Nhân dịp kỷ niệm 35 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Thượng tướng, Viện sĩ, Tiến sĩ Nguyễn Huy Hiệu - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã cho ra mắt bạn đọc tác phẩm “Quân đội với vấn đề giải quyết hậu quả sau chiến tranh”3. Có thể coi tác phẩm là một công trình khoa học với nhiều nội dung nghiên cứu, tổng kết công phu, mang tính lý luận cao, phản ánh sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân về vấn đề nhân văn cao cả này, đồng thời là bộ tài liệu có ý nghĩa chỉ đạo hoạt động thực tiễn thiết thực, cụ thể với nhiều cấp, nhiều ngành, trong đó quân đội đóng vai trò nòng cốt.
Mọi người đều biết rằng: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, khốc liệt nhưng cuối cùng nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi rực rỡ. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến đó không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa lớn lao đối với lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hậu quả của cuộc chiến tranh do Mỹ, ngụy để lại (kể cả hậu quả của những cuộc chiến tranh biên giới sau đó) là hết sức nặng nề đối với đất nước ta, nhân dân ta. Nói một cách hình tượng “chiến tranh đã kết thúc, nhưng “ngọn lửa chiến tranh” vẫn chưa tắt, nó vẫn âm ỉ cháy, mang bao đau thương cho người và đất ở mọi miền quê”. Suốt 35 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nỗ lực vượt bậc, đóng góp công sức, trí tuệ của mình cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Công cuộc đổi mới đã tạo nên những bước tiến kỳ diệu của một nước Việt Nam thống nhất… Song, cũng suốt 35 năm qua, việc giải quyết hậu quả chiến tranh, cũng được cả nước tích cực, bền bỉ thực hiện với rất nhiều phong trào sâu rộng cùng những biện pháp sinh động để làm giảm bớt nỗi đau của đất và người. Mối quan hệ biện chứng giữa giải quyết hậu quả chiến tranh với xây dựng phát triển; giữa trách nhiệm với lịch sử quá khứ với trách nhiệm trong hiện tại, tương lai; giữa sự nỗ lực của quân dân ta với nghĩa vụ của những đối tượng gây ra hậu quả và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế… được nêu lên rất đậm nét trong toàn bộ tác phẩm.
Sau phần mở đầu khái quát những chủ trương lớn thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, của Bộ Quốc phòng… thực trạng tình hình cùng những kết quả bước đầu giải quyết hậu quả sau chiến tranh, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu tập trung phân tích, đánh giá và nêu bật những mục tiêu, giải pháp cụ thể để thực hiện chương trình, dự án quốc gia để giải quyết hai hậu quả chiến tranh nặng nề và phổ biến nhất, đó là: Giải quyết bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh và giải quyết hậu quả chất độc da cam/điôxin.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ đã sử dụng trên 15 triệu tấn bom, mìn, vật nổ, trong đó số bom, mìn, vật nổ do máy bay ném xuống là hơn 7,8 triệu tấn. Theo các tài liệu nghiên cứu đã được công bố, số bom mìn, vật nổ còn “nằm im” chiếm tỷ lệ từ 2 - 5 phần trăm, thậm chí có vùng đất 10 phần trăm. Như vậy, sau chiến tranh ở lãnh thổ Việt Nam còn khoảng 800 nghìn tấn bom, mìn, đạn dược chưa nổ. Riêng ở miền Nam còn khoảng 3,5 triệu quả mìn, 7 triệu đạn dược các loại nằm vương vãi khắp nơi; trên 5 nghìn tấn bom nằm rải rác ở xung quanh các kho hàng, căn cứ không quân… Hàng năm, trung bình cả nước có khoảng 3.800 người bị chết và bị thương do bom, mìn, vật nổ. Gần đây, số người bị chết, bị thương do bom, mìn, vật nổ có giảm hơn những năm đầu sau chiến tranh, song vẫn còn khá cao, khoảng 2 nghìn người/năm. Riêng ở tỉnh Quảng Trị, từ sau giải phóng đến tháng 11 năm 2002 đã có 6.720 người bị chết, bị thương do bom, mìn, vật nổ. Hiện nay Quảng Trị vẫn còn hơn 200 nghìn héc-ta đất bị đe dọa bởi bom, mìn, vật nổ… Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng, suốt từ tháng 5 năm 1975 đến nay các đơn vị quân đội mà nòng cốt là bộ đội công binh đã tích cực phối hợp với các địa phương, ban ngành dò, gỡ bom mìn, vật nổ, giải phóng hàng chục vạn héc-ta đất phục vụ cho sản xuất, phát triển kinh tế. Ở miền Nam, chúng ta đã phá, gỡ được gần 2,9 triệu quả mìn, đạn pháo, bom bi; thu nhặt gần 7,5 triệu vật nổ (đạn con, lựu đạn, đạn pháo, thuốc nổ…) và 5.300 tấn bom… Quá trình dò, gỡ bom mìn, vật nổ, lực lượng đối mặt với tử thần đã bị thương vong 4.178 người, trong đó 997 người đã anh dũng hy sinh…
