Ngày đầu tiên của Buck trên bãi biển Dyea chẳng khác nào cơn ác mộng. Mỗi giờ trôi qua đều có chuyện gì đó khiến nó sửng sốt và kinh ngạc. Từ trung tâm của sự văn minh, nó đột ngột bị kéo ra và ném vào giữa những thứ thuộc về thế giới nguyên thủy. Ở đây không hề có cuộc sống lười biếng đắm mình dưới ánh mặt trời ấm áp, cũng chẳng có sự bình yên, không có nghỉ ngơi và không một giây phút nào được an toàn. Tất cả đều hoạt động, tất cả đều hỗn loạn, cuộc sống luôn đầy rẫy hiểm nguy trong từng giây từng phút. Lúc nào cũng phải cảnh giác; vì chó và người ở đây không giống với chó và người ở thành phố. Tất cả đều hoang dại và man rợ, chẳng biết đến thứ luật lệ nào khác ngoài luật lệ của dùi cui và răng nanh.
Buck chưa bao giờ trông thấy những con chó đánh nhau như cách những sinh vật tàn bạo này đánh nhau, và trải nghiệm đầu tiên đã dạy nó một bài học không thể nào quên. Thực ra đó là trải nghiệm của người khác, chứ nếu không nó đã chẳng còn sống để mà hưởng lợi từ điều đó. Curly chính là nạn nhân. Họ hạ trại gần một nơi chứa gỗ, tại đây, với sự thân thiện vốn dĩ của mình, Curly tiến đến gần một con chó kéo xe có kích thước của một con sói trưởng thành, mặc dù không lớn bằng một nửa Curly. Không một dấu hiệu cảnh báo, con chó kia chỉ nhảy vọt vào nhanh như chớp, tiếng hàm răng va đập sắc lạnh như tiếng kim loại, rồi lại nhảy vọt ra, cũng nhanh không kém, và mặt của Curly bị xé rách toạc từ mắt cho đến hàm.
Đó là kiểu của loài sói, lao vào tấn công rồi vọt ra xa. Nhưng không chỉ có vậy, khoảng ba mươi đến bốn mươi con chó kéo xe chạy đến vây quanh hai kẻ tham chiến, chúng quây thành một vòng tròn im lặng, chăm chú quan sát với vẻ háo hức. Buck không hiểu sự chăm chú yên lặng đó là gì, cũng không hiểu vì sao chúng lại hau háu liếm mép như vậy. Curly lao vào địch thủ, con chó kia lại tấn công một lần nữa và vọt sang bên. Theo một cách thật dị thường, con chó kia giương ngực ra đón nhận lần lao đến thứ hai của Curly, nhằm mục đích hất ngã Curly. Con chó Newfoundland không bao giờ đứng lên được nữa. Đó chính là điều mà những con chó khác đang chờ đợi. Chúng vây kín lại xung quanh Curly, gầm gừ và kêu ăng ẳng, Curly chìm nghỉm giữa đống hỗn độn đó, thét lên đau đớn, dưới những thân thể với bộ lông đang dựng đứng.
Sự việc xảy ra quá đột ngột và bất ngờ đến nỗi khiến Buck giật lùi lại. Nó thấy Spitz thè cái lưỡi đỏ ra như thể đang cười; và nó thấy Francois, cây rìu vung lên trong tay, lao vào giữa bầy chó hỗn loạn. Ba người đàn ông cầm dùi cui chạy đến giúp anh ta đuổi đàn chó đi. Việc đó chẳng kéo dài lâu. Chỉ hai phút từ lúc Curly ngã xuống, kẻ tấn công cuối cùng đã bị nện dùi cui và chạy mất. Nhưng Curly nằm đó, mềm rũ và bất động, trên nền tuyết đẫm máu bị giày xéo, cơ thể gần như bị xé nát, anh chàng lai có nước da ngăm đen đứng nhìn Curly, anh ta nguyền rủa đám chó kia. Cảnh tượng đó vẫn thường quay trở lại ám ảnh giấc ngủ của Buck. Cuộc sống ở đây là như vậy đó. Chẳng có cuộc chơi công bằng. Một khi đã ngã xuống thì coi như chấm dứt. Từ đó nó hiểu ra rằng mình phải thận trọng để không bao giờ được phép ngã xuống. Spitz lại thè lưỡi ra và cười, từ lúc đó Buck thấy căm ghét nó đến tận xương tủy.
Buck chưa kịp hồi lại sau cú sốc khủng khiếp từ cái chết thê thảm của Curly, thì đã phải đón nhận một cú sốc khác nữa. Francois buộc vào người nó một thứ gì đó làm bằng dây da có khóa cài. Đó là một cái yên cương, cũng giống như thứ mà nó từng thấy người giữ ngựa đeo vào cho những con ngựa khi còn ở nhà. Và nó đã thấy những con ngựa làm việc như thế nào, thì giờ đây nó phải làm việc giống như thế, kéo theo Francois trên chiếc xe trượt tuyết ở phía sau, tiến vào khu rừng ven thung lũng, sau đó quay trở lại với hàng đống củi. Dù lòng tự trọng của nó bị tổn thương khủng khiếp khi trở thành một con vật kéo xe như vậy, nhưng nó đủ khôn ngoan để hiểu rằng tốt hơn cả là không nên chống đối. Lý trí buộc nó phải oằn lưng chịu đựng, và nó đã làm việc đó rất tốt, mặc dù tất cả đều thật mới mẻ và kỳ lạ.
