Một trong những nỗi sợ lớn nhất của chúng tôi là một điều diễn ra hôm nay, và khi mổ xẻ phân tích vấn đề thì mới vỡ lẽ ra rằng hai tuần trước, chúng tôi đã có manh mối (nhưng) không hề biết, vì nó bị chôn vùi dưới việc gì đó khác chưa được xử lý.
– B. “Buzzy” Krongard , Giám đốc điều hành CIA –
Bằng chứng xác thực cho thấy rằng đã diễn ra hoạt động giao dịch bất thường trên các thị trường quyền chọn tính đến trước ngày 11 tháng 9, điều này ăn khớp với việc các tay khủng bố hoặc đồng bọn của chúng đã giao dịch dựa trên việc biết trước về những cuộc tấn công sắp xảy ra.
– Allen M. Poteshman, Đại học Illinois tại Urbana-Champaign –
Đừng bao giờ tin vào bất cứ điều gì cho đến khi nó được phủ nhận một cách chính thức.
– Claud Cockburn, Nhà báo người Anh –
GIAO DỊCH TRẮNG TRỢN
“Không ai giao dịch một mình.” Đây là chân lý trên thị trường tài chính, có nghĩa là mọi hoạt động buôn bán đều để lại lịch sử giao dịch để truy xuất. Chỉ cần biết nên nhìn vào đâu, kiểm tra lịch sử và dữ liệu như thế nào, một người có thể biết được rất nhiều, không chỉ về lượng cổ phiếu bán ra mỗi ngày của những đối tượng cụ thể, dù lớn hay nhỏ, mà còn về những xu hướng và sự thật không mấy tốt lành. Điển hình là những bằng chứng trên thị trường xoay quanh sự kiện 11/9 – hầu hết trong số đó vẫn còn là ẩn số đối với công chúng.
Các phòng họp bảo mật tại trụ sở chính của CIA ở Langley – không có cửa sổ, tĩnh lặng và chật hẹp – được những người sử dụng chúng gọi là “hầm mộ”. Ngày 26 tháng 9 năm 2003, John Mulheren và tôi ngồi cạnh nhau trong một “hầm mộ” trên tầng bốn của trụ sở. Mulheren là một trong những tay chơi cổ phiếu cừ khôi nhất lịch sử Phố Wall. Còn trách nhiệm của tôi là xây dựng mô hình giao dịch của khủng bố cho CIA, một phần trong cuộc điều tra quy mô lớn về hoạt động giao dịch cổ phiếu trên cơ sở biết trước về những vụ khủng bố 11/9.
Tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta và hỏi anh ta có tin rằng có một cuộc giao dịch nội gián liên quan đến cổ phiếu của American Airlines ngay trước sự kiện 11/9 không. Câu trả lời của anh ta khiến tôi rùng mình: “Đó là trường hợp giao dịch nội gián hiển nhiên nhất mà tôi từng thấy.”
Mulheren bắt đầu sự nghiệp chơi cổ phiếu vào đầu những năm 1970 và trở thành một trong những Giám đốc điều hành trẻ nhất từng được bổ nhiệm ở Merrill Lynch ở tuổi 25. Năm 1990, anh ta bị phát hiện có dính líu đến hoạt động giao dịch nội gián trong loạt scandal giao dịch xảy ra hồi thập niên 1980. Nhưng trong phiên xét xử chống án, tòa tuyên bố Mulheren vô tội. Phán quyết ban đầu dành cho anh ta dựa trên lời khai của Ivan Boesky, một tay giao dịch nội gián ai cũng biết. Trong suốt vụ án, Mulheren bị cảnh sát bắt giữ tại tư gia ở Rumson, New Jersy khi đang chuẩn bị lên đường với một khẩu súng trường đã lên đạn để giết Boesky giữa thanh thiên bạch nhật.
Mulheren là chuyên gia trong lĩnh vực mua bán quyền chọn và hiểu rất rõ mối quan hệ toán học giữa giá quyền chọn và giá cổ phiếu cơ sở của quyền chọn đó. Anh ta đồng thời là tay chơi cổ phiếu thâu tóm lão luyện và biết rằng thông tin về thương vụ thường bị rò rỉ trước, mở đường cho hoạt động giao dịch nội gián. Không ai nắm rõ về mối liên kết giữa giao dịch nội gián và tín hiệu giá hơn Mulheren.
Khi chúng tôi gặp nhau ở Langley, Mulheren đang là CEO của Bear Wagner, một trong bảy công ty chuyên biệt về Sàn Giao dịch Chứng khoán New York lúc bấy giờ. Gần đây, tầm quan trọng của những công ty dạng này đã mờ nhạt đi nhiều, nhưng vào thời gian diễn ra sự kiện 11/9, họ là mắt xích quan trọng nhất giữa người mua và người bán. Công việc của họ là tạo ra một thị trường và bình ổn giá. Các chuyên gia sử dụng thị trường quyền chọn để giảm bớt rủi ro mà họ phải chịu khi thiết lập thị trường. Họ chính là mắt xích then chốt liên kết thị trường cổ phiếu New York với thị trường quyền chọn Chicago.
Công ty của Mulheren là nơi tạo lập thị trường được chỉ định cho cổ phiếu của American Airlines vào thời điểm xảy ra sự kiện 11/9. Khi hai chiếc máy bay đâm vào tòa tháp đôi, Mulheren nhìn thấy khói lửa bốc lên từ văn phòng của mình gần Trung tâm Thương mại Thế giới và ngay lập tức hiểu chuyện gì đang diễn ra. Trong lúc mọi người còn đoán già đoán non về một “chiếc máy bay nhỏ bị chệch khỏi hành trình” thì Mulheren đã bán tống bán tháo các hợp đồng tương lai S&P 500. Chỉ 9 phút từ lúc xảy ra vụ tấn công đến lúc thị trường hợp đồng tương lai đóng cửa, Mulheren đã đút túi 7 triệu đô-la nhờ việc bán khống cổ phiếu. Sau đó, anh ta quyên toàn bộ số tiền này cho hoạt động từ thiện.
Mulheren là một nhân chứng: Anh ta tận mắt chứng kiến toàn bộ cuộc tấn công 11/9 và cuộc giao dịch nội gián trước đó. Sự có mặt của anh ta ở Langley năm 2003 là một phần trong dự án của CIA nhằm truy ngược trở lại khoảng thời gian trước khi xảy ra vụ khủng bố.
VỤ GIAO DỊCH CỦA PHE KHỦNG BỐ
Ngày 5 tháng 9 năm 2001 là ngày mà Osama bin Laden biết rằng các cuộc tấn công vào New York và Washington sẽ diễn ra vào 11/9. Đồng hồ đếm ngược đến cuộc khủng bố bắt đầu. Còn bốn ngày trước khi đường phố xung quanh Sàn Giao dịch Chứng khoán New York ngổn ngang xác người và đất đá. Những người giao dịch thuộc phe khủng bố với những tin tức nội bộ chỉ cần vài ngày để thực hiện các chiến lược nhằm đẩy mạnh lợi nhuận từ khủng bố. Những giao dịch nội gián dựa trên những thông tin về âm mưu 11/9 được diễn ra rầm rộ từ trước ngày 6 tháng 9.
Bin Laden được cho là đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình vô cùng giàu có ở Ả Rập Saudi. Những tay khủng bố chơi chứng khoán vốn nắm được thông tin Al Qaeda, bao gồm cả nhóm không tặc trong vụ 11/9, cũng không xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ, thất học. Trái lại, chúng đều là bác sĩ, kỹ sư. Nhiều tên sống ở các quốc gia phát triển như Đức và Mỹ. Al Qaeda được những người Ả Rập Saudi giàu có hỗ trợ tài chính và thường xuyên giao dịch cổ phiếu trên thị trường.
Hầu như ai cũng biết rằng Al Qaeda quá rành quy trình vận hành của Sàn Giao dịch Chứng khoán New York. Trong cuộc phỏng vấn với một nhà báo người Pakistan chỉ vài tuần sau vụ khủng bố 11/9, Bin Laden đã đưa ra những bình luận dưới đây, cho thấy hắn hiểu rõ tới mức nào về mối liên hệ giữa khủng bố và giao dịch chứng khoán:
Tôi khẳng định những sự kiện diễn ra vào thứ Ba, ngày 11 tháng 9 năm 2001 ở New York và Washington thực sự có ý nghĩa to lớn trong mọi phương diện… Và nếu sự sụp đổ của tòa tháp đôi… là một sự kiện nghiêm trọng thì hãy xem xét những sự kiện theo sau nó… Hãy nói về những quyết định kinh tế vẫn đang diễn ra…
Thị trường Phố Wall mất tới 16%. Người ta nói đây là một kỷ lục chưa từng có kể từ khi thị trường này mở cửa cách đây hơn 230 năm… Tổng giá trị giao dịch trên thị trường Phố Wall là 4.000 tỉ đô-la. Nếu chúng ta lấy 16% nhân với 4.000 tỉ đô-la để ra khoản tiền mất đi từ cổ phiếu thì con số sẽ là 640 tỉ đô-la, lạy Thánh Alla.
American Airlines và United Airlines, hai công ty điều hành bốn chiếc máy bay bị không tặc khống chế trong ngày 11/9, đều niêm yết công khai và giao dịch trên Sở Giao dịch Chứng khoán New York. Năm 2001, mã chứng khoán của American Airlines là AMR, của United Airlines là UAL.
Một điều tra viên tìm kiếm bằng chứng giao dịch nội gián thường bắt đầu với thị trường quyền chọn, vốn liên kết chặt chẽ với thị trường chứng khoán. Những vụ án giao dịch nội gián diễn ra trong nhiều thập kỷ qua đã cho thấy rằng quyền chọn là công cụ lựa chọn của người giao dịch nội gián. Lý do quá hiển nhiên: Đối với cùng một khoản tiền mặt, quyền chọn đem lại đòn bẩy lớn hơn rất nhiều so với giao dịch cổ phiếu thông thường. Điều gì có lý với Phố Wall thì cũng có lý với bọn khủng bố. Khi ai đó đặt cược vào một việc chắc chắn xảy ra, đòn bẩy sẽ phóng đại lợi nhuận kỳ vọng và bọn khủng bố đang làm như vậy – điều chắc chắn xảy ra ở đây là sự hoảng loạn theo sau cuộc tấn công của chúng.
Mặc dù chỉ có một nhóm rất nhỏ những kẻ thực thi mới biết chi tiết hành động của những cuộc tấn công khủng bố 11/9, nhưng việc sẽ xảy ra một cuộc tấn công vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 thì nhiều người biết hơn. Nhóm này bao gồm đồng bọn, bạn cùng nhà, người ủng hộ tài chính lẫn bạn bè và gia đình của nhóm không tặc. Những người được bọn khủng bố nói trước về sự việc sắp xảy ra sẽ đi kể với người khác nữa và thông tin cứ thế lan đi trong một mạng lưới xã hội giống hệt cách một video được lan truyền trên Internet.