Từ thực trạng tình hình với hàng loạt con số được thống kê khắp mọi vùng miền đất nước, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đã nêu bật các giải pháp mà quân đội tiếp tục thực hiện để giải quyết hậu quả bom, mìn, vật nổ. Các giải pháp đó là: Chủ động tham mưu cho Chính phủ xây dựng kế hoạch hành động thống nhất quốc gia về dò tìm, xử lý, khắc phục hậu quả bom, mìn, vật nổ từ năm 2010 đến 2025; tăng cường đào tạo, phát triển nguồn lực ngành dò tìm, xử lý bom mìn, vật nổ đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục phòng tránh tai nạn do bom mìn, vật nổ đối với nhân dân; đẩy nhanh tiến độ dò tìm, xử lý bom mìn, vật nổ trên đất liền và triển khai thực hiện trên biển; mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, kêu gọi sự giúp đỡ của Chính phủ các nước, các tổ chức nhân đạo trên thế giới…
Ngay phần đầu khi nói về hậu quả chất độc da cam/điôxin do quân đội Mỹ để lại trong chiến tranh Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đã đưa ra một nghịch lý: Nhiều phát minh khoa học ngay sau khi ứng dụng để phát triển sản xuất, quân xâm lược đã sử dụng trong chiến tranh để hủy diệt con người và môi trường sống. Tiếp đó, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đã hệ thống quá trình quân đội Mỹ sử dụng chất độc da cam/điôxin trong suốt 10 năm, từ năm 1961 đến 1971 tại miền Nam Việt Nam. Suốt 10 năm đó, quân đội Mỹ đã rải chất độc da cam/điôxin trên một diện tích rộng lớn với gần 3 triệu héc-ta rừng, đất ở miền Nam. Trong đó, số diện tích bị phun rải một lần là 66 phần trăm, phun rải 2 lần là 22 phần trăm, phun rải 3 lần là 8 phần trăm, phun rải 4 lần là 4 phần trăm... Đó là chưa kể những khu vực bị nhiễm chất độc da cam/điôxin tại các địa điểm sân bay, bến bãi, kho hàng, hầm chứa máy bay mang chất độc và do máy bay mang chất độc bị rơi… Ngoài hậu quả nặng nề đối với môi trường, cây cối, đất đai… chất độc da cam/điôxin đã để lại hậu quả khủng khiếp, lâu dài đối với con người. Việc giải quyết hậu quả chất độc da cam/điôxin vô cùng khó khăn, phức tạp, không chỉ đòi hỏi cộng đồng trách nhiệm của cả xã hội, của các nhà khoa học mà còn là sự đòi hỏi sức mạnh tổng hợp của nhân dân và các tổ chức quốc tế. Đồng thời, đây cũng là cuộc đấu tranh kiên trì đòi chính phủ Mỹ, các công ty hóa chất của Mỹ phải chịu trách nhiệm giải quyết.
Đối với quân đội ta, từ nhiều năm nay đã đóng vai trò nòng cốt để giải quyết chất độc da cam/điôxin. Binh chủng Hóa học đã được Nhà nước và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ điều tra, khảo sát, đánh giá tác động môi trường và ứng cứu, khắc phục sự cố, khoanh vùng tẩy độc phục hồi môi trường. Từ năm 1995 đến năm 2005, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Binh chủng Hóa học chủ trì phối hợp với Trung tâm nhiệt đới Việt - Nga, Học viện Quân y, Quân chủng Phòng không - Không quân thực hiện ba dự án điều tra, đánh giá tác hại và khắc phục hậu quả chất độc da cam/điôxin tại sân bay Biên Hòa, Phù Cát và Đà Nẵng. Kết quả của các dự án trên đã thực hiện xử lý đất nhiễm độc ở quy mô lớn, góp phần đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lực lượng giải quyết hậu quả chất độc da cam/điôxin, làm cơ sở đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao và thực hiện các dự án tiếp theo…
Kết thúc tác phẩm, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đã chọn một số câu chuyện điển hình về những nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam/điôxin và bị thương tật do bom, mìn gây ra. Vừa đau xót vừa xúc động đến nghẹn ngào là cảm xúc chung khi đọc xong từng câu chuyện. Tiếng nói từ thực tế, từ những người thật, việc thật là tiếng nói đanh thép nhất lên án chiến tranh, đòi trả lại công lý đối với những kẻ đã gây nên những nỗi đau chiến tranh khôn cùng này, đồng thời cũng là lời kêu gọi thuyết phục nhất đối với nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới: Hãy tích cực tham gia giải quyết hậu quả chiến tranh, hãy mãi mãi chung xây một thế giới hòa bình.
2010
3. Tác phẩm của Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010.