Francois là một người nghiêm khắc, anh ta luôn muốn mệnh lệnh của mình phải được tuân thủ ngay lập tức, và với chiếc roi trong tay, những mệnh lệnh đó không bao giờ bị chậm trễ khi thực thi; trong khi Dave, con chó kéo xe dạn dày kinh nghiệm, liên tục cắn vào chân sau của Buck bất cứ khi nào Buck phạm lỗi. Spitz là con đầu đàn, cũng nhiều kinh nghiệm như vậy, và bởi nó ở quá xa không thể lúc nào cũng trừng phạt được Buck, nên thỉnh thoảng nó gầm gừ như đang quở trách, hoặc kéo mạnh dây cương để buộc Buck phải đi đúng hướng. Buck học hỏi rất nhanh, và dưới sự phối hợp chỉ dạy của hai người bạn đồng hành cùng Francois, nó tiến bộ thấy rõ. Trước khi quay trở về nơi hạ trại, nó đã biết phải dừng lại khi nghe thấy “Ho”, và tiến về phía trước khi nghe thấy “Mush”, ngoặt thành góc rộng ở những đoạn đường cong, và giữ khoảng cách với Dave khi chiếc xe chở đầy củi lao xuống dốc ngay phía sau chúng.
“Những con chó rất giỏi.” Francois nói với Perrault. “Con tên Buck đó kéo xe mới khiếp chứ. Chưa bao giờ có con chó nào học hỏi nhanh như vậy.”
Buổi chiều, Perrault, trước đó đã phải vội vã đi gửi những bức điện, quay trở về với hai con chó khác. Anh ta gọi chúng là “Billee” và “Joe”. Chúng là hai anh em, và là những con chó kéo xe thực thụ. Nhưng dù là anh em cùng một mẹ, chúng lại khác nhau như đêm với ngày. Billee có một nhược điểm là tốt bụng quá mức, trong khi Joe thì lại trái ngược, hay cáu bẳn và tách biệt, liên tục gầm gừ, ánh mắt thì hằn học. Buck chào đón chúng như những người đồng chí, Dave thì lờ chúng đi, còn Spitz thì tấn công từng đứa một. Billee vẫy vẫy đuôi vẻ dỗ dành, xoa dịu, quay đầu bỏ chạy khi nó nhận thấy rõ ràng hành động cầu hòa đó chỉ vô ích, và nó kêu thét lên (vẫn không thôi dỗ dành) khi hàm răng sắc nhọn của Spitz cắm vào bên sườn nó. Nhưng dù Spitz có xoay tròn thế nào, Joe cũng luôn xoay tròn để mặt đối mặt với nó, lông cổ dựng lên, tai cụp về phía sau, mép quăn lại, gầm gừ, hàm răng va vào nhau cắn trả nhanh nhất có thể, đôi mắt lóe lên ranh mãnh - biểu hiện rõ ràng vẻ đáng sợ của kẻ sẵn sàng giao tranh. Vẻ ngoài của nó trông khủng khiếp đến nỗi Spitz buộc phải bỏ qua, không rèn nó vào kỷ luật nữa; nhưng để gỡ gạc lại chút thể diện sau thất bại của mình, nó quay đầu về phía Billee hiền lành đang rên rỉ, và đuổi nó đến tận rìa của khu trại.
Buổi tối, Perrault mang về một con chó khác, một con chó kéo xe đã già, thân hình dài ngoẵng, gầy phát khiếp, trên mặt chằng chịt những vết sẹo từ các cuộc chinh chiến trước đó, con mắt độc nhất còn lại lóe lên cảnh báo cho thấy dấu hiệu của sự gan lì, dũng cảm khiến kẻ khác phải e sợ. Người ta gọi nó là Sol-leks, nghĩa là Kẻ Giận Dữ. Giống như Dave, nó không cầu xin điều gì, chẳng cho đi điều gì, cũng chẳng mong đợi điều gì; và khi nó hiên ngang, chậm rãi tiến vào giữa đám chó, ngay cả Spitz cũng không dám động đến. Nó có một tính nết kì dị mà Buck khám phá ra được theo cách thật khốn khổ. Nó không thích bị kẻ khác đến gần ở phía bên mắt mù của mình. Buck đã vô tình phạm phải điều này, nó hiểu ra sự vô ý của mình khi Sol-leks quay ngoắt về phía nó, xé toạc vai nó đến tận xương, vết cắn dài chạy dọc gần tám centimét. Từ đó về sau, Buck không bao giờ đến gần bên mắt mù của nó nữa, và cho đến những giây phút cuối cùng của tình đồng chí giữa chúng, Buck và Sol-leks không gặp phải bất kỳ rắc rối nào khác. Mong muốn rõ ràng duy nhất của nó, cũng giống như Dave, là đừng có ai làm phiền nó; mặc dù sau này Buck phát hiện ra rằng, chúng đều để ý đến nhau và ngấm ngầm một tham vọng nguy hiểm.
