Đã hơn mười năm bên anh, bốn mùa chia sẻ buồn vui, lại đã từng là bạn đọc đầu tiên gần hai mươi tập thơ, trường ca, truyện ngắn, tản văn… của anh, vậy mà khi đón nhận tập thơ “Bóng thời gian” tôi vẫn bị bất ngờ. Phải chăng nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng là thế? Dẫu phong cách đã định hình nhưng sự tìm tòi, sáng tạo thì chẳng bao giờ ngưng nghỉ. Điều bất ngờ nhất đối với tôi ở tập thơ này là mùa Thu - một mùa Thu của riêng anh, với cảm xúc hòa trộn buồn, thương, nuối tiếc, khát khao… gắn liền với đất quê, lúc dâng dâng, lúc nén chìm vào ký ức. Nói là “riêng” vì cảm xúc Thu trong từng bài đều được chắt lọc từ những kỷ niệm sâu nặng, cụ thể, thậm chí được ấp ủ, giữ kín đến mức: Nếu không “gửi” vào thơ thì bạn bè, người thân chẳng bao giờ nhận, thấu.
“… Đi mừng đám cưới gặp em
Miếng trầu cánh phượng ai têm nửa vời
Để cho đắng rễ, nhạt vôi
Cau thì bong hạt, thiệt thòi trầu xanh…”
(Lục bát nửa vời)
Mượn miếng trầu để tỏ lòng mình, để nói về vị “đắng” của duyên tình dang dở, tác giả “Bóng thời gian” đã “góp” một nỗi buồn khá tinh tế trong nỗi buồn muôn thuở nảy sinh từ quan hệ lứa đôi. Xưa nay, miếng trầu vẫn được coi như một biểu trưng của thủy chung, hạnh phúc, thực tế đâu mãi thế và luôn thế khi mà “đắng rễ”, “nhạt vôi”, “cau bong hạt”. Tiếp nối vị “đắng” ấy, trong “Lục bát nửa vời” những câu thơ cũng chịu chung “số phận” của duyên tình:
“… Thẫn thờ thơ viết nửa câu
Dang dang, dở dở, người đâu hỡi người?
Giá đừng đưa mắt sang tôi
Thì đâu thơ có chơi vơi nửa chừng…”
Trong đời và trong thơ, nhà thơ Vũ Xuân Độ luôn là người kiệm lời. Anh ít nói, viết ngắn, bởi thế dẫu “lửa cháy” dẫu “bão giông” anh cũng chỉ “gửi” vào thơ một, hai phần gì đó, còn tám, chín phần nén lại trong tâm. Cái vị “đắng” vừa nói trên cũng vậy, “gửi” vào thơ mới chỉ gọi là…
Với cảnh quê, nếu như các tập thơ trước cảm xúc Thu thường thi vị, ngọt ngào, nồng ấm… thì ở tập thơ này cảm xúc Thu nghiêng về nỗi niềm cô đơn, tiếc nuối, đợi chờ.
“Sáo ai, khúc lý chiều nay
Để thu vội quẩy heo may về đồng
Xập xòe cánh bướm sang sông
Biệt ly một khúc loang dòng hoàng hôn…”
(Tiếng sáo)
“… Những giọt ngâu đêm nào cũng rơi
Đẫm ướt cả hoa cau nở muộn
Ở đâu đó con tim luống cuống
Sợ rằng mai mốt lá bàng rơi…”
(Ngâu cuối thu)
“... Giã từ cánh sáo viễn du
Ta quay về bến mùa thu - quê nghèo
Đục - trong, dư vị gió heo
Nghe đâu tiếng vỗ cánh chiều bên sông…”
(Tiếng vọng bên sông)
Vẫn là cảnh quê quen thuộc: Ruộng đồng, giọt ngâu, hoa cau, con sông, gió heo may, cánh bướm… song, đọc ba khổ thơ trên ai cũng hiểu: Tác giả đâu có nhằm mục đích tả cảnh quê. Cảnh quê đã được nhân hóa, trở thành nơi gửi gắm “hồn người”. Đã bước sang tuổi Thu (tác giả còn tự nhận đã bước vào tuổi đầu Đông) nên cảm xúc Thu cũng biến chuyển theo vòng quay tạo hóa, điều đó đúng nhưng chỉ một phần thôi. Vấn đề cốt lõi, tạo nên cảm xúc Thu trong “Bóng thời gian” là sự tinh tế, đa cảm, trầm tư… hòa trộn trong tính cách riêng của nhà thơ.
Trong “Bóng thời gian”, nhà thơ Vũ Xuân Độ cũng dành một phần đậm đà viết về đồng đội, bạn bè, hàng xóm, đặc biệt viết về người Mẹ thiêng liêng. Tập thơ nào của anh cũng có những bài viết về Mẹ và bài thơ nào anh viết về Mẹ cũng để lại ấn tượng sâu đậm trong tôi. “Hoa vông” trong “Bóng thời gian” là một bài thơ điển hình trong những bài thơ ấy:
“… Dành nơi khô ráo con nằm
Lặng im nuốt hạt mưa dầm rơi êm
Trắng trời mưa, trắng đồng chiêm
Dải khoai để Mẹ, cơm mềm phần con…
“… Chiến trường xa tiếng bom rền
Lòng như lửa đốt, đêm đêm Mẹ ngồi
Bây giờ Mẹ đã xa rồi
Hoa vông đỏ sắc mặt trời trong con”
Giữa mùa Thu của riêng mình, giữa cảm xúc Thu hòa trộn, khi buồn dâng dâng, khi khát khao kìm nén, khi thương nhớ nghẹn ngào… hình ảnh Mẹ - đỏ sắc mặt trời - rực lên, rạng rỡ lung linh, làm ấm lòng anh và ấm lòng người đọc biết bao!
Xét cho cùng, thơ là “cõi riêng” thăm thẳm. Tiếp nối các tập thơ đã xuất bản, “Bóng thời gian” lại dũng cảm “hành trình” vào “cõi riêng” thăm thẳm ấy. Một cuộc hành trình không có điểm cuối mà chỉ có những điểm mốc sau từng chặng đấy gian nan, thử thách. Phía trước, chắc chắn sẽ có nhiều điểm mốc mới đang đón chờ nhà thơ Vũ Xuân Độ, tôi luôn tin và hy vọng thế!
Hà Nội, 4-2012