Việc các thành viên trong mạng lưới xã hội đang rỉ tai nhau thông tin về một vụ tấn công sắp diễn ra không giúp ích gì cho các cơ quan tình báo trừ khi họ “bắt” được những thông điệp đó. Mà việc này lại gặp phải nhiều thách thức trong cả công tác điều hướng các nguồn lực thu thập thông tin đến đúng kênh lẫn quá trình tách tín hiệu khỏi sự nhiễu loạn. Nhưng ít nhất cũng có một kênh nhấp nháy đỏ trước sự kiện 11/9, cho cả thế giới biết rằng sắp xảy ra thảm họa liên quan đến ngành hàng không. Đó chính là tòa bảo tháp của nền tài chính Hoa Kỳ – Sàn Giao dịch Chứng khoán New York.
Khi đồng hồ bắt đầu đếm ngược đến vụ khủng bố, các tín hiệu trên thị trường dồn dập xuất hiện như một cơn sóng thần. Bình thường, tỉ lệ số người đặt cược một cổ phiếu sẽ giảm so với số người đặt cược nó sẽ tăng là 1:1. Vào ngày 6 và ngày 7 tháng 9, tỉ lệ này đối với cổ phiếu của United Airlines là 12:1. Ngày 8 và ngày 9 tháng 9 rơi vào cuối tuần, sàn giao dịch đóng cửa. Phiên giao dịch cuối cùng trước khi xảy ra vụ tấn công là ngày 10 tháng 9 và trong ngày đó, tỉ lệ quyền chọn đặt cược cổ phiếu của American Airlines sẽ giảm so với tỉ lệ quyền chọn đặt cược nó sẽ tăng là 6:1. Ngày 11 tháng 9 năm 2001, các máy bay của United Airlines và American Airlines đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc. Ngày giao dịch đầu tiên sau loạt vụ tấn công, cổ phiếu của United Airlines giảm 43%, cổ phiếu của American Airlines giảm 40% so với phiên giao dịch ngày 10 tháng 9. Hàng ngàn người Mỹ đã chết. Còn những tay giao dịch quyền chọn thì kiếm được hàng triệu đô-la.
Giao dịch một chiều, loại hình giao dịch trong đó quyền chọn giá lên nhiều hơn hẳn quyền chọn giá xuống đối với AMR và UAL ngay trước sự kiện 11/9, sẽ không phải là điều gì bất thường nếu có những thông tin tiêu cực về hai mã cổ phiếu này. Nhưng trong những ngày đó, trên thị trường không có bất cứ thông tin gì liên quan đến ngành hàng không. Cổ phiếu của các hãng hàng không lớn khác như Southwest và US Airways không xuất hiện hiện tượng giao dịch giá xuống quy mô lớn như trường hợp xảy ra với American và United.
Tất cả những gì người ta thấy là làn sóng đặt cược một chiều cực kỳ lớn rằng giá cổ phiếu của American và United Airlines sẽ giảm trong bốn ngày giao dịch cuối cùng trước sự kiện 11/9. Những người giao dịch dày dạn kinh nghiệm và những chương trình máy tính tinh vi đã nhận ra kiểu mẫu của hiện tượng này – đó chính là giao dịch nội gián dựa trên việc biết trước tin tức bất lợi. Chỉ có bọn khủng bố và mạng lưới xã hội của chúng mới biết rằng tin tức đó là cuộc tấn công đẫm máu nhất trong lịch sử Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Những số liệu nói trên không phải là chứng cứ duy nhất cho thấy mối liên hệ giữa vụ khủng bố và giao dịch nội gián dựa trên việc biết trước thông tin về nó. Vậy mà bất chấp những bằng chứng rõ ràng như vậy, Uỷ ban 11/9 vẫn kết luận:
Những cuộc điều tra toàn diện được tiến hành bởi Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái, FBI cùng các cơ quan khác không phát hiện thấy bằng chứng nào về việc có bất kỳ ai thu lợi từ hoạt động giao dịch chứng khoán nhờ việc biết trước thông tin về các vụ tấn công.
Thứ ngôn ngữ được sử dụng trong Báo cáo của Ủy ban 11/9 chỉ là một mánh khóe của giới luật sư. Nói rằng các cơ quan không phát hiện bằng chứng nào không có nghĩa là không có bằng chứng, chỉ đơn giản là họ không tìm ra nó. Kết luận rằng không ai thu lợi không có nghĩa là giao dịch không diễn ra, chỉ đơn giản là người ta không thể xác định được khoản lợi nhuận từ đó. Có lẽ thủ phạm đã không thu được chiến lợi phẩm, giống kiểu một tên cướp nhà băng đánh rơi bao tải tiền cướp được khi ngồi trên máy bay. Những kẻ khủng bố giao dịch nội gián có thể đã không biết rằng sàn giao dịch sẽ đóng cửa trong nhiều ngày sau vụ tấn công, khiến chúng không thể nào thực hiện giao dịch và thu lợi nhuận.
Mặc cho các nhà chức trách phủ nhận thế nào thì bằng chứng về mối liên hệ giữa khủng bố và giao dịch cổ phiếu vẫn được tìm thấy khi đào sâu hơn vào các vấn đề pháp lý và hiện tượng phóng đại tín hiệu trên thị trường chứng khoán. Những giao dịch quyền chọn bất thường dựa trên việc biết trước về vụ 11/9 được giới học thuật nghiên cứu rất kỹ. Tài liệu này phần lớn được xuất bản sau khi Ủy ban 11/9 hoàn thành cuộc điều tra của họ, nhấn mạnh quan điểm rằng hoạt động giao dịch quyền chọn trước 11/9 dựa trên thông tin nội gián.
Nghiên cứu học thuật nổi bật nhất về mối liên hệ giữa hoạt động giao dịch nội gián của phe khủng bố với sự kiện 11/9 được Allen M. Poteshman – Giáo sư trường Đại học Illinois tại Urbana-Champaign thực hiện trong bốn năm, từ 2002 đến 2006. Những kết luận của ông được trường Đại học Chicago xuất bản vào năm 2006.
Poteshman đã dựa trên những kỹ thuật thống kê rất đáng tin cậy, tương tự như việc dùng ADN để chứng minh một tội ác khi không có ai làm chứng vậy. Trong các vụ án giết người, công tố viên so sánh ADN của bị cáo với mẫu thu thập được tại hiện trường vụ án. Trường hợp ADN trùng khớp nhưng bị cáo vô tội vẫn có thể xảy ra, tuy nhiên xác suất nhỏ đến nỗi bồi thẩm đoàn thường vẫn sẽ tuyên án. Có vài hệ số tương quan thống kê mạnh đến mức người ta phải ghi nhận những kết luận hiển nhiên từ chúng, bất chấp xác suất sai vô cùng bé.
Các nhà nghiên cứu như Poteshman thu thập rất nhiều bộ dữ liệu lớn rồi thiết lập hành vi thông thường của cổ phiếu, gọi là đường cơ sở. Sau đó, họ so sánh hoạt động giao dịch trên thực tế trong một giai đoạn mục tiêu với đường cơ sở này để xem giai đoạn mục tiêu này thể hiện hành vi bình thường hay cực đoan. Các biến số giải thích được kiểm tra để tính đến cả hành vi cực đoan. Những kỹ thuật này đã được chứng minh là đáng tin cậy trong nhiều bối cảnh điều tra và cưỡng chế. Ví dụ, trong suốt thời kỳ bong bóng dot-com, chúng đã được dùng để tìm ra hành vi ghi lùi ngày quyền chọn bất hợp pháp nhưng rất phổ biến của các công ty công nghệ.
Dữ liệu mà Poteshman sử dụng để thiết lập đường cơ sở bao gồm một báo cáo hàng ngày về giao dịch quyền chọn trên tất cả cổ phiếu S&P Index từ 1990 đến ngày 20 tháng 9 năm 2001, gần như ngay sau sự kiện 11/9. Ông tập trung vào vài hệ số có liên quan trước khi chuyển sang dữ liệu nhiều khả năng được bọn khủng bố sử dụng hơn cả – mức mua quyền chọn bán cổ phiếu AMR và UAL. Một quyền chọn bán trên một cổ phiếu chính là một vụ đặt cược rằng giá cổ phiếu đó sẽ giảm.
Poteshman chia dữ liệu thành các khoảng thập phân từ 0,0 đến 1,0, với 0,0 biểu diễn mức cực tiểu trong giao dịch quyền chọn bán và 1,0 biểu diễn mức cực đại. Ông phát hiện ra rằng, trong bốn ngày giao dịch ngay trước sự kiện 11/9, giá trị trung bình hàng ngày cực đại đối với cả hai hãng hàng không bị không tặc là 0,99 và giá trị cực đại của toàn bộ giai đoạn “cửa sổ”(2) kéo dài bốn ngày là 0,96. Trong bối cảnh không có bất cứ tin gì giải thích được độ lệch gần như tuyệt đối này, kết luận khả dĩ nhất là hoạt động này là dấu hiệu của hành vi giao dịch nội gián. Poteshman viết:
2 Giai đoạn cửa sổ (window period): Khoảng thời gian trong đó các nhân viên, cấp quản lý và những thành viên nội bộ của một công ty được phép giao dịch cổ phiếu của công ty đó.
Có bằng chứng cho thấy hoạt động bất thường của thị trường quyền chọn trong những ngày trước 11 tháng 9 phù hợp với giả thiết cho rằng các nhà đầu tư giao dịch dựa trên việc biết trước về những vụ tấn công.
Một nghiên cứu sâu rộng khác được Viện Tài chính Thụy Sĩ thực hiện cũng đi đến kết luận như trên. Nghiên cứu này xem xét giai đoạn từ 1996 đến 2009 và phân tích số lượng giao dịch quyền chọn trị giá 9,6 triệu đô-la trong 31 công ty mà họ lựa chọn, bao gồm cả American Airlines. Liên quan đến sự kiện 11/9, nghiên cứu kết luận:
Các công ty như American Airlines, United Airlines, Boeing và ở chừng mực nào đó là cả Delta Air Lines và KLM có vẻ đã trở thành mục tiêu của các hoạt động giao dịch nội gián trong giai đoạn trước khi xảy ra hai vụ tấn công. Số lượng quyền chọn bán mới được phát hành trong khoảng thời gian đó rất cao và tổng lợi nhuận… được thực hiện bằng việc thi hành quyền chọn lên tới hơn 16 triệu đô-la. Những phát hiện này góp phần củng cố bằng chứng trong nghiên cứu của Poteshman (2006), người cũng lập hồ sơ về những hoạt động bất thường trên thị trường quyền chọn ngay trước hai vụ tấn công khủng bố.