Đêm hôm đó, Buck thấy khó ngủ. Căn lều được chiếu sáng bởi ngọn nến, tỏa ra ánh sáng ấm áp giữa vùng tuyết trắng rộng lớn; nó bước vào trong lều vì nghĩ rằng điều đó là dĩ nhiên, nhưng cả Perrault và Francois cùng tới tấp ném những dụng cụ nấu nướng kèm theo những lời chửi rủa về phía nó, cho đến khi nó hồi lại sau cơn bàng hoàng và bỏ chạy đầy nhục nhã ra không gian lạnh giá bên ngoài. Cơn gió lạnh buốt thổi qua khiến nó rùng mình, vết thương ở vai càng trở nên nhức nhối. Nó nằm xuống nền tuyết và cố ngủ nhưng giá rét nhanh chóng khiến nó run rẩy khắp toàn thân. Đau khổ và chán nản, nó đi lang thang giữa những căn lều, chỉ để nhận ra rằng chẳng có chỗ nào ấm áp. Đi đến đâu những con chó dữ tợn cũng lao về phía nó, nhưng nó dựng lông cổ lên và gầm gừ (vì nó đã học được rất nhanh), và chúng để nó đi qua mà không làm phiền thêm nữa.
Cuối cùng nó nghĩ ra một ý. Nó quay trở lại để xem những con chó đồng hành của nó xử trí việc này ra sao. Nhưng nó vô cùng kinh ngạc khi thấy chúng đã biến đi đâu hết cả. Nó lại lang thang qua khu trại lớn, tìm kiếm chúng, và một lần nữa phải quay trở về. Liệu chúng có ở trong lều không? Không thể nào, vì nó đã bị đuổi ra ngoài đấy thôi. Thế thì chúng có thể ở đâu được nhỉ? Cái đuôi rũ xuống và cơ thể run lên, nó đi vẩn vơ quanh căn lều, cảm thấy cô đơn và tuyệt vọng. Bất chợt, lớp tuyết dưới chân lún xuống khiến nó bị hụt chân. Có gì đó quằn quại, giãy giụa bên dưới. Nó giật nảy mình, nhảy lùi trở lại, lông xù lên và gầm gừ, thấy sợ hãi trước một thứ xa lạ mà nó không hề biết. Nhưng tiếng rên rỉ đầy thân thiện trấn an nó, thế là nó quay lại để tìm hiểu xem thế nào. Một làn hơi ấm phả vào mũi nó, và ở đó, cuộn tròn dưới lớp tuyết như một quả bóng xinh xắn là Billee. Nó rên rỉ tỏ vẻ xoa dịu và vỗ về, uốn éo cơ thể để chứng tỏ không có ý định gì xấu, thậm chí nó còn táo tợn đến mức liếm vào mặt Buck bằng cái lưỡi ướt át và âm ấm, như thể dâng lên một món quà để cầu hòa.
Lại thêm một bài học khác nữa. Ồ, vậy ra chúng làm như thế. Buck tự tin tìm kiếm một vị trí, rồi cuống quýt tìm đủ mọi cách để đào một cái hố cho riêng mình. Không lâu sau, hơi ấm từ cơ thể nó lấp đầy khoảng không nhỏ bé bên trong cái hố và nó chìm vào giấc ngủ.
Một ngày thật dài và mệt mỏi, nó đã ngủ rất say, rất thoải mái mặc dù đôi lúc nó gầm gừ, sủa và vật lộn với những cơn ác mộng.
Buck không mở mắt cho đến khi những âm thanh ầm ĩ của khu trại đã thức giấc vẳng đến bên tai. Ban đầu, nó không biết mình đang ở đâu. Tuyết rơi suốt cả đêm và nó bị vùi lấp hoàn toàn. Bức tường bằng tuyết ép chặt quanh người nó, nó cảm thấy một nỗi sợ lớn quét qua khắp cơ thể - nỗi sợ bị mắc bẫy của những động vật hoang dã. Đó là dấu hiệu cho thấy nó đang đánh hơi, lần mò ngược trở lại cuộc sống cũ trước đây, để trở về với cuộc sống giống như tổ tiên của nó; bởi lẽ nó là một con chó đã được nền văn minh thuần hóa, thậm chí đã bị văn minh hóa quá mức là khác, và những trải nghiệm sống trước đây của nó chẳng có cái bẫy nào cả, thế thì làm sao nó biết được mà cảm thấy sợ. Mọi cơ bắp trên cơ thể nó đột ngột co lại theo bản năng, lông trên cổ và vai dựng lên, và với