệp lớn lại né tránh đứng ngoài cuộc; bởi anh bình thản hút tẩu thuốc và chăm sóc mấy cây phong lữ của mình vào một trong mọi buổi chiều như buổi chiều nay, khi những người đàn ông có nhiệt huyết đang tập hợp lại quanh người bảo vệ đạo Tin lành, hiến dâng máu của họ để đưa ngài lên ngôi báu vốn thuộc về ngài.
Nếu Peter Blood hạ cố tranh luận về vấn đề này với các quý cô, hẳn anh có thể đã viện lý do rằng sau khi tận hưởng đủ phần lang bạt và phiêu lưu của mình, giờ đây anh đã bắt tay vào sự nghiệp mà vốn dĩ ban đầu anh được định hướng tới và quá trình học hành đã trang bị cho anh những gì cần thiết; rằng anh là một con người của y học chứ không phải của chiến tranh; một người chữa bệnh chứ không phải một kẻ giết người. Nhưng anh biết hẳn họ sẽ trả lời anh rằng một sự nghiệp như vậy đòi hỏi tất cả đàn ông tự coi mình là đấng nam nhi phải cầm vũ khí. Họ chắc sẽ chỉ ra rằng chính người cháu Jeremiah1 của họ, vốn nghề nghiệp là một thủy thủ, thuyền trưởng của một chiếc tàu mà sự xui xẻo đã khiến chàng thanh niên bỏ neo vào đúng thời điểm này ở vịnh Bridgewater, đã bỏ bánh lái, cầm một khẩu súng hỏa mai để bảo vệ Quyền chính thống. Nhưng
1. Về sau, nhân vật này được gọi với tên Jeremy.
Peter Blood không phải loại người hay tranh luận. Như tôi đã nói, anh là người biết tự lực.
Anh đóng cửa sổ lại, kéo rèm xuống, quay vào căn phòng dễ chịu được thắp nến và cái bàn trên đó bà quản gia Barlow của anh đang chuẩn bị dọn bữa tối. Tuy nhiên, với bà anh lại nói thành tiếng ý nghĩ của mình.
“Tôi đã bị thất sủng với các nữ đồng trinh ưa sinh sự bên kia đường rồi.”
Anh có giọng nói vang, vui tai, âm sắc như kim loại trong đó được làm dịu đi và lắng xuống bởi khẩu âm Ireland mà bất chấp bấy nhiêu lang bạt anh vẫn không bao giờ đánh mất. Đó là một giọng nói có thể tỏ tình đầy quyến rũ và mơn trớn, hay ra lệnh với đủ quyền uy để được tuân phục. Quả thực, toàn bộ bản chất con người nằm trong giọng nói đó của anh. Về phần còn lại, anh là người cao ráo và gầy, với nước da rám nắng như một người Digan, với đôi mắt xanh lơ đến mức đáng ngạc nhiên trên khuôn mặt dãi dầu với đôi lông mày cũng đen sẫm. Đôi mắt cân đối hai bên sống mũi cao ráo và gan dạ chứa đựng ánh nhìn đặc biệt sắc sảo với vẻ kiêu hãnh ăn nhập hoàn hảo với đôi môi cương nghị. Cho dù mặc đồ đen cho phù hợp với nghề nghiệp của mình, song bộ trang phục này có vẻ lịch thiệp xuất phát từ sự ưa thích thời trang đặc trưng cho con người phiêu lưu trước đây của anh hơn là vai trò bác sĩ hiện anh đảm nhiệm. Áo khoác của anh may bằng dạ lông dê được thêu chỉ bạc; hai cổ tay của anh được trang hoàng bằng những dải đăng ten Mechlin1, và quàng quanh cổ anh là một chiếc cà vạt Mechlin. Bộ tóc giả lớn màu đen của anh cũng được uốn lượn sóng cẩn thận như của bất cứ ai tại Whitehall2.