Ủy ban 11/9 đã biết về những số liệu giao dịch mà các học giả sử dụng. Họ cũng không lạ gì việc giới truyền thông cho rằng bọn khủng bố đã tiến hành giao dịch nội gián. Tuy nhiên, họ phủ nhận mọi mối liên hệ giữa hoạt động mua bán quyền chọn và bọn khủng bố. Lý do là vì họ không hiểu được sự khuếch tán tín hiệu (signal amplification).
Sự khuếch tán tín hiệu trong hoạt động giao dịch cổ phiếu mô tả trạng thái trong đó một lượng nhỏ giao dịch bất hợp pháp dựa trên thông tin nội gián dẫn đến một lượng lớn hơn nhiều giao dịch hợp pháp dựa trên quan điểm cho rằng “ai đó biết điều gì đó mà mình không biết”. Đó là trường hợp những người giao dịch hợp pháp ăn theo một vụ giao dịch khởi nguồn phi pháp mà không biết nó có vấn đề về pháp lý.
Xin nhắc lại một lần nữa: Không ai có thể giao dịch một mình. Cứ mỗi người mua quyền chọn bán thì có một người bán để hành vi giao dịch diễn ra. Mỗi vụ giao dịch lại được ghi nhận trên hệ thống báo cáo giá được gửi đến những người giao dịch chuyên nghiệp. Ngay cả một đợt mua quyền chọn bán giá trị rất nhỏ cũng không thể qua mắt nhóm người này. Trong những ngày trước sự kiện 11/9, hoàn toàn không có bất cứ tin tức gì đáng kể về American hay United Airlines. Bất cứ người giao dịch chuyên nghiệp nào nhìn thấy một vụ giao dịch nhỏ cũng sẽ tự hỏi, tại sao một người lại đặt cược rằng cổ phiếu của hãng hàng không này sẽ giảm. Cô ta không biết ai đang giao dịch, nhưng sẽ giả định rằng người đó biết mình đang làm gì và phải có lý do để làm vậy. Có thể chuyên gia này sẽ mua một số lượng quyền chọn bán lớn hơn nhiều cho tài khoản cá nhân của mình để ăn theo vụ giao dịch nội gián của người xa lạ.
Rất nhanh chóng, những người khác bắt đầu để ý đến hoạt động này và cũng đổ xô đi mua quyền chọn bán. Mỗi vụ giao dịch sẽ làm tăng tổng giá trị quyền chọn bán được mua và khuếch đại tín hiệu ban đầu thêm một chút. Tình huống xấu nhất là động lực sẽ đẩy thị trường đến trạng thái hỗn loạn đỉnh điểm như trong phim Wall Street, khi vụ giao dịch ban đầu trên cổ phiếu Blue Star Airlines do Bud Fox (Charlie Sheen thủ vai) thực hiện bắt đầu sụp đổ ngoài tầm kiểm soát giữa những tiếng la hét “Bán hết đi!” và “Chúng ta phải thoát khỏi nó ngay!”
Trở lại với vụ 11/9, 4.516 quyền chọn bán – tương đương với 451.600 cổ phần của American Airlines đã được giao dịch trong ngày 10 tháng 9 năm 2001, ngay trước ngày diễn ra vụ khủng bố. Đại đa số những giao dịch này hợp pháp. Tuy nhiên, chỉ cần một số lượng nhỏ giao dịch nội gián của bọn khủng bố là đủ để đẩy quả bóng tuyết lăn xuống dốc và tạo thành một giá trị giao dịch ăn theo hợp pháp lớn hơn rất nhiều. Những người giao dịch ăn theo hoàn toàn không biết trước về vụ tấn công, họ chỉ đặt cược rằng người khác biết tin tức tiêu cực chưa công khai gì đó về AMR.
Họ đã đúng.
Lý lẽ được nhiều cơ quan tình báo sử dụng để phản bác ý kiến cho rằng có hoạt động giao dịch nội gián của phe khủng bố là: Bọn khủng bố sẽ không bao giờ xem thường việc giữ bí mật hành động đến nỗi tham gia một cách khinh suất vào các hoạt động giao dịch nội gián, vì như vậy sẽ có khả năng bị phát hiện. Rất dễ để bẻ gãy lý lẽ này. Không ai bảo tên không tặc Mohamed Atta đã mua quyền chọn mua cổ phiếu AMR thông qua một tài khoản E*Trade trên đường đi khủng bố chuyến bay 11 của American Airlines khởi hành từ sân bay Logan, Boston. Người giao dịch nội gián không phải là những tay khủng bố, mà là các thành phần tham gia mạng lưới xã hội của chúng.
Những yêu cầu phải giữ bí mật hành động dễ dàng bị lòng tham cố hữu gạt qua một bên. Trường hợp điển hình là chuyên gia trang trí nhà cửa Martha Stewart. Năm 2001, Stewart là một trong những người phụ nữ giàu nhất thế giới nhờ vào thành công trong lĩnh vực xuất bản và các dự án đầu tư vào truyền thông liên quan đến nấu ăn và trang trí nhà cửa. Năm đó, cô ta bán cổ phiếu trên ImClone Systems dựa vào mánh khóe của người mối giới và tránh được khoản thua lỗ khoảng 45.000 đô-la, con số rất nhỏ so với tài sản của Stewart. Tuy nhiên, năm 2004, cô ta bị buộc tội thông đồng, phá hoại quá trình tư pháp và làm giả báo cáo tài chính liên quan đến vụ giao dịch nói trên. Kết quả là cô ta phải vào tù.
Khi đứng trước cơ hội đặt cược vào một điều chắc chắn, lòng tham thường chiến thắng lý lẽ thông thường và khiến vụ cá cược đó trở nên hấp dẫn khôn cưỡng. Các tài liệu ghi chép về hoạt động giao dịch nội gián đầy rẫy những vụ như thế. Khi cơ hội đến thì một tên đồng minh khủng bố cũng chẳng sáng suốt hơn một người nổi tiếng và siêu giàu có.
Rõ ràng những phân tích về mạng lưới xã hội của bọn khủng bố, phương pháp thống kê, hiệu ứng khuếch tán tín hiệu và quan điểm của các chuyên gia rất có sức nặng. Vậy tại sao Ủy ban 11/9 lại không thể kết luận rằng bọn khủng bố đã giao dịch trong AMR và UAL dựa trên việc biết trước vụ tấn công? Câu trả lời nằm trong chính Báo cáo của Ủy ban 11/9, phần chú thích 130 của chương 5.
Chú thích 130 thừa nhận rằng hoạt động trong AMR và UAL trước 11/9 là “rất đáng nghi ngờ”. Nó cũng nói, “Trên thực tế, một số giao dịch bất thường đã diễn ra, nhưng mỗi vụ giao dịch này lại có một cách giải thích rất lỏng lẻo.” Nhìn gần hơn vào những cách giải thích “lỏng lẻo” này, chúng ta sẽ nhận thấy những sai lầm trong cách lập luận của Ủy ban.
Ví dụ, báo cáo ghi nhận “một nhà đầu tư tổ chức có trụ sở tại Mỹ không hề có liên quan gì với Al Qaeda đã mua 95% quyền bán cổ phiếu UAL vào ngày 6 tháng 9, đây là một phần của chiến lược giao dịch. Trong đó, họ cũng đồng thời mua 115.000 cổ phần của American.” Có hai cách giải thích cho điều này:
Một là, tỉ lệ phần trăm rất cao mà Ủy ban cho rằng vô can kia hoàn toàn nhất quán với hiện tượng khuếch tán tín hiệu. Chỉ có một lượng giao dịch rất nhỏ ban đầu là do bọn khủng bố thực hiện. Báo cáo của Ủy ban 11/9 không đưa ra bằng chứng nào cho thấy họ đã thử tiến hành bất kỳ hành động nào để đào sâu hơn vào vấn đề và tiếp cận tín hiệu ban đầu này. Thay vào đó, họ đã bị lừa bởi những giao dịch vô can phát sinh.
Hai là, Ủy ban 11/9 dựa vào nhà đầu tư trên nói rằng số quyền bán cổ phiếu UAL mà anh ta đã mua là một phần trong chiến lược lớn hơn liên quan đến cả việc mua cổ phần AMR, một dạng giao dịch giá lên - giá xuống. Điều này thể hiện sự ngờ nghệch của một bộ phận người trong Ủy ban. Các nhà đầu tư tổ chức lớn có vô số vị thế chẳng liên quan gì đến nhau nhưng nó có thể được chọn sau khi giao dịch xong để cho các nhà điều tra thấy động cơ của vụ giao dịch là hoàn toàn trong sáng. Nhìn bề mặt thì vị thế AMR của nhà đầu tư này không lý giải được tại sao anh ta lại bán khống nhiều cổ phiếu UAL như vậy.
Báo cáo nói tiếp, “Chúng tôi đã truy ra nguồn gốc của nhiều vụ giao dịch nhìn có vẻ đáng ngờ ở Mỹ vào ngày 10 tháng 9 bắt nguồn từ một bản tin chuyên về giao dịch quyền chọn được fax từ Mỹ đến người đăng ký vào Chủ nhật, ngày 9 tháng 9, trong đó khuyên họ nên cân nhắc những giao dịch này.” Phân tích này cho thấy rằng người của Ủy ban hiểu biết rất hạn chế về cách thức hoạt động của các chương trình nghiên cứu tại Phố Wall.
Có hàng nghìn mẩu tin chia sẻ các mánh lới giao dịch đang được phát tán. Vào bất cứ ngày nào, bạn có cũng thể tìm thấy ít nhất một lời khuyên mua hoặc bán cổ phiếu của những công ty lớn nhất được niêm yết trên Sàn Giao dịch Chứng khoán New York. Như vậy, tờ bản tin gợi ý mua quyền chọn bán trên cổ phiếu của American Airlines hết sức bình thường. Chắc chắn cùng lúc đó cũng có những bản tin khác gợi ý theo hướng ngược lại. Việc chỉ chọn bằng chứng phù hợp với một giả thuyết mà bỏ qua những bằng chứng khác là một ví dụ cho thấy sự thiên kiến, nguyên nhân lớn nhất dẫn đến những phân tích tình báo nhiều sai sót.
Một vấn đề nữa đối với lời giải thích liên quan đến bản tin nói trên là, họ tin rằng lời khuyên trong đó không liên quan đến hoạt động giao dịch nội gián đang diễn ra trong AMR. Tại sao lại nhìn nhận bản tin như một tín hiệu trong khi thực tế nó là một phần của nhiễu loạn? Ví dụ, vào ngày 7 tháng 9, khối lượng giao dịch trong AMR tăng gấp đôi so với ngày trước đó, đạt mức cao nhất trong gần ba tháng với giá cổ phiếu giảm dần. Mẫu hình này nhất quán với hoạt động giao dịch nội gián ngay trước cuộc tấn công ngày 11 tháng 9. Khả năng khối lượng quyền bán ngày 7 tháng 9 dẫn đến lời khuyên trên bản tin ngày 9 tháng 9 còn lớn hơn khả năng bản tin đó dẫn đến việc ồ ạt mua quyền bán ngày 10 tháng 9.
