Có những nhà văn, nhà báo đã từng kể lại trong tác phẩm của mình: Ở nhiều nghĩa trang liệt sĩ từ Bắc vào Nam, có người quản trang, có người thân, đồng đội vào một thời điểm nào đó như nghe thấy tiếng chuyện trò, tiếng bước chân hành quân và cả tiếng hát say sưa của các anh hùng liệt sĩ. Thực hư thế nào tôi không rõ, nhưng sâu thẳm thâm tâm tôi luôn tin những lời kể đó, giản dị bởi một điều: “Các anh là những người bất tử!”.
Trong số những người bất tử, thiêng liêng ấy, có Nguyễn Xuân Phát - bạn tôi, người bạn thuở học trò tinh nghịch, thông minh có biệt tài thổi sáo. Tôi với Phát học cùng trường nơi sơ tán trong những ngày Mỹ cho máy bay ra đánh phá miền Bắc. Phát học trên tôi một lớp nhưng luôn muốn thể hiện là người anh từng trải, nhường nhịn, chiều chuộng, vỗ về tôi như với một người em nhỏ. Cứ mỗi khi mùa hoa phượng đỏ, chúng tôi lại chia tay nhau về quê để rồi sau hè cả hai đứa lại lớn thêm, lại lên lớp mới. Chị gái tôi và chị gái Phát làm cùng cơ quan, hai đứa ở với hai chị nên suốt chín tháng học hành đi, về chung một đường. Hơn thế, chúng tôi còn cùng chung trên một chiếc xe đạp cà tàng nữa, tất nhiên Phát là tay lái “vĩ đại” của tôi. Phát có tài thổi sáo. Tôi chẳng thể quên những đêm trăng bên dòng sông Thao mát rượi, dưới gốc cây xà cừ cổ thụ tiếng sáo vi vút cất lên khi bổng khi trầm thổn thức, rạo rực, náo nức là những bản nhạc “Anh vẫn hành quân”, “Lý hoài nam”, “Vì miền Nam”; lắng đọng, thẳm sâu là những làn điệu dân ca “Người ơi người ở đừng về”, “Bèo dạt mây trôi”, “Mẹ ru con”… Đâu phải riêng tôi, anh chị em cả cửa hàng đều “nghiện” tiếng sáo của Phát. Có lần nghe Phát thổi một bài là lạ, tôi hỏi dồn, Phát chỉ cười. Hỏi mãi, hỏi mãi, Phát thành thực nói một điều bất ngờ thú vị “những bài này Phát sáng tác dành riêng cho em đấy”. Tôi lặng im, nghẹn ngào.
Nhiều lần, trên đường đến lớp, tôi bị một số bạn nam học khác lớp trêu ghẹo cản đường, rạch cặp sách kèm theo những lời tếu tán. Những tưởng Phát hiền thế sẽ bỏ qua, nào ngờ một chiều khi tan học về Phát chặn đường ba, bốn nam khác lớp đã từng trêu tôi ấy nghiêm giọng: “Tôi cấm các cậu trêu Hoa. Nếu ngang bướng, tôi sẽ cho một bài học”. Mấy bạn nam bị chặn đường cũng không vừa, vứt cặp sách xuống đất thách thức: “Mày giỏi thì cho chúng tao bài học ngay bây giờ!”. Phát lẳng lặng giao chiếc xe đạp cho tôi giữ rồi tiến đến túm cổ quật ngã từng người. Tôi không thể tưởng tượng lúc đó sao Phát lại khỏe thế, hết đấm đá, quăng quật, rồi lại nhào lộn như một võ sĩ. Thấm đòn, các bạn nam kia chạy biến nhưng trán Phát cũng sưng vù… Những tuần sau, tháng sau tôi và Phát đi về sáng chiều bình yên như chưa hề bị ai trêu ghẹo.