1. Còn gọi là đăng ten malin, sản xuất tại Mechlin, Bỉ.
2. Tên một con đường tại khu đô thị Westminster, ở trung tâm London.
Khi nhìn thấy anh như vậy, và nhận ra bản chất thực sự hiện lên rõ ràng trên con người anh, quý vị có thể sẽ bị cám dỗ đi đến tự hỏi liệu một người đàn ông như thế sẽ hài lòng yên vị bao lâu ở xó xỉnh bé nhỏ này của thế giới, nơi sự tình cờ đã thổi anh dạt vào sáu tháng trước; liệu anh sẽ tiếp tục công việc anh đã học hành để theo đuổi trước khi bước vào đời được bao lâu. Cho dù thật khó tin khi quý vị đã biết về cuộc đời anh, cả trước đó lẫn sau này, thế nhưng rất có thể nếu không vì trò đùa số phận sắp sửa bày ra, anh đã tiếp tục cuộc sống bình lặng này, hoàn toàn yên vị với đời sống của một bác sĩ tại nơi ẩn cư Somersetshire này. Có thể, nhưng không chắc.
Anh là con trai của một thầy thuốc người Ireland, được sinh ra bởi một phụ nữ người Somersetshire mang dòng máu của dòng họ Frobisher, điều có thể là nguyên do cho tính khí ít nhiều nổi loạn đã bộc lộ ra ở anh. Sự nổi loạn này khiến thân phụ anh, một người có bản tính yêu hòa bình hiếm có với một người Ireland, lo ngại. Ông đã quyết định từ sớm rằng cậu bé sẽ theo nghề nghiệp đáng kính của chính ông, và Peter Blood, vốn học hỏi nhanh và ham thích hiểu biết lạ lùng, đã khiến đấng sinh thành hài lòng khi nhận được bằng cử nhân y khoa tại Trinity College, Dublin, lúc hai mươi tuổi. Cha anh chỉ sống thêm với sự hài lòng đó được ba tháng. Mẹ anh khi đó đã qua đời được vài năm rồi. Vậy là Peter Blood được thừa kế vài trăm bảng, với nó anh đã lên đường đi ngắm nhìn thế giới và trong một thời gian thỏa sức hài lòng tính khí bất kham thấm đẫm trong con người mình. Một chuỗi những biến cố đáng tò mò đã khiến anh đầu quân cho người Hà Lan, bấy giờ đang có chiến tranh với Pháp; và sở thích với biển đã khiến anh lựa chọn phục vụ trong môi trường đó. Anh có được lợi thế phục vụ dưới quyền De Ruyter1 nổi tiếng, và chiến đấu trong trận chiến trên Địa Trung Hải nơi vị đô đốc Hà Lan vĩ đại đó tử trận.
1. Michiel de Ruyter (1607-1676): đô đốc người Hà Lan, nổi tiếng vì những đóng góp của ông cho Hải quân Hà Lan trong chiến tranh Anh - Hà Lan.
Sau hiệp định hòa bình Nimeguen, hành tung của anh rất mơ hồ. Nhưng chúng ta biết anh đã trải qua hai năm trong một nhà tù Tây Ban Nha, dù chúng ta không biết anh đã xoay xở thế nào để có mặt ở đó. Có thể vì lý do này mà sau khi được thả anh đầu quân phục vụ nước Pháp, và phụng sự người Pháp trong cuộc chiến của họ trên đất Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Cuối cùng, khi đã đến tuổi ba mươi hai, đã chán ngấy mùi vị của phiêu lưu do tình trạng sức khỏe trở nên giảm sút vì một vết thương không được chữa trị chu đáo, anh đột nhiên bị cảm giác nhớ nhà khuất phục. Anh xuống tàu ở Nantes với ý định vượt biển về Ireland. Nhưng con tàu bị thời tiết xấu buộc phải cập vào vịnh Bridgewater, và bởi sức khỏe Blood đã trở nên xấu đi trong cuộc hành trình, anh liền quyết định lên bờ tại đó, đồng thời cũng có thôi thúc làm vậy bởi đây là quê của mẹ anh.
Thế là vào tháng Một của năm 1685 đó, anh đã đặt chân tới Bridgewater, sở hữu một gia tài xấp xỉ như gia tài anh đã mang theo khi lên đường bước vào đời từ Dublin mười một năm về trước.