Cách giải thích hợp lý hơn là: Toàn bộ chuỗi sự kiện từ ngày 6 tháng 9 đến ngày 10 tháng 9 là một hiện tượng khuếch tán tín hiệu do một khối lượng giao dịch nội gián nhỏ ban đầu gây ra. Thật là một kỹ thuật pháp lý kém cỏi khi cô lập một sự kiện duy nhất như bản tin nói trên và chấp nhận nó như lời giải thích cho toàn bộ vụ việc mà không tham chiếu đến những sự kiện trước đó. Sẽ tốt hơn nếu lùi lại một bước để nhìn rõ bức tranh toàn cảnh và tách biệt giữa tín hiệu với nhiễu loạn.
Những kẻ giao dịch nội gián và thành phần ăn theo đương nhiên là sẽ giữ các báo cáo nghiên cứu có lợi cho hoạt động của mình phòng khi SEC triệu tập. SEC thường tổ chức các cuộc điều tra bất cứ khi nào họ nhận thấy hoạt động giao dịch đáng ngờ liên quan đến một sự kiện gây biến động thị trường. Việc đưa cho các điều tra viên của SEC một báo cáo nghiên cứu nào đó chính là cách để đuổi họ đi. Trong giao dịch cổ phiếu, bọn tội phạm tốn rất nhiều công sức để tự chuẩn bị những báo cáo nghiên cứu cho mục đích duy nhất là dựng nên một câu chuyện thuyết phục phòng trường hợp hoạt động giao dịch nội gián của chúng bị nghi ngờ. Nhìn vào kỹ thuật đánh lừa điều tra viên được “ưa chuộng” này, thật không may khi Báo cáo của Ủy ban 11/9 lại coi trọng một bản tin duy nhất.
Khi xem xét bằng lý thuyết khuếch tán tín hiệu, “thuyết người mua lớn hơn” và “thuyết bản tin” của Ủy ban 11/9 được nhắc đến trong chú thích 130 càng thêm khẳng định việc có giao dịch nội gián thay vì phản bác nó. Hơn nữa, hai thuyết này không bao giờ chỉ đích danh hoạt động mua quyền chọn bán ở United Airlines vào ngày 7 tháng 9 và những giao dịch đáng ngờ khác.
Chúng ta cũng cần phải tách biệt phân tích giao dịch nội gián này khỏi cái gọi là Phong trào Sự thật 11/9 – cụm từ dùng để gọi những tổ chức và cá nhân khăng khăng bảo về các thuyết âm mưu liên quan đến hai vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Nhiều người cho rằng các cơ quan và nhân viên của Chính phủ Mỹ đã tham gia vào việc lên kế hoạch cho các vụ tấn công và rằng tòa tháp đôi sụp đổ do các khối chất nổ được đặt từ trước chứ không phải do tác động của hai chiếc máy bay bị không tặc. Mấy thứ vớ vẩn vô nghĩa này thực sự xúc phạm những người đã chết hoặc bị thương trong vụ tấn công và trong các chiến dịch đáp trả của quân đội sau đó. Không ai có thể phản bác bằng chứng thuyết phục về việc các vụ tấn công đã được lên kế hoạch và thực hiện bởi Al Qaeda. Báo cáo của Ủy ban 11/9 là một bản tóm tắt xuất sắc và kỳ công, một công trình nghiên cứu lịch sử để đời, bất chấp những sai sót khó tránh khỏi khi mà phạm vi nghiên cứu quá rộng lớn như vậy. Hơn thế nữa, không có gì mâu thuẫn giữa câu chuyện được thừa nhận rộng rãi về sự kiện 11/9 với hoạt động giao dịch nội gián của phe khủng bố. Xét đến mức độ quan trọng của vụ tấn công và những nhu cầu của bản chất con người thì đáng lẽ người ta nên biết rằng giao dịch nội gián chắc chắn sẽ xảy ra. Có quá nhiều bằng chứng về mặt thống kê, hành vi và cả những giai thoại về các phi vụ giao dịch nội gián trước ngày 11 tháng 9.
Giao dịch nội gián của phe khủng bố không phải là tình tiết do Chính phủ Mỹ xây dựng nên, mà chỉ là sự mở rộng của tình tiết khủng bố. Nó hèn hạ và tầm thường. Mạng lưới nhỏ bé của những kẻ thân quen với bọn khủng bố không thể cưỡng lại được sức hấp dẫn của việc đặt cược trên một điều chắc chắn và hiệu ứng khuếch tán tín hiệu đảm nhiệm phần còn lại. Tuy nhiên, tín hiệu không hề bị che giấu. Trên màn hình giao dịch khắp thế giới, bằng chứng về những vụ tấn công sắp xảy ra quá hiển nhiên đối với những ai đang quan sát hoạt động giao dịch quyền chọn trên cổ phiếu của American và United Airlines.
Như những lời ớn lạnh của Giám đốc CIA George Tenet: “Cả hệ thống đang nhấp nháy đỏ.”
DỰ ÁN PROPHESY
Nếu như Ủy ban 11/9 đã tuyên bố khép lại chủ đề về hoạt động giao dịch nội gián của phe khủng bố thì một cơ quan Chính phủ khác vẫn đang tích cực đào bới sâu hơn, bất chấp vốn hiểu biết có phần hạn chế về thị trường vốn và quyền chọn.
Cơ quan Tình báo Trung ương đã ở trong tình trạng báo động từ trước ngày 11 tháng 9, dựa trên một lượng lớn thông tin cho thấy một cuộc tấn công nghiêm trọng có thể đang được tiến hành. Ngay sau khi sự việc xảy ra, CIA lập tức xem xét rất nhiều báo cáo về hoạt động giao dịch bất thường đối với cổ phiếu của ngành hàng không và các loại cổ phiếu khác trong những ngày trước 11 tháng 9. Nhưng họ gặp phải một vấn đề khi theo đuổi những đầu mối này, đó là họ gần như không có một chuyên gia nào về thị trường vốn cũng như hoạt động giao quyền chọn.
Tại thời điểm đó, lỗ hổng năng lực này không có gì đáng ngạc nhiên. Trước khi quá trình toàn cầu hóa diễn ra, thị trường vốn không phải là mối quan tâm đối với an ninh quốc gia. Các thị trường chủ yếu hoạt động trong nước và chịu sự kiểm soát của các “ông trùm” ở quốc gia đó. Một số ngân hàng, chẳng hạn như Citibank, là tập đoàn quốc tế, nhưng họ điều hành các công ty cho vay truyền thống và không tham gia vào thị trường cổ phiếu. CIA không có chuyên gia về thị trường vốn vì họ không được yêu cầu phải để mắt đến vấn đề này trong suốt cuộc Chiến tranh Lạnh, các thị trường không phải là một phần của chiến trường đó.
Kết quả là, sau vụ 11/9, khi nhận được các báo cáo cho thấy hoạt động giao dịch nội gián của phe khủng bố có thể đã diễn ra, không một ai trong CIA có đủ kinh nghiệm cần thiết để đánh giá xem nó đã xảy ra như thế nào và có ý nghĩa ra sao đối với an ninh quốc gia. May thay, có một chuyên viên phân tích tình báo lớn tuổi đã nắm được những ý nghĩa này khá đầy đủ.
Randy Tauss sống khá bình lặng ở khu thượng lưu Washington, D.C., ven khu McLean, bang Virginia, cách trụ sở CIA không xa. Trước đây, ông làm việc trong CIA suốt 37 năm, chủ yếu ở phòng Phân tích thuộc ban Tin tức Tình báo, rồi về hưu năm 2008. Ông là một nhà toán học và vật lý học lỗi lạc được CIA trao rất nhiều huân - huy chương vì những thành quả đạt được trong lĩnh vực kỹ thuật chuyên môn và suy luận logic. Mặc dù phần lớn công việc của Tauss liên quan đến các hệ thống vũ khí phức tạp nhưng ông cũng nổi tiếng cả trong và ngoài Cục Tình báo Trung ương Mỹ sau khi tham gia giải mã bí ẩn về vụ nổ trong không trung của chiếc TWA Flight 800 vào năm 1996.
Tauss còn có một nghề tay trái khác. Nghề này không phục vụ gì cho công việc thường ngày, nhưng ông cũng say mê nó như say mê công nghệ và vũ khí. Ông là một tay chơi cổ phiếu và quyền chọn đầy tham vọng, thường sử dụng các kỹ năng toán học của mình để tìm kiếm những điểm bất thường rất nhỏ trong giá quyền chọn, dựa vào đó để giao dịch và thu lợi cho tài khoản cá nhân. Tauss theo đuổi lĩnh vực giao dịch quyền chọn với một sự đam mê mãnh liệt. Và sau chừng ấy năm làm việc ở CIA, trong mắt các đồng nghiệp, danh tiếng của ông về tài giao dịch chứng khoán cũng gần ngang ngửa với danh tiếng về tài phân tích tình báo. Khi câu chuyện về hoạt động giao dịch nội gián nổi lên sau sự kiện 11/9, không có gì lạ khi cái tên Randy Tauss lọt vào “mắt xanh” của ban Giám đốc cấp cao CIA.
Tháng 10 năm 2001, chỉ vài tuần sau vụ tấn công, phòng Phân tích Khủng bố của CIA mời Tauss về làm Giám đốc một dự án nghiên cứu vấn đề: Liệu bọn khủng bố có sử dụng những thông tin biết trước về vụ tấn công để thu lợi trên các thị trường tài chính hay không? Liệu cộng đồng tình báo có thể nhận biết được những kế hoạch như vậy và ngăn chặn kịp thời hay không. Đây là một trong những dự án dài hơi và bất thường nhất trong lịch sử Cục Tình báo Trung ương Mỹ.
Dự án được đặt tên là Prophesy. Tính đến khi nó khép lại vào năm 2004, đã có gần 200 chuyên gia tài chính – bao gồm nhân viên sàn giao dịch chứng khoán, nhà quản lý quỹ đầu cơ, chủ nhân giải Nobel, người giao dịch sàn, chuyên gia công nghệ và chuyên gia phân tích hệ thống – đóng góp thời gian cũng như công sức vào đó. Tauss đảm đương một nhiệm vụ hết sức khó khăn, đó là giả lập mô hình tư duy của tên khủng bố và tư duy của người giao dịch chứng khoán ở Phố Wall. Ông nhận thấy rằng, hai tư duy này có khá nhiều điểm chung.