Tôi chẳng thể quên một ngày chủ nhật giữa học kỳ 2 năm lớp 9, tôi và Phát ngược suối khám phá khu rừng bạt ngàn phía sau cửa hàng. Không thể hiểu hết những điều bí ẩn của rừng nhưng chủ nhật ấy đã mang lại cho tôi và Phát bao điều thú vị về một phần của sự bí ẩn ấy: những cây hoa cổ thụ, những hòn đá khổng lồ chia dòng suối thành năm bảy nhánh, những loài cây lá nhọn hoắt như chông, những quả rừng chưa biết tên ngọt lịm… Có một chuyện trên đường về chiều ấy, bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn rạo rực. Đó là, khi thấy mặt trời đang sà xuống thấp sau đỉnh núi, Phát giục tôi phải quay về kẻo tối. Phát trước, tôi sau khi vừa vượt qua đoạn suối cạn, một con rắn lao ra vươn cổ nhìn tôi phì phì. Tôi chết lặng, rồi khóc ré. Phát bình tĩnh quay lại với một đoạn cây xù xì trên tay. Con rắn hạ thấp đầu định tẩu thoát nhưng không kịp, Phát vung đoạn cây vào giữa mình con rắn. Con rắn bắn vào một gốc cây ven suối. Bị cú đau bất ngờ nó nằm im một lúc rồi chậm rãi bỏ đi. Phát nắm tay tôi kéo xuống núi, giọng bình thản: “Con rắn thử thách lòng dũng cảm của em tý thôi”. Vẫn đang trong tâm trạng sợ hãi, bực tức, tôi nói: “Sao anh không đánh chết nó đi?”. Phát cười, ôn tồn: “Mình về nhà cũng phải để nó về nhà chiều nay chứ”. Câu nói ấy có lẽ cả đời tôi không quên được…
Như dòng sông Thao hiền hòa chảy, thời gian trôi nhanh, trôi nhanh nhưng chẳng chiều lòng tôi và Phát. Một kỳ nghỉ hè nữa lại đến, nhìn sang phía bên sông nhà tôi phượng đã đỏ cháy bờ. Tôi chia tay chị gái, Phát và mọi người trong cửa hàng về quê. Chuyến đò sang sông mà lòng người như ở lại. Hết hè, tôi sẽ lên lớp mười, còn Phát không biết sẽ đi đâu, vào đại học hay lên đường nhập ngũ? Một tối trước khi nghỉ hè khoảng vài tuần, tôi đang ngồi chong đèn học bài thì Phát đẩy cửa bước vào, tặng tôi một chiếc hộp nhỏ rồi ra gốc cây xà cừ ngồi thổi sáo. Tôi mở hộp, một chiếc bút máy mới tinh và một mảnh giấy nhỏ trên đó ghi ngắn gọn mấy từ: “Tặng em! Rất nhớ trường, nhớ cửa hàng, nhớ em”. Đêm đó hàng chục bản nhạc, bài ca vang lên qua tiếng sáo réo rắt từ gốc cây xà cừ thân thuộc. Phát thổi những bài tôi thích, Phát thổi những bài rất lạ nhưng vô cùng đằm thắm. Tôi thầm suy diễn: “Đây là những bài Phát mới sáng tác để tặng riêng mình, bởi trước đó chẳng đã từng có những bài rất lạ Phát sáng tác tặng riêng mình đó sao?”.
Gần cuối hè, chị tôi rẽ về thăm nhà dúi vào tay tôi bức thư của Phát: “Hoa mến! Đừng trách anh nhé. Vội quá! Anh chẳng có thời gian để chúng mình gặp nhau chia tay được. Anh đã lên đường nhập ngũ theo giấy triệu tập gấp của địa phương. Hy vọng hết thời gian huấn luyện quân sự chuẩn bị đi chiến đấu anh sẽ được về ít ngày thăm nhà, thăm cửa hàng, thăm em. Khỏe vui nhé. Rất nhớ!”. Tôi đã mất ngủ vì những dòng ngắn gọn ấy. Lịch sử sao cứ đặt đất nước mình vào những hoàn cảnh khắc nghiệt? Đâu phải nhỏ nhoi chuyện của tôi với Phát, hàng vạn, hàng triệu thanh niên, học sinh trên đất nước này suốt bao năm qua đều chia tay nhau vội vàng, thậm chí không được một phút chia tay trước khi người Nam người Bắc.
