(Tham luận tại Đại hội lần thứ VII Hội Nhà văn Việt Nam)
Quá trình sáng tạo văn học là quá trình hoạt động độc lập của từng cây bút. Lựa chọn đề tài gì? Sử dụng thể loại nào? Nội dung và nghệ thuật phản ánh ra sao?... hoàn toàn là quyết định chủ quan của người viết. Tuy nhiên, do trách nhiệm lịch sử, sự hấp dẫn cùng vốn liếng đã trực tiếp hoặc gián tiếp tích lũy được… những năm qua, giữa cuộc sống ngổn ngang, bộn bề với bao sự kiện mới, rất nhiều cây bút vẫn tự nguyện, dồn tâm huyết viết về chiến tranh cách mạng và người lính. Sự tiếp nối này thật đáng trân trọng, không chỉ có ý nghĩa góp phần làm cho mảng sách văn học về đề tài chiến tranh cách mạng và người lính không bị đứt đoạn, hẫng hụt mà còn tạo nên một diện mạo mới đa dạng, đa chiều, đa thanh sắc.
Nhiều cây bút đã gặt hái được những thành công nhất định trong và sau chiến tranh, để lại các tiểu thuyết gây ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc vẫn thủy chung, bền bỉ với đề tài này và tiếp tục gặt hái thêm những thành công mới. Không khí hào sảng, chất anh hùng ca kỳ vĩ của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng vẻ đẹp lung linh của người lính tiếp tục được tái hiện bằng bút pháp truyền thống. Một số cây bút khác dồn sức lực, tâm trí khắc họa thân phận người lính sau chiến tranh, vật lộn mưu sinh trong cơ chế thị trường, trụ vững trước sự xô đẩy của chức quyền, tiền bạc, thêm một lần khẳng định phẩm giá trên mặt trận không tiếng súng. Đáng mừng hơn, nhiều cây bút (kể cả trưởng thành trong chiến tranh và sau chiến tranh, kể cả đã và đang mặc áo lính, hoặc chưa hề mặc áo lính) đã dũng cảm phản ánh chiến tranh cách mạng và người lính dưới những góc nhìn mới, toàn diện, khách quan, thấu đáo… Đồng thời với âm hưởng ngợi ca, họ mạnh dạn đề cập đến sự hy sinh, mất mát to lớn của nhân dân và người chiến sĩ, không nương tay phanh phui những khoảng tối, nơi lưu trú của thói đố kỵ, vị kỷ, ấu trĩ, kể cả sự tàn nhẫn, đớn hèn… Quan niệm ấy, cách viết ấy phần nào đã tăng thêm tính hấp dẫn, thuyết phục của tiểu thuyết, hơn thế còn góp phần tôn vinh chiến thắng của quân dân ta, lên án mạnh mẽ chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Viết về người lính sau chiến tranh, vẫn những cây bút này và một số cây bút mới, một mặt họ khẳng định cái hay cái mới của sự phát triển, nghị lực vươn lên không ngưng nghỉ cùng đạo đức sáng trong của người lính trên mặt trận kinh tế, mặt khác họ cũng dũng cảm phản ánh sự sa đọa, biến chất của một bộ phận cán bộ có chức quyền, trong đó có cả những người đã từng là lính. Dưới ngòi bút của họ, sự bội bạc, tính tham lam, bệnh háo danh, lối sống thực dụng cùng bao mưu mô thủ đoạn hoàn toàn xa lạ với thuần phong mỹ tục, với truyền thống của dân tộc và quân đội được phơi bày, mổ xẻ kỹ lưỡng… đã góp phần cảnh tỉnh, tăng khả năng miễn dịch và cổ vũ cộng đồng chung tay trừ giặc nội xâm.
Nhờ đó tiểu thuyết viết về người lính những năm qua phần nào đã khẳng định thêm: Chức năng thiêng liêng nhất của nghệ thuật nói chung, của văn học nói riêng là để công chúng tự thấm, ngẫm, tự điều chỉnh hệ thống thái độ và hành vi của mình, không ngừng vươn tới chân - thiện - mỹ. Công chúng tự nguyện đón nhận, làm theo hay thờ ơ chối bỏ, hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết. Cái riêng của tác giả, tác phẩm càng độc đáo, mới lạ, càng tụ chứa được cái chung để công chúng tự đón nhận, sẻ chia. Sức sống bền lâu hay chóng vánh của tiểu thuyết suy cho cùng nằm ở sự đón nhận hay chối bỏ ấy.