Bởi vì anh thích nơi này, tại đó sức khỏe anh nhanh chóng hồi phục, và vì anh nhận thức được mình đã trải qua đủ phiêu lưu cho cả một đời người, anh quyết định định cư tại đó, và rốt cuộc bắt đầu thực hành nghề y mà anh đã từ bỏ để rồi chẳng thu về được bao nhiêu lợi lộc.
Đó là tất cả câu chuyện về cuộc đời anh, hay về những gì đáng kể của nó cho tới tận tối hôm ấy, sáu tháng sau khi anh tới Bridgewater, khi trận Sedgemoor diễn ra.
Cho rằng biến cố sắp xảy ra chẳng liên quan gì đến mình, mà quả thực cũng đúng thế thật, và dửng dưng với hành động cả Bridgewater đều ngóng đợi tối đó, Peter Blood bỏ ngoài tai mọi âm thanh của nó và lên giường đi ngủ sớm. Anh đã bình yên ngủ say từ lâu trước lúc mười một giờ, thời điểm, như quý vị cũng biết, Monmouth cưỡi ngựa dẫn đám phản loạn của y đi dọc theo con đường Bristol, đi lòng vòng để tránh đầm lầy nằm chắn giữa y và đạo quân Hoàng gia. Quý vị cũng biết là lợi thế số lượng của tay Công tước nhiều khả năng đã bị cân bằng lại bởi trạng thái sẵn sàng chiến đấu tốt hơn của binh lính chính quy phía bên kia, còn lợi thế Monmouth trông đợi từ việc bất ngờ ập xuống một đạo quân ít nhiều đang ngái ngủ đều mất sạch cả bởi sự sai lầm và năng lực chỉ huy tồi từ trước khi y giao chiến với Feversham.
Hai đạo quân giao chiến vào lúc khoảng hai giờ sáng. Peter Blood vẫn ngủ say không hề bị quấy rầy qua những tiếng đại bác nổ vọng lại từ xa. Cho tới tận bốn giờ sáng, khi mặt trời đang nhô dần lên để xua đi những đám sương mù cuối cùng trên chiến trường tơi bời đó, anh mới bị đánh thức khỏi giấc ngủ bình yên của mình.
Anh ngồi dậy trên giường, dụi cơn buồn ngủ khỏi mắt mình, và định thần lại. Những cú đấm đang nện thình thình lên cửa nhà anh, và một giọng nói đang gọi cuống quýt. Chính những âm thanh này đã dựng anh dậy. Cho rằng mình phải đi xử trí một ca đỡ đẻ gấp, anh tìm áo choàng mặc trong nhà và đôi dép để xuống dưới nhà. Ra tới đầu cầu thang, thiếu chút nữa anh va phải bà Barlow, vừa thức dậy và lôi thôi trong tình trạng hốt hoảng. Anh dập tắt tràng líu ríu cuống quýt của bà ta bằng vài lời trấn an, rồi đích thân ra mở cửa.
Ngoài đó, trong ánh sáng vàng chói của mặt trời mới mọc là một người đàn ông thở không ra hơi với đôi mắt hoảng hốt và một con ngựa bốc hơi nghi ngút. Bê bết bụi và bùn đất, quần áo xộc xệch, ống tay áo trái của chiếc áo chẽn rách tả tơi rủ xuống, chàng trai trẻ há đôi môi ra để nói, nhưng không thốt nổi nên lời suốt hồi lâu.
Lúc đó, Peter Blood nhận ra anh chàng này chính là cậu Thuyền trưởng trẻ tuổi Jeremiah Pitt, cháu của hai quý tiểu thư bên kia đường, người đã bị lôi vào vòng xoáy của cuộc nổi loạn đó bởi bầu không khí cuồng nhiệt chung. Con phố tỉnh dậy, bị đánh thức bởi những âm thanh ầm ĩ của anh chàng thủy thủ.
Những cánh cửa bật mở, những ô cửa sổ mắt cáo được tháo chốt để những cái đầu lo âu, dò hỏi nhô ra.
“Giờ hãy bình tĩnh nào.” Peter Blood nói. “Tôi chưa bao giờ thấy người nào đang quá hấp tấp lại nói được gì rõ ràng.”