Hết hè, con đường đến trường của tôi bỗng trở nên vắng lặng, dài dằng dặc. Vẫn khung cảnh ấy, vẫn những thầy cô và bè bạn thân quen nhưng tôi thấy trong lòng cứ chống chếnh, cô đơn vì thiếu Phát. Bố mẹ đã sắm cho tôi chiếc xe đạp mới nhưng tôi vẫn nhớ chiếc xe cà tàng của Phát ngày nào cùng dâng tràn bao kỷ niệm. Chống chếnh, cô đơn nhất là những đêm trăng bên gốc cây xà cừ cổ thụ trước cửa hàng, tôi hướng về phía dòng sông, có lúc ngỡ như không gian lặng phắc đến lạ kỳ, có lúc lại ngỡ bốn bề gần gần xa xa bổng trầm bao tiếng sáo… Sông Thao lặng lẽ sẻ chia cùng tôi, chở bao tâm trạng của tôi về những miền xa tắp…
Thấm thoắt một kỳ nghỉ hè nữa lại tới. Sau những ngày nóng lòng mong đợi, niềm vui khôn tả đã tới với tôi cùng gia đình. Tôi trúng tuyển đại học, vui vẻ chờ ngày lên tàu về Thủ đô Hà Nội. Một chiều, từ cửa hàng chị tôi về thăm nhà. Sau giây phút ôm tôi vỗ về tựa như những ngày tôi còn thơ bé, mắt chị ngân ngấn, giọng ngập ngừng: “Cậu Phát hy sinh rồi. Hôm nhận được giấy báo tử, chị gái cậu ấy chết ngất”. Tôi bàng hoàng, ngực tức nghẹn, nước mắt chảy tràn trong vòng tay của chị. Vẫn chuyến đò ngang ngày nào mà sáng nay sao chòng chành đến thế. Tôi về thăm gia đình Phát, ngôi nhà tranh đã từng ắp tiếng cười của tôi và Phát, nay vắng lạnh đến lạ kỳ. Tôi ôm chặt mẹ Phát hàng giờ tưởng như trong tiếng lá xạc xào Phát đang về nói với mẹ và tôi những điều gì đó. Lạ nữa, tiếng sáo réo rắt xa xa, gần gần cứ làm mái nhà tranh như ấm dần lên.
Tốt nghiệp đại học, tôi được nhận về công tác tại một viện chuyên ngành giữa thủ đô. Ngoài công tác chuyên môn, tôi nhiệt tình tham gia đội tự vệ chiến đấu. Những ngày luyện tập quân sự đẫm mồ hôi, những đêm trực chiến căng thẳng, những đợt đào hào xây trận địa quên nghỉ quên ăn đã giúp đội tự vệ chúng tôi trưởng thành nhanh chóng. Riêng tôi, tôi thấy mình như thêm gần với Phát, thấy phần nào đã xứng đáng với anh. Từ thẳm sâu, với tôi, Phát bất tử, anh đẹp mãi cùng tiếng sáo chẳng bao giờ tắt giữa đất trời quê.
Chiến tranh kết thúc, đất nước nối liền một dải Bắc - Nam xen lẫn niềm vui hòa bình, sum họp, chỉ còn nỗi đau hy sinh, mất mát vẫn nặng trĩu trong lòng bao thế hệ. Người người, nhà nhà lao vào sự nghiệp mới, lao động, dựng xây. Tôi hiểu mọi người đang sống cố gắng làm tròn trách nhiệm của mình và gánh thêm cả phần việc của những người đã khuất. Tôi luôn nhớ tới Phát và chính anh đã góp phần tăng thêm sức mạnh cho tôi để tôi hoàn thành xuất sắc mọi việc được giao, cứ như thể trong đó một phần mà anh thầm gửi gắm.
Cần lắm những phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”; những chính sách ưu tiên đối với người có công, với thương binh, gia đình liệt sĩ; cần lắm phong trào tu bổ nghĩa trang anh hùng liệt sĩ, những hoạt động uống nước nhớ nguồn, nhớ một thời hoa lửa; cần lắm những đoàn quân dãi nắng dầm mưa tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt các anh hùng liệt sĩ, những việc làm thầm lặng giải mã ADN để trả lại tên cho những người con bất tử… Nhưng điều cần nhất, thôi thúc nhất với tất cả những người đang sống là cống hiến hết mình cho Tổ quốc, nhân dân; là xây dựng cuộc sống; là sống đầy nhân ái nghĩa tình, thủy chung, trong sáng để cái tốt, cái đúng, cái đẹp luôn được tôn vinh.
“Anh Phát ơi! Em luôn nghĩ thế và luôn cố gắng để sống một cuộc đời như thế!”.
Hà Nội, ngày 5-6-2020