Bên cạnh niềm vui trên, tiểu thuyết về người lính cũng còn để lại đôi điều băn khoăn trăn trở. Trước lời kêu gọi quen thuộc “phải có những tác phẩm xứng đáng với những cuộc chiến tranh cách mạng vĩ đại của dân tộc”, không ít cây bút đã quyết dành tâm sức, thời gian cố tự bứt phá, những mong sáng tạo nên những tiểu thuyết tầm cỡ. Quyết tâm ấy, tấm lòng ấy rất đáng trân trọng. Có điều, họ đưa quá nhiều tư liệu chiến tranh, nghệ thuật quân sự, phương pháp tổ chức lực lượng, diễn biến từng trận đánh đến đời sống thực của người lính cùng vô vàn chi tiết cả phi thường, dị thường từ trận mạc vào tiểu thuyết… Điều này vô tình đã tạo nên những chương mục, thậm chí cả tác phẩm bị lịch sử hóa, báo chí hóa, thiếu hẳn phần chưng cất, sáng tạo là hình tượng, điển hình, cá tính hóa cao… nên tác phẩm khó lan tỏa và lắng đọng trong lòng bạn đọc. Nói nôm na, nội dung tác phẩm mới dừng lại ở sự bố trí, xếp đặt các “nguyên liệu” công phu thu được từ chiến tranh, từ người lính, mà chưa trải qua quá trình dày công “chế biến” để tạo nên những sản phẩm có tính hữu dụng cao cho công chúng. Người đọc nhận ra những nhân vật có thật trong lịch sử, mà không nhận thấy một phần số phận của mình, những người thân của mình trong đó. Không có sự sẻ chia cùng tác phẩm. Tiểu thuyết sử thi có thể như vậy nhưng tiểu thuyết bình thường mà thế quả là điều thiệt thòi cho người đọc. Công bằng mà xét, ngay cả một số tiểu thuyết về chiến tranh cách mạng và người lính được đánh giá khá cao của một tổ chức, một tập thể thẩm định, một cơ quan văn nghệ những năm qua vẫn là nằm trong những tiểu thuyết đó. Nhiều nội dung, chi tiết, tính cách nhân vật khác lạ, phần nào tạo được chú ý cùng sự hấp dẫn là do hiện thực đặc thù, khắc nghiệt, khác thường từ chính cuộc chiến tranh mang lại chứ chưa phải được tạo dựng từ kết quả của sự lao động sáng tạo cực nhọc. Tin rằng trong tương lai từ những tư liệu quý báu về chiến tranh cách mạng, về người lính cộng với lòng nhiệt huyết và tài năng sáng tạo của người cầm bút sẽ có thêm nhiều tiểu thuyết hay, tầm cỡ ra đời.
Lịch sử là dòng chảy liên tục. Viết về chiến tranh cách mạng và người lính hôm qua - những người lính đã trực tiếp chiến đấu rồi trở về trong hòa bình với bao số phận thăng trầm, bao cung bậc buồn vui đã có hàng nghìn tiểu thuyết, nhưng những tiểu thuyết viết về người lính hôm nay, đặc biệt là những người lính trẻ còn quá khiêm tốn. Có một thực tế khách quan là: Do quân đội giảm biên chế, đa phần người lính chỉ thực hiện nghĩa vụ 2, 3 năm sau đó trở về hoạt động trong các thành phần kinh tế nên các cây bút trẻ xuất hiện rất ít. May mắn được cây bút nào xuất hiện thì lại được đưa về các cơ quan báo chí, xuất bản. Cấp thấp nhất cũng là quân khu, quân đoàn, quân binh chủng. Thực tế đó đã dẫn đến tình trạng hầu như không còn những cây bút sống cùng người lính ở đơn vị cơ sở. Không còn những nhà văn là cấp úy, cấp sĩ, thậm chí là binh nhất, binh nhì lăn lộn cùng người lính như những năm tháng trước. Tuy nhiên, không thể vì lẽ ấy mà những người lính trẻ đang đêm ngày mải mê luyện tập, vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật, chắc tay súng nơi biên giới hải đảo xa xôi hoặc căng mình trong lũ lụt, bão giông…lại trở thành đối tượng thiếu vắng phản ánh của văn học. Họ rất đáng được tôn vinh và cần có sự quan tâm đặc biệt của xã hội để viết về họ. Việc tổ chức những chuyến thâm nhập thực tế dài ngày, những đợt công tác biệt phái, những cuộc hành trình bền bỉ theo bước chân người lính… với sự đầu tư thỏa đáng đối với các cây bút trong và ngoài quân đội tâm huyết với người lính là điều hoàn toàn có thể.
Với một đất nước mà lịch sử luôn gắn liền với các cuộc chiến tranh đã có biết bao thế hệ những người cầm bút tự nguyện bền bỉ, gắn bó và thành công khi viết về tiểu thuyết người lính. Hy vọng trong cuộc hành trình mới, tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sẽ có thêm nhiều tiểu thuyết hay về người lính hôm qua và người lính hôm nay.
2010