Dự án Prophesy được chính thức khởi động vào tháng 4 năm 2002, đội ngũ nhân sự chủ chốt được hoàn thiện vào cuối tháng 5. Nhiệm vụ đầu tiên của họ là thiết lập một danh sách mục tiêu tiềm năng của các cuộc tấn công khủng bố và liên hệ những mục tiêu này với những cổ phiếu được giao dịch công khai có khả năng cảnh báo trước thông qua sự thay đổi giá bất thường. Danh sách những cổ phiếu dạng này rất dài, bao gồm các hãng hàng không, hãng tàu thủy du lịch, công ty dịch vụ, công viên chủ đề và các công ty khác sở hữu tài sản quan trọng về mặt ý nghĩa tượng trưng.
Đến đầu năm 2003, đội phụ trách Dự án Prophesy do Tauss dẫn đầu đã tiếp cận Phố Wall, các cơ quan Chính phủ và tập hợp các nhóm đóng góp ý kiến cho từng nhóm mục tiêu để làm rõ các chi tiết mang tính thực tiễn trong lý thuyết của Tauss. Giả định được sử dụng rộng rãi là bọn khủng bố sẽ trở lại tấn công nước Mỹ với kế hoạch táo bạo. Đến lúc ấy, liệu thông tin có bị rò rỉ không? Liệu một đồng minh khủng bố có thực hiện giao dịch nội gián không? Vụ giao dịch này có thể được phát hiện, qua đó xác định được người giao dịch và mục tiêu của hắn ta không? Chính phủ có thời gian để phản ứng và ngăn chặn vụ tấn công không? Đây chính là những vấn đề mà Dự án Prophesy phải tìm ra lời giải.
Cơ duyên đưa tôi đến Dự án Prophesy bắt đầu từ khu biệt thự Kaiser trên đỉnh núi ở đảo St. Croix, địa điểm ngoại lai đến mức được chọn làm trường quay cho một tập phim James Bond. Kaiser gồm ba biệt thự được kết nối với nhau bằng đường nội bộ, tọa lạc trên đồi Recovery nhìn xuống thị trấn Christiansted trên bờ biển phía Bắc của đảo. Trung tâm của Kaiser là Nhà Trắng, một ngôi nhà theo phong cách quốc tế rộng lớn, nhiều tầng, sơn trắng với một bể bơi ngoài trời rất rộng, được “trang điểm” bằng những nhà thư giãn vòm hình mái lều với trụ sắt và kevlar(3), gợi nhớ đến Sân bay Denver.
3 Kevlar: Một loại sợi có cấu trúc mạch dài và định hướng cao, bền gấp năm lần thép nhưng lại rất dẻo dai, thường được sử dụng làm vật liệu chế tạo áo giáp chống đạn.
Mùa đông năm 2003, tôi đến đây tham dự một cuộc họp kín với những nhà tài phiệt chóp bu từ các lĩnh vực định chế, quỹ đầu cơ và quỹ đầu tư vốn tư nhân nhằm thảo luận về vấn đề quan trọng tiếp theo trong hoạt động đầu tư thay thế – một dự án kết hợp các chiến lược quỹ đầu cơ với quỹ đầu tư vốn tư nhân để tối đa hóa lợi nhuận điều chỉnh theo rủi ro.
Như mọi cuộc họp khác, giữa những giờ họp căng thẳng là thời gian giải lao để các vị khách uống nước và làm quen với nhau. Trong một lần như vậy, tôi có dịp trò chuyện với nhân vật đứng đầu của một trong những danh mục đầu tư định chế lớn nhất thế giới. Ông ấy hỏi về sự nghiệp của tôi và tôi kể lại những ngày đầu tiên tại Citibank, chi nhánh ở Karachi.
Lúc đó là khoảng những năm 1980, không lâu sau khi vua Iran bị phế truất trong cuộc Cách mạng Iran. Ayatollah Khomeini vĩ đại trở thành nhà lãnh đạo tối cao và tuyên bố Iran là một nước Cộng hòa Hồi giáo được dẫn dắt bởi luật Sharia hay luật Hồi giáo. Việc Iran đổi Chính phủ đã gây sức ép lên Pakistan, buộc quốc gia này phải củng cố vị thế của mình trong các nước Hồi giáo. Tổng thống Pakistan Zia-ul-Haq ban hành các sắc lệnh tôn giáo, trong đó có sắc lệnh cấm các ngân hàng tính lãi các khoản cho vay, đây một điều cấm kỵ trong luật Sharia.
Citibank hoạt động rất mạnh ở Pakistan. Cái ý tưởng điều hành một ngân hàng mà không được tính lãi như sét đánh ngang tai đối với ban Giám đốc. Nhiệm vụ của tôi là trở thành chuyên gia về luật Sharia và hỗ trợ quá trình chuyển đổi hoạt động của Citibank từ bối cảnh phương Tây sang bối cảnh Hồi giáo.
Tôi đến Karachi vào tháng 2 năm 1982 và đi làm ngay. Giám đốc vùng của Citibank, Shaukat Aziz, người sau này trở thành Thủ tướng Pakistan, thường đến đón tôi ở khách sạn tôi đang ở. Trong mùa mưa, chúng tôi băng qua những con phố ngập nước chật cứng xe buýt sặc sỡ loại phổ thông và xe buýt ba bánh loại rẻ tiền, qua những người bán hàng đang nhai hạt trầu không nhóp nhép rồi phun phì phì thứ nước màu đỏ nhạt.
Khi nghe tôi kể những điều này, nét mặt của vị Giám đốc dần trở nên căng thẳng và ánh nhìn chuyển sang nghiêm trọng. Ông kéo tôi ra một góc bàn, cách xa những người khác, rồi cúi xuống và nói nhỏ: “Xem chừng anh biết nhiều về tình hình tài chính của các nước Hồi giáo và đường đi nước bước của mình ở Pakistan nhỉ.” Mặc dù hiểu biết của tôi về khu vực này khá lỗi thời vì những chuyện nói trên đã xảy ra hàng thế kỷ trước rồi nhưng tôi vẫn đáp, “Vâng, tôi đã làm việc rất chăm chỉ ở đó. Tôi hiểu các ngân hàng Hồi giáo.”
Ông cúi xuống gần hơn nữa và nói, “Tôi đang giúp CIA thực hiện một dự án liên quan đến hoạt động tài chính của bọn khủng bố. Họ không giỏi chuyên môn cho lắm và đang cố gắng tìm người. Họ hỏi tôi có biết ai không. Nếu có ai từ cơ quan này liên hệ với anh thì anh sẽ nghe máy chứ?” Tôi đồng ý.
Đối với những người còn quá trẻ để nhớ lại sự kiện 11/9 và chuỗi ngày sau đó, thật khó để mô tả cho các bạn hiểu sự giận dữ pha lẫn lòng yêu nước nhiệt thành đang bao trùm cả nước Mỹ, đặc biệt là New York, nơi nhiều người đã mất bạn bè, người thân hoặc có quen biết với ai đó phải gánh chịu tấn thảm kịch. Tất cả chúng tôi đều tự hỏi bản thân có thể làm gì. Lời khuyên duy nhất mà chúng tôi nhận được từ Washington là “đến Disney World… cùng gia đình bạn và tận hưởng cuộc sống”. Bởi vậy, đây chính là cơ hội để tôi làm điều gì đó có ích, hơn là việc ăn chơi mua sắm.
Vài ngày sau, điện thoại trong văn phòng tôi ở New York đổ chuông. Đầu dây bên kia tự giới thiệu anh ta là người của Văn phòng Phụ trách các vấn đề xuyên quốc gia, thuộc Ban Tin tức Tình báo của Cục Tình báo Trung ương Mỹ. Anh ta hỏi, liệu tôi có sẵn lòng tham gia vào một đội nghiên cứu các khía cạnh của tài chính khủng bố, đặc biệt là hoạt động giao dịch nội gián trước các cuộc tấn công khủng bố lớn hay không? Anh ta sẽ gửi cho tôi một lá thư trình bày quy mô của dự án. Tôi đồng ý. Lá thư đến sau đó không lâu, và đầu mùa hè năm 2003, tôi lên đường đến trụ sở CIA để gặp mặt những người còn lại của đội phụ trách Dự án Prophesy.
Tham gia một dự án giữa lúc lỡ cỡ chưa bao giờ là việc dễ dàng, bởi nhịp điệu cũng như văn hóa của đội đã hình thành rõ nét. Nhưng tôi hòa nhập tốt vì từng làm việc ở Phố Wall lâu hơn nhiều tình nguyện viên, đồng thời có nhiều kinh nghiệm hơn đại đa số. Chỉ trong vài tháng, tôi đã trở thành đồng quản lý dự án dưới sự chỉ đạo của Tauss.
Đóng góp đầu tiên của tôi cho Dự án Prophesy là việc chỉ ra rằng, mục tiêu của CIA đã được các quỹ đầu cơ theo đuổi hàng ngày, nhưng vì một lý do khác. CIA đang cố gắng nhận diện những tay giao dịch khủng bố, trong khi các quỹ đầu cơ lại cố gắng xác định những vụ thôn tính không được công bố. Tuy nhiên, các kỹ thuật phân tích big-data(4) được hai bên áp dụng thì như nhau.
4 Big-data là tập hợp dữ liệu có dung lượng vượt ngoài khả năng xử lý của những ứng dụng và công cụ truyền thống.
Quy trình xác định những vụ giao dịch đáng nghi ngờ gồm ba bước.
• Bước một: Thiết lập một đường cơ sở cho hoạt động giao dịch bình thường, sử dụng những chỉ tiêu như tính dễ biến động, khối lượng giao dịch bình quân theo ngày, tỉ lệ quyền chọn bán/quyền chọn mua, lãi suất ngắn hạn và xung lượng;
• Bước hai: Giám sát hoạt động giao dịch và phát hiện những điểm bất thường liên quan tới đường cơ sở;
• Bước ba: Tìm hiểu xem có bất kỳ thông tin công khai nào giải thích được sự bất thường đó hay không.
Nếu một cổ phiếu tăng mạnh vì Warren Buffett mua một vị thế lớn thì không có gì bất thường, điều này đã được dự đoán trước. Nhưng khi một cổ phiếu tăng mạnh mà không có thông tin nào cả thì rất đáng ngờ. Suy luận logic sẽ là, có ai đó biết điều gì đó mà bạn không biết. Một quỹ đầu cơ có thể không quan tâm đến nguồn gốc của thông tin ẩn đó – nó chỉ “hùa” theo thôi. Đối với CIA, những kết quả quan sát được này chính là manh mối. Và manh mối đang ngày một rõ hơn.
Giống như mọi dự án phát triển khác, Prophesy có một đội lập trình viên và quản trị hệ thống để thiết kế các giao thức an ninh, tương kết và giao diện người dùng. Cả đội đã kết hợp niềm vui của một công ty khởi nghiệp nhỏ ở Thung lũng Silicon với văn hóa chúng-ta-có-thể-làm-được của CIA theo một cách thức độc nhất vô nhị để đón đầu chủ nghĩa khủng bố dựa trên chính những thông tin mà mọi người xem hàng ngày trên kênh Bloomberg.
Cao trào của Dự án Prophesy là một bài tập đội đỏ vào tháng 9 năm 2003. Đội đỏ là phương thức kinh điển để kiểm tra các giả thuyết và mô hình bằng cách lập ra một nhóm chuyên gia đóng vai “kẻ thù” để diễn những kịch bản được thiết kế nhằm mục đích làm lộ điểm yếu hay sai sót của các giả định gốc.
Đội đỏ của chúng tôi na ná một đội Pro Bowl với những chuyên gia giao dịch chứng khoán nổi tiếng đến từ các ngân hàng lớn nhất, các quỹ đầu cơ và các nhà đầu tư định chế trên thế giới cùng một số học giả uy tín. Bên cạnh John Mulheren, đội đỏ còn có Steve Levitt – Giáo sư của trường Đại học Chicago, tác giả của cuốn Freakonomics, Dave “Davos” Nolan – tỉ phú quỹ đầu cơ và một số nhân vật cấp cao từ Morgan Stanley, Dutsche Bank, Goldman Sachs. Trong những ngày ảm đạm sau vụ 11/9, thật xúc động biết bao khi thấy khối tư nhân sẵn sàng đáp lại lời yêu cầu trợ giúp. Chúng tôi đã gọi đến hàng trăm nơi để xin lời khuyên từ các chuyên gia và không một ai từ chối. Có cả những khoảnh khắc khá kỳ cục, khi một vị CEO ở Phố Wall hỏi rằng liệu ông ấy có thể đến CIA bằng trực thăng riêng và đáp xuống Langley hay không, nhưng chúng tôi đã trả lời một cách lịch sự rằng điều này là không thể.
Đội đỏ được giao cho một kịch bản khủng bố, nhiệm vụ của họ là phải suy nghĩ như bọn khủng bố và nghĩ ra cách để giao dịch dựa trên thông tin nội bộ. Chúng tôi muốn dự đoán xem họ sẽ chọn thị trường nào, sẽ tiến hành giao dịch trước vụ tấn công bao lâu, quy mô giao dịch đến đâu và họ sẽ lên kế hoạch tẩu thoát cùng số tiền đó như thế nào. Tất cả những kinh nghiệm thực tiễn này sẽ được đối chiếu với những kết quả lý thuyết của Dự án Prophesy, để xem chúng tôi có đi đúng hướng hay không và hệ thống mà chúng tôi xây dựng nên có dự đoán được đúng kế hoạch của đội đỏ hay không.
Mỗi người trong đội đỏ sẽ tự lên kế hoạch ở bên ngoài trụ sở, giống như một bài tập về nhà. Các kết quả được trình bày trong một phiên họp nhóm tại trụ sở trong một ngày đẹp trời cuối tháng 9 năm 2003. Phiên họp kéo dài suốt một ngày. Các chuyên gia đầu tư rất hứng thú với cơ hội được trở thành kẻ xấu, tấn công những mô hình và giả định của chúng tôi.
Ý tưởng nhập vai vô cùng khác biệt này đến từ John Mulheren. Anh ta nói mình sẽ không giao dịch trước vụ tấn công mà sẽ chờ đến lúc nó diễn ra xong rồi mới bắt đầu giao dịch nội gián. Anh ta biết thị trường có thể sẽ phản ứng chậm và tin nóng thường bị truyền thông tường thuật sai hoặc sơ sài. Điều này tạo ra một khoảng thời gian “cửa sổ” kéo dài ít nhất 30 phút sau vụ tấn công, đó chính là lúc tay khủng bố tiến hành giao dịch nội gián, khi thị trường còn vật lộn để hiểu chuyện gì đang diễn ra xung quanh họ. Cái hay của việc giao dịch sau vụ tấn công là không có ai hay cái gì ghi lại diễn biến lúc đó. Thậm chí, các nhà chức trách còn không điều tra khoảng thời gian “cửa sổ” này. Về sau, Mulheren nói với chúng tôi rằng, đây chính xác là cách anh ta đã làm vào ngày 11/9.
Bất chấp sự sáng tạo vô hạn của những bộ óc tuyệt vời, hành động của “bọn khủng bố” bên đội đỏ vẫn có xu hướng xác nhận hướng suy luận của đội dự án về cách thức hoạt động của bọn khủng bố ngoài đời thực. Chúng tôi đã lập mô hình hoạt động giao dịch khủng bố từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, dự đoán rằng những kẻ giao dịch nội gián không phải bản thân bọn khủng bố mà là các thành viên trong mạng lưới xã hội của chúng. Chúng tôi cũng kết luận rằng, nhiều khả năng vụ giao dịch nội gián đó có thể được tiến hành trên thị trường quyền chọn tối đa là 72 giờ trước khi diễn ra vụ tấn công để giảm tối đa rủi ro bị phát hiện.
Chúng tôi cũng thiết lập hệ thống cảnh báo bao gồm một danh sách 400 cổ phiếu có khả năng trở thành mục tiêu hơn cả. Hành vi của cổ phiếu cơ sở được lập trình sao cho có thể nhận diện những điểm bất thường một cách hiệu quả. Chúng tôi lập nên một giao diện dạng bảng tự động nhận diện mối nguy hiểm bằng cách chia thị trường thành nhiều khu vực và đánh dấu bằng đèn đỏ, đèn vàng và đèn xanh, đại diện cho khả năng xảy ra giao dịch nội gián. Đây là một hệ thống hoàn chỉnh, từ khi phe khủng bố nhập lệnh trên thị trường cho đến khi các cơ quan chức năng mang trát hầu tòa đến phá cửa phòng tay giao dịch khủng bố đó.
Đến cuối năm 2003, chúng tôi chuẩn bị đi đến phần cuối của nghiên cứu chiến lược. Hơi buồn một chút vì như vậy có nghĩa là liên minh trí tuệ Phố Wall của chúng tôi sắp sửa tan rã. Cứ nhìn vào số lượng người tham gia và trình độ của họ thì có lẽ sẽ không bao giờ người ta lại được chứng kiến một đội ngũ thiên tài như thế xuất hiện ở CIA lần nữa. Những ghi chép hoàn chỉnh về bài tập đội đỏ đã được biên soạn và bổ sung vào kho dữ liệu chính của Dự án Prophesy.
Tuy nhiên, công việc của chúng tôi vẫn chưa xong, vì đầu năm 2004, Dự án Prophesy đã sẵn sàng để xây dựng trung tâm quan sát đầu tiên. Khi kết hợp với các nguồn phân cấp khác, chúng tôi kỳ vọng rằng hệ thống sẽ có khả năng diễn giải một mảnh giấy vụn lấy từ túi một tay khủng bố thuộc diện tình nghi ở Pakistan, ví dụ vậy. Những từ tàu thủy du lịch viết nguệch ngoạc trên đó sẽ được kết nối với một tín hiệu đỏ mà trung tâm quan sát được ở một công ty niêm yết công khai như Carnival Cruise Lines, để dự đoán một kế hoạch tấn công nhắm vào một con tàu của Carnival. Manh mối nào cũng tiết lộ điều gì đó, nhưng nếu kết nối các manh mối lại với nhau, chúng ta sẽ biết nhiều hơn gấp nghìn lần.
Chúng tôi tìm thấy nhà đầu tư lớn nhất cho dự án tại một trong những ngõ ngách không ai ngờ tới nhất của thế giới CIA. Năm 1999, một công ty tên là In-Q-Tel được thành lập để giúp CIA tiếp cận với những công nghệ tiên tiến nhất đang được ấp ủ trong các công ty start-up ở Thung lũng Silicon. Không có cách nào để hòa mình vào dòng chảy cách tân không ngừng của công nghệ nhanh hơn cách xuất hiện cùng một quyển sổ séc, sẵn sàng tài trợ cho các phát minh mới. In-Q-Tel được xem là một công ty vốn đầu tư mạo hiểm độc lập, đang phát triển ở giai đoạn đầu – và chỉ tình cờ được CIA tài trợ. Một đội nhỏ hơn được In-Q-Tel tài trợ, Dự án Prophesy chính thức kết thúc và nhóm chúng tôi chuyển sang một giai đoạn mới gọi là MARKINT, chuyên về tình báo thị trường. Đây là một nhánh mới của công tác thu thập tin tức tình báo, bên cạnh tình báo con người (human intelligence - HUMINT), tình báo tín hiệu (signals intelligence - SINGINT) và một danh sách ngắn các -INT khác. MARKINT là một cột mốc mới trong lịch sử lâu đời của hoạt động thu thập tin tức tình báo.
Trong giai đoạn 2004 - 2005, nhóm chúng tôi đã tinh chỉnh các mô hình hành vi, xây dựng quy chuẩn và mạng lưới cần thiết để hệ thống nguyên mẫu hoạt động. Ngoài Randy Tauss của CIA, chúng tôi còn cộng tác với Lenny Raymond – một chuyên gia công nghệ biết nhìn xa trông rộng và Chris Ray – một nhà toán học ứng dụng kiêm nhà lý thuyết suy luận nhân quả xuất chúng.
Nhiệm vụ của tôi là đóng góp kiến thức chuyên môn về thị trường, lập mô hình hành vi và chọn mục tiêu. Chris viết các thuật toán và thiết kế bộ dò tín hiệu. Lenny sẽ kết hợp tất cả lại với một giao diện người dùng thân thiện, ấn tượng. Randy điều hành nhân viên trong cơ quan và đảm bảo rằng chúng tôi luôn được tài trợ và hỗ trợ đầy đủ. Chúng tôi cùng nhau thực hiện một skunk worksriêng về thị trường tài chính. Thuật ngữ này được lấy theo tên của một điểm đen ở California, nơi thiết kế và chế tạo nên những chiếc máy bay do thám cực kỳ bí mật(5). Đến đầu năm 2006, hệ thống đi vào hoạt động và các tín hiệu bắt đầu xuất hiện.
5 Skunk works hay skunkworks là tên gọi chung cho những dự án (thường là bí mật) được một nhóm nhỏ, không chính thống thực hiện. Mục đích của dự án thường mang tính cách tân và phương pháp thực hiện thường rất mới mẻ.
Hệ thống vận hành tốt ngoài mong đợi. Chúng tôi lọc ra tín hiệu nào ám chỉ hoạt động giao dịch nội gián. Những tín hiệu này thường đến từ những người tham gia giao dịch trên thị trường và chưa có gì cho thấy họ liên quan đến khủng bố. Dự án MARKINT không có quyền hành gì về mặt pháp lý, vì vậy chúng tôi chỉ chuyển những trường hợp trên đến SEC, hoặc không thì lờ chúng đi. Chúng tôi gọi đây là chính sách bắt-và-thả. Chúng tôi săn tìm bọn khủng bố và để bọn lừa đảo thông thường ở Phố Wall cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Vào thứ Hai, ngày 7 tháng 8 năm 2006, hệ thống nháy đỏ trên American Airlines khi phiên giao dịch bắt đầu. Đèn đỏ là cách để chúng tôi phát hiện ra một tín hiệu giữa vô số khu vực trên bảng theo dõi mối nguy hiểm. Các chỉ số đằng sau tín hiệu này cho thấy độ mạnh của nó cực kỳ lớn, tương tự như một trận động đất 8,0 độ richter vậy. Chúng tôi rà soát nhanh tin tức trên thị trường và thấy không hề có tin gì liên quan đến American Airlines. Không có lý do gì để cổ phiếu này biến động mạnh như vậy – một dấu hiệu chắc chắn của hoạt động giao dịch nội gián dựa trên những tin tức chưa được công bố.
Hôm đó, Chris Ray đang điều khiển bộ dò tín hiệu thì gửi cho tôi một e-mail nói rằng, “Hôm nay có một sự kiện có khả năng liên quan đến khủng bố. Chúng ta bắt được một tín hiệu đỏ trên phiên mở cửa trong AMR (American Airlines).” Chris và tôi cẩn thận thu thập hồ sơ và dán nhãn thời gian đối với các tín hiệu và kết quả phân tích trong thời gian thực. Cả hai đều biết rằng, nếu một vụ khủng bố xảy ra thì những tài liệu ghi lại chuỗi sự việc xảy ra sau đó sẽ không đáng tin cho lắm và không giúp ích gì nhiều cho chúng tôi trong việc tìm kiếm manh mối. Chúng tôi muốn nhìn thấy sự việc trước khi chúng xảy ra và ghi chép lại để chứng minh giá trị của bộ dò tín hiệu.
Hết ngày 7, rồi ngày 8, không có tin tức gì về bất kỳ mối đe dọa khủng bố nào. Chúng tôi bắt đầu nghĩ rằng tín hiệu đó là lỗi dương tính.
Vào ngày thứ ba kể từ khi bắt được tín hiệu, tức thứ Năm, ngày 10 tháng 8, tôi đang viết lách trong thư viện của mình lúc 2 giờ sáng, như thường lệ. Một cái ti-vi nhỏ đặt trên giá sách cách bàn làm việc vài bước chân đang chiếu kênh CNN nhưng tắt tiếng. Tôi liếc qua và thấy một dòng tin nóng chạy dưới cuối màn hình chiếu cảnh cảnh sát Anh đang bắt giữ các nghi phạm và rời khỏi các tòa nhà cùng nhiều thùng giấy tờ và máy tính. Dòng chữ cho biết Sở cảnh sát London New Scotland Yard vừa chặn đứng một âm mưu khủng bố cho nổ tung máy bay.
Tôi lập tức bật tiếng để nghe chi tiết sự việc. Lúc đó ở London đang là ban ngày, vụ triệt hạ đã diễn ra trước đó và giờ được phát đi rộng rãi. Tôi hiểu ra rằng, âm mưu này liên quan tới các chuyến bay xuyên Đại Tây Dương từ London đến Hoa Kỳ và nhắm vào những chuyến bay có khả năng chở nhiều công dân Mỹ nhất. American Airlines là mục tiêu số một, mặc dù nhìn qua thì có vẻ như số lượng chuyến bay bị đe dọa không hể nhỏ.
Tôi biết Chris cũng thuộc loại cú đêm như mình, nên mặc dù đã 2 giờ sáng nhưng tôi vẫn gọi đến nhà cô ấy. Quả nhiên Chris còn thức. Tôi nói nhanh, “Chris, bật ti-vi lên, cô sẽ không tin chuyện gì đang diễn ra đâu.” Cô ấy làm theo và ngay lập tức hiểu được tầm quan trọng của vấn đề. Một kế hoạch đánh bom American Airlines vừa bị triệt phá chưa đầy 72 giờ sau khi chúng tôi phát hiện ra hoạt động giao dịch nội gián trên cổ phiếu của AMR. Lạnh gáy hơn nữa, chúng tôi nhận ra âm mưu đó bị lộ trong đúng khung thời gian mà mô hình hành vi của chúng tôi ước tính.
Tất nhiên, tín hiệu của chúng tôi không liên quan gì đến việc âm mưu bị chặn đứng. Với sự giúp đỡ của Cơ quan tình báo Hoa Kỳ CIA và Cơ quan tình báo Pakistan ISI, hai cơ quan tình báo của Anh là MI5 và MI6 đã theo dõi âm mưu trên trong nhiều tháng liền. Vào ngày 5 tháng 8, Tổng thống Bush đã được nghe tóm tắt về vụ việc tại trang trại của ông ở Crawford, Texas. Ngày 9 tháng 8, kẻ chủ mưu Rashid Rauf bị bắt ở Pakistan. Rauf vượt ngục năm 2007 và người ta cho rằng hắn đã bị giết trong một vụ tấn công bằng máy bay không người lái của CIA năm 2008, mặc dù các báo cáo về cái chết của hắn vẫn đang là chủ đề tranh cãi cho đến tận ngày nay.
Ngày 6 tháng 8, bọn khủng bố phát đi một tín hiệu “go” được mã hóa để khởi động kế hoạch. MI6 đã chặn được thông điệp này và chuyển đến Eliza Manningham-Buller – Giám đốc MI5. Chính tín hiệu “go” này giúp MI5 và New Scotland Yard tiến hành các vụ bắt giữ mà chúng tôi xem trên CNN ngày 10 tháng 8.
Cũng giống như tôi và Chris không biết trước chi tiết âm mưu khủng bố, những kẻ đứng sau âm mưu đó cũng không biết chúng sắp bị tóm. Sáng thứ Hai, ngày 7 tháng 8, một tên đồng bọn trong mạng lưới của chúng ở London thức dậy và bắt đầu giao dịch trong American Airlines – đợt giao dịch khởi đầu cho mẫu hình cực kỳ bất thường đã tạo nên tín hiệu đỏ trên bảng theo dõi của chúng tôi. Ai đó đã đặt cược trên một điều chắc chắn sẽ xảy ra, chính xác như những gì mà mô hình hành vi của chúng tôi đã dự đoán.
Việc bộ dò tín hiệu của chúng tôi thu được một tín hiệu cảnh báo rõ ràng trước khi âm mưu khủng bố máy bay ở Anh bị lộ đã thu hút sự chú ý từ các cấp cao nhất của hoạt động tình báo Hoa Kỳ. Ngày 2 tháng 2 năm 2007, tôi nhận được một e-mail từ Randy Tauss nói rằng giám đốc điều hành của CIA – Mike Morell muốn gặp tôi và Chris để thảo luận về bộ dò tín hiệu, cũng như tình trạng của MARKINT. Cuộc gặp sẽ diễn ra vào ngày 14 tháng 2, tức là chúng tôi có thời gian để chuẩn bị nội dung trình bày.
Morell đã làm việc ở CIA từ năm 1980 và có một sự nghiệp lẫy lừng. Ông nổi tiếng nhất với việc hộ tống George Bush trong suốt chuyến công tác vòng quanh nước Mỹ của Tổng thống trên chiếc Air Force One ngày 11/9 khi Dick Cheney, George Tenet và những người khác đang điều hành các cơ quan đầu não ở Washington và Langley. Morell cũng ở cạnh Tổng thống Obama vào tháng 5 năm 2011, khi giám sát chiến dịch triệt hạ Osama bin Laden. Trước khi về hưu năm 2013, ông đã hai lần giữ chức Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương, trong đó có một lần được bổ nhiệm sau khi David Petreus đột ngột từ chức năm 2012.
Vào thời gian diễn ra cuộc họp năm 2007 nói trên, Morell phải báo cáo trực tiếp lên Giám đốc Michael Hayden. Các sĩ quan tình báo cấp cao khác cũng được mời đến tham dự buổi trình bày sơ lược về dự án MARKINT của chúng tôi tại văn phòng của Morell. Đây là những khán giả cấp bậc cao nhất mà dự án từng có.
E-mail của Randy cũng lưu ý rằng, có cả người từ văn phòng tổng tư vấn của CIA tham dự. Chắc chắn dự án của chúng tôi có nhiều vấn đề liên quan đến pháp lý, bao gồm cả vấn đề bảo mật và để triển khai toàn diện thì CIA cần phối hợp với FBI, vì CIA không có thẩm quyền thực thi pháp luật ở Hoa Kỳ. Chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu những vấn đề này và hiểu rõ tính chất nhạy cảm của chúng. Mặc dù vậy, chúng tôi không rõ tại sao Morell lại muốn các luật sư của mình tham gia một buổi tóm tắt sơ bộ về một hệ thống đối phó với khủng bố mới.
Văn phòng của Morell rất rộng, đúng theo quy chuẩn của CIA, với những cửa sổ sáng sủa, một bàn làm việc lớn gần tường và một bàn họp ngay cửa ra vào. Trong các văn phòng ở Washington, người ta thường thấy nhiều bức ảnh được lồng khung đẹp đẽ, chụp chủ nhân căn phòng với các nhân vật quyền lực. Ở văn phòng của Morell cũng có, nhưng thay vì ảnh chụp hai người tại một sự kiện nào đó, Morell lại treo những bức ảnh đen trắng không rõ mặt người khổ lớn chụp ông đứng trong phòng Bầu dục, say sưa thảo luận với vị Tổng thống đang khom người xem xét tài liệu, có lẽ là trong phiên báo cáo thường nhật lên Tổng thống, nơi người ta thảo luận về những thông tin nhạy cảm nhất và bảo mật nhất thế giới. Nếu Morell định dùng những bức ảnh này để gây ấn tượng với khách khứa thì ông đã thành công.
Chris, Randy và tôi ngồi xuống bàn họp. Những nhân vật cấp cao khác đã có mặt và Morell bước từ bàn làm việc sang bàn họp. Bầu không khí có vẻ thân mật nhưng vẫn mang tính công việc, thậm chí hơi căng thẳng. Chris và Randy giới thiệu sơ qua về lịch sử Dự án Prophesy và những khả năng của bộ dò tín hiệu. Là luật sư duy nhất của đội MARKINT trong phòng, tôi có nhiệm vụ tóm tắt về quyền hạn pháp lý cũng như các vấn đề bảo mật của dự án.
Tôi mới trình bày được vài phút thì luật sư của CIA cắt ngang, “Chúng tôi rất lo ngại về những gì các anh đang làm. Các anh đang theo dõi lịch sử giao dịch và chuyển các kết luận sang SEC. CIA không phải là một cơ quan thực thi pháp luật. Chúng tôi không đồng ý với chuyện này.”
Tôi nói rằng chúng tôi không sử dụng lịch sử giao dịch cá nhân mà hoàn toàn dựa trên dữ liệu giá thị trường lấy từ các nguồn mở mà bất cứ ai cũng có thể tiếp cận, và việc này không khác gì mấy so với việc người ta xem ti-vi. Về chuyện chuyển kết luận sang SEC, tôi nói rằng chúng tôi chỉ đang thực hiện trách nhiệm công dân và có thể dừng lại ngay lập tức nếu CIA muốn. SEC cũng đang xây dựng những hệ thống tương tự và trong tương lai sẽ không phụ thuộc vào chúng tôi nữa. Có vẻ như vị luật sư đang đưa ra những mối lo ngại này để đánh lạc hướng chúng tôi khỏi một vấn đề khác.
Đến lượt Morell lên tiếng, “Điều chúng tôi lo ngại ở đây là cách nhìn nhận vấn đề. Có thể các anh đang làm đúng, nhưng biết đâu tờ New York Times lại bóp méo nó thành ‘CIA dòm ngó quỹ 401(k) của người Mỹ’. Đó không phải là rủi ro mà chúng ta nên ôm lấy trong lúc này.”
Sự lo ngại của Morell hoàn toàn có cơ sở. Tờ New York Times đã từng gây nguy hại đến an ninh quốc gia bằng cách tiết lộ việc khối tình báo tiếp cận các giao dịch ngân hàng trong hệ thống thanh toán SWIFT ở Bỉ. SWIFT là cơ quan đầu não của mạng lưới ngân hàng quốc tế và nắm giữ vô số thông tin quý giá về tình hình tài chính của bọn khủng bố. Bài báo trên Times đã khiến giới tài phiệt khủng bố trong thế giới ngầm tìm đến các mạng lưới bất thành văn được gọi là hawala(6) và các công ty ma.
6 Hawala có nghĩa là “lòng tin” trong tiếng Hindi. Phương thức chuyển tiền hawala dựa trên nguyên tắc “anh trao tiền cho tôi ở đây thì gia đình tôi ở bên kia sẽ hoàn trả” kèm theo một mật mã để giao dịch. Phương thức này được sử dụng rộng rãi tại Ấn Độ, Pakistan và các nước Trung Đông khác.
CIA lúc ấy cũng đang lao đao giữa tâm bão tin tức về các kỹ thuật thẩm vấn tăng cường như trấn nước (waterboarding). Họ tuyệt đối không cần thêm lý do nào để trở thành mồi ngon của giới truyền thông, ngay cả khi chương trình của chúng tôi có hiệu quả và hợp pháp chăng nữa.
Quả thực, Morell đã chứng tỏ khả năng “tiên đoán thành thần” của mình. Ngày 14 tháng 11 năm 2013, New York Times đã đăng bài báo có tựa là “Chương trình do thám tài chính của CIA ăn cắp dữ liệu về người dân Mỹ”(7). Nhưng vì thông tin này xuất hiện cùng lúc với vô số thông tin tương tự mà “kẻ đào ngũ” Edward Snowden tiết lộ nên hầu như chẳng ai chú ý đến nó.
7 Nguyên văn: CIA’s financial spying bags data on Americans.
Tôi nói với Morell rằng, chúng tôi có thể ngừng việc cung cấp thông tin cho SEC, đồng thời giải trình mọi đặc điểm kỹ thuật cần thiết để CIA yên tâm rằng thông tin mà chúng tôi sử dụng được lấy từ nguồn mở và không liên quan đến các cá nhân. Morell cảm ơn tôi và buổi họp kết thúc. Sau này tôi mới nhận ra rằng, ngày hôm đó MARKINT đã bị khai tử, ít nhất là về phía CIA.
Gần thời điểm bắt đầu Dự án Prophesy, tôi lưu ý với Randy Tauss rằng, đội dự án đang thực hiện một công việc phi thường và việc xây dựng hệ thống chống khủng bố có khả năng ngăn chặn những vụ tấn công trên quy mô lớn hoàn toàn nằm trong tầm tay. Randy, một tay lão luyện với 33 năm kinh nghiệm, cười và nói với tôi: “Jim này, để tôi nói cho anh biết cách mọi thứ ở đây vận hành. Chúng ta sẽ làm một công việc phi thường và nó sẽ hoạt động như một phép màu. Rồi chuyện sẽ chẳng đi đến đâu và nó sẽ bị bỏ xó. Một ngày nọ, một vụ tấn công nghiêm trọng xảy ra và hiển nhiên là có kẻ sẽ giao dịch nội gián dựa trên việc biết trước thông tin. CIA sẽ lôi hệ thống của chúng ta từ xó xỉnh nào đó ra, phủi bụi cho nó và bảo, ‘Xem này, lời giải nằm ngay đây. Chúng ta có một hệ thống có thể phát hiện nguy cơ cho lần tới.’ Hệ thống đó sẽ nhận hàng triệu đô-la tài trợ và được xây dựng theo đúng cái cách chúng ta muốn. Nhưng dù có ngăn chặn được vụ tấn công tiếp theo thì người chết cũng đã chết rồi.”
Thật đáng buồn, những lời Randy nói đã trở thành sự thực. Rõ ràng, MARKINT đã bị bỏ xó. Nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy rằng bộ dò tín hiệu có giá trị nhất định, ngay cả khi CIA không sử dụng nó. Nếu các cơ quan dân sự không quan tâm, chúng tôi vẫn còn một người bạn khác – Bộ Quốc phòng. Lầu Năm Góc nắm trong tay những nguồn lực lớn nhất, bị hạn chế ít nhất và có tư duy tân tiến nhất. Các sĩ quan quân đội cấp cao ở đó toàn là kỹ sư, tiến sĩ, số lượng chuyên gia có bằng cử nhân ngành lịch sử, ngôn ngữ và chiến lược còn nhiều hơn nữa. Nói cho cùng, Bộ Quốc phòng là đơn vị chủ quản của Cơ quan Đặc trách Kế hoạch Nghiên cứu Quốc phòng Cao cấp (Defense Advanced Research Projects Agency - DARPA), nơi đã phát minh ra những hệ thống mở đường cho Internet và World Wide Web.
Các mối liên hệ của chúng tôi với Lầu Năm Góc được phát triển trong năm 2007 và 2008, đúng lúc khối tình báo dân sự quay lưng lại với dự án của chúng tôi. Nhưng để mối quan hệ này lớn mạnh hơn thì bản thân MARKINT phải phát triển lên. Ngay từ những giai đoạn đầu, Chris Ray và tôi đã hiểu rằng MARKINT không chỉ là một công cụ chống khủng bố. Nếu nó có thể phát hiện dấu vết của bọn khủng bố trong thị trường vốn thì tại sao không sử dụng nó để giám sát hoạt động của các nhà độc tài, kẻ thù chiến lược và các chủ thể nhà nước khác trên thị trường? Tất cả những gì chúng tôi cần làm là điều chỉnh bộ dò tín hiệu để tập trung vào các nhóm chứng khoán mục tiêu đã được “đo ni đóng giày”.
Đứng trước nhiệm vụ bao quát hơn này, Chris và tôi bắt đầu tìm kiếm các hiện tượng khác bên cạnh giao dịch cổ phiếu nội gián. Một trong số đó là việc Venezuela chuyển đổi dự trữ đô-la của mình sang vàng. Nó báo trước cuộc chiến của Hugo Chávez nhắm vào đồng đô-la và mệnh lệnh “triệu hồi” vàng của Venezuela từ các hầm chứa ở London.
Cơ hội để phô diễn khả năng của hệ thống trước các khán giả mặc quân phục đến vào tháng 12 năm 2007, khi chúng tôi giới thiệu bộ dò tín hiệu MARKINT với Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ (U.S. Strategic Command - STRATCOM) ở Omaha, Nebraska. Thành phần tham dự cuộc họp bao gồm các nhà khoa học dân sự và các sĩ quan quân đội. Chúng tôi mô tả cách thức sử dụng hệ thống để cảnh báo sớm về các vụ tấn công nhắm vào đồng đô-la Mỹ và các âm mưu làm sụp đổ các thị trường ở Hoa Kỳ.
Bỗng nhiên công nghệ này được nhìn nhận dưới một luồng ánh sáng mới. Chúng tôi không đơn độc, tất nhiên rồi, nhưng chúng tôi đang nhìn thấy tương lai của chiến tranh: Không chỉ là những cuộc chiến sử dụng vũ khí động lực học, mà cả những cuộc chiến trên mặt trận không biên giới với vũ khí hóa học, vũ khí sinh học, vũ khí kỹ thuật số, và trong trường hợp của chúng tôi là vũ khí tài chính.
Lầu Năm Góc bắt đầu thấy rõ rằng ưu thế vượt trội của nước Mỹ trên những mặt trận truyền thống là không trung, mặt đất và biển đã khiến các đối thủ phải tìm kiếm những cách thức mới để đối phó. Chiến tranh trong tương lai sẽ diễn ra trên một phạm vi mở rộng hơn nhiều, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hàng hóa và chứng khoán phái sinh. Bộ dò tín hiệu của chúng tôi là thiết bị cảnh báo sớm hoàn hảo.
Hãy nhớ lại châm ngôn Không ai giao dịch một mình. Cứ mỗi người mua thì có một người bán. Nếu một phía của vụ giao dịch là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia, nó sẽ để lại dấu vết mà kẻ thù ý thức được. Kẻ đó giống như cá bơi trong nước, để lại những gợn sóng lăn tăn. Có thể chúng ta không thấy con cá nhưng vẫn thấy những gợn sóng, từ đó suy luận ra sự hiện diện của con cá. Những bộ não biết nhìn xa trông rộng tại cuộc họp ở Omaha biết rằng bộ dò tín hiệu của chúng tôi có thể phát hiện ra gợn sóng đó, rằng chúng tôi đã phát minh ra thiết bị cảnh báo sớm hoàn hảo.
Cuối cùng thì MARKINT cũng có một tương lai xán lạn. Nó không còn là công cụ chống khủng bố hạn hẹp như ban đầu chúng tôi định tạo ra, mà trở thành một hệ thống đa nhiệm, một dạng ra-đa tìm kiếm những mối đe dọa tài chính sắp xảy ra trên thị trường. MARKINT đã lớn mạnh. Đội dự án và công nghệ mà chúng tôi phát triển giờ đây bước vào một đấu trường mới rộng hơn nhiều: Đấu trường tài chính.