Nhưng cậu thanh niên với đôi mắt hốt hoảng chẳng hề để ý tới lời nhắc nhở. Cậu ta lập tức lên tiếng, vừa nói vừa hổn hển thở không ra hơi.
“Là Huân tước Gildoy.” Cậu ta lắp bắp. “Ông ấy bị thương nặng… ở trang trại Oglethorpe bên bờ sông. Tôi đã đưa ông ấy tới đó… và… ông ấy phái tôi tới gặp ông. Hãy đi ngay! Đi ngay!”
Cậu ta chắc hẳn đã túm lấy người bác sĩ và dùng sức lôi tuột anh đi với áo choàng trong nhà trên người và đôi dép dưới chân như thế. Nhưng vị bác sĩ tránh khỏi bàn tay quá gấp gáp đó.
“Tất nhiên là tôi sẽ đi.” Anh đáp, lòng thấy buồn phiền. Gildoy đã là một người bảo trợ rất thân tình và hào phóng của anh kể từ khi anh định cư tại đây. Và Peter Blood cũng rất sẵn lòng làm những gì anh có thể vào lúc này để báo đáp món nợ, cảm thấy đau lòng vì một cơ hội như thế lại đến theo cách mà anh biết quá rõ vì vị Huân tước trẻ tuổi thiếu suy nghĩ là một người ủng hộ Công tước tích cực. “Tất nhiên là tôi sẽ đi. Nhưng trước hết hãy để tôi thay quần áo và chuẩn bị vài thứ khác mà tôi có thể cần đến.”
“Không còn thời gian nữa đâu.”
“Giờ hãy bình tĩnh nào. Tôi sẽ không để mất nhiều thời gian đâu. Tôi nói lại với cậu lần nữa, cậu sẽ đi nhanh nhất bằng cách đi thong thả. Vào đi… hãy ngồi xuống…” Anh mở cửa một phòng khách ra.
Anh chàng Pitt trẻ tuổi xua tay từ chối lời mời. “Tôi sẽ chờ ở đây. Vì Chúa, hãy khẩn trương lên.”
Peter Blood quay vào mặc quần áo và sắp xếp một hộp đồ nghề.
Những câu hỏi về tình trạng chính xác vết thương của Huân tước Gildoy có thể đợi đến khi họ đã ở trên đường. Trong khi đi ủng, anh đưa ra các chỉ dẫn về công việc trong ngày cho bà Barlow, trong đó bao gồm bữa tối mà số mệnh quyết định anh sẽ không được ăn.
Cuối cùng, khi anh quay trở ra với bà Barlow líu ríu nói với theo anh như một con gà mái đang cáu kỉnh, anh thấy anh chàng Pitt trẻ tuổi bị bao quanh bởi một đám đông cư dân phần lớn là phụ nữ đang sợ hãi và chưa kịp mặc đồ chỉnh tề, họ đã vội vã tới hỏi han thông tin về diễn biến trận đánh. Có thể thấy được tin tức chàng thanh niên báo với đám người này qua những lời than vãn inh ỏi làm ồn ào bầu không khí buổi sáng của họ.
Khi thấy vị bác sĩ đã mặc đồ, đi ủng chỉnh tề, hộp đồ nghề kẹp dưới cánh tay, người đưa tin liền vùng ra khỏi những người đang chen chúc vây quanh mình, rũ bỏ sự mệt mỏi của bản thân và hai bà cô đang nước mắt lưng tròng bấu riệt lấy cậu ta rồi nắm lấy dây cương con ngựa của mình và cưỡi lên yên.
“Đi nào, thưa ông!” Cậu ta kêu lên. “Leo lên sau lưng tôi!” Peter Blood, không lãng phí lời nào, làm như được yêu cầu. Pitt dùng cựa thúc con ngựa. Đám đông nhỏ dạt ra tránh đường, và cứ như thế, ngồi trên mông con ngựa phải chở hai người, bám lấy thắt lưng người bạn đồng hành của mình, Peter Blood lên đường dấn thân vào cuộc phiêu lưu của anh. Vì chàng thanh niên Pitt này, người anh chỉ thấy là người đưa tin của một nhà quý tộc nổi loạn bị thương, thực ra chính là tín sứ do định mệnh gửi tới.