Các bậc làm cha làm mẹ, khi còn đương khỏe mạnh, nên có sự chuẩn bị rõ ràng cho những tài sản mà bản thân đã tích cóp suốt một đời. Nên chăng phân chia tài sản dựa trên nguyên tắc hỗ trợ cho con cái và ích lợi cho xã hội, qua đó, tránh việc con cái vướng vào kiện tụng tạo thành bi kịch gia đình sau sự ra đi của cha mẹ vì tranh chấp quyền kế thừa và phân chia gia sản.
Tài sản do bản thân cha mẹ tích cóp cả đời, nghiễm nhiên họ có toàn quyền quyết định số tài sản ấy. Tuy nhiên, theo thiển ý, nguyên tắc đầu tiên cần phải để ý là không nên phân chia toàn bộ tài sản cho con cái khi bản thân còn sống khỏe mạnh trên cuộc đời này để tránh hai khả năng đáng tiếc có thể xảy ra.
Thứ nhất là khả năng sẽ xảy ra bất hòa, thậm chí tranh chấp giữa con cái, vì cho rằng cha mẹ thiên vị trong việc phân chia tài sản; sự so đo người nhiều kẻ ít có thể sẽ khiến cho thân tình bị ảnh hưởng, thậm chí là trở mặt với nhau.
Hai là, từ thực tế cuộc sống cho thấy, nhiều trường hợp khi cha mẹ không còn nắm tài sản trong tay thì lời nói bỗng trở nên không còn giá trị, không những với con cái mà cả với hàng cháu bên dưới cũng không có đủ sức mạnh để răn đe hay dạy bảo. Tệ hại hơn là tình trạng đùn đẩy trách nhiệm nuôi nấng, chăm sóc cha mẹ lúc tuổi về già.
Tuy lời thật khó nghe, song quả thật, nếu trong tay cha mẹ còn nắm phần lớn gia sản, tự khắc lời nói sẽ còn trọng lượng, chí ít ngoài mặt cũng còn thấy được sự hiếu thuận của cháu con. Trong cuộc sống thường nhật, người từng trải sẽ dễ dàng nhận ra rằng, đa phần sẽ diễn ra như vậy, cha mẹ nuôi con luôn “biển hồ lai láng”, luôn không so đo kỳ kèo bất kỳ điều kiện gì; nhưng điều đó không thể mang lại sự cam đoan chắc chắn rằng con cái sẽ hiếu thuận khi họ về già. Thực tế, gần như một nửa người thế gian đều “tính tháng tính ngày” khi phải nuôi nấng lại cha mẹ lúc tuổi xế chiều.
Thiết nghĩ, các bậc làm cha làm mẹ, nếu phải chia gia sản cho con cái ngay khi mình còn đương tại thế, chỉ nên chia cho con nửa trong tổng số tài sản của mình, nhiều lắm cũng chỉ nên là hai phần ba; phần còn lại phải giữ riêng cho mình, nếu muốn chia phần gia sản này cho con cháu, có thể chọn giải pháp lập di chúc để phân chia sau khi bản thân qua đời. Việc mang tiền của chia lại cho con cháu, còn cần nên thận trọng và có trí tuệ, bởi việc phân chia tài sản vốn khó có thể xử lý cho công bằng được. Ví như trong gia đình, những đứa con có năng lực lại khá giả, cơ bản không phải cần đến tiền của của cha mẹ mới có thể tồn tại được; lại có thể có những đứa con, đứa cháu tuổi đời còn nhỏ, chưa thể độc lập mưu sinh, cần có được sự bảo đảm về tài chính để ổn định cuộc sống… Tất cả những điều ấy phải được cân nhắc một cách thấu tình đạt lý đến. Sau khi suy tính kỹ, phác thảo xong kế hoạch cho việc phân chia tài sản, cha mẹ nên triệu tập con cái lại để chia sẻ về vấn đề phân chia rồi cùng bàn bạc thảo luận để đi đến thống nhất sao cho mọi người trong gia đình đều vui lòng ưng thuận. Tuyệt đối không nên bí mật phân chia tài sản, vì như vậy sẽ dẫn đến sự đố kỵ trong anh em, thậm chí còn dẫn đến sự oán hận cha mẹ, thù ghét anh em, tạo thành thảm cảnh xáo thịt nồi da mà chúng ta đã không ít lần chứng kiến trong cuộc sống từ xưa đến nay.
Nếu trong trường hợp con cháu dư ăn dư để, không phải nhờ đến tài sản của cha mẹ mới duy trì được cuộc sống thì cha mẹ cũng có thể nghĩ đến việc vun bồi công đức dài lâu cho con cháu đời sau bằng cách dùng danh nghĩa của con cháu để quyên góp số gia sản trên cho các tổ chức từ thiện xã hội hoặc tôn giáo. Trong cách sống của xã hội Âu - Mỹ, đa phần con cháu không trông đợi vào di sản của cha mẹ, và các bậc cha mẹ phương Tây cũng không hề nghĩ rằng tài sản của mình phải tích cóp để phân chia lại cho những đứa con đã trưởng thành. Phần lớn trong số họ, khi tuổi tác ngày một lớn, sẽ quyên góp tài sản cho giáo hội, như thể gửi vào thiên quốc vậy. Số tài sản ấy sẽ được giáo hội phân phối sử dụng vào những việc phúc lợi của tôn giáo hay các việc từ thiện công ích cho xã hội.
Tại Đài Loan ngày nay, thiết nghĩ, cũng nên khuyến khích mọi người tiếp thu quan niệm này của Âu - Mỹ như một quan niệm mới trong việc phân chia gia sản. Cá nhân tôi nhận thấy nó có hai điều lợi:
Một là, con cái sẽ ý thức được và sống được bằng việc dựa vào chính sức lực và sở học của mình để kiếm tiền. Tuy có vất vả đó, nhưng từ thực tế của cuộc sống giúp cho chúng sống một cách nghiêm túc hơn, có giá trị hơn. Sự trưởng thành của chúng cũng sẽ khác hơn nhiều khi chỉ biết dựa vào tài sản của cha mẹ.
Hai là, quyên góp một phần tài sản của mình cho việc từ thiện xã hội, không những chung tay góp sức chia sẻ gánh nặng với những mảnh đời bất hạnh, hơn nữa không phải lo sợ đồng tiền chắt chiu của mình sẽ làm hư hỏng chính con cháu mình, từ đó không biến nó thành gánh nặng của xã hội. Được như thế, bất luận là đối với bản thân cha mẹ, con cái hay xã hội đều xem như có được những đóng góp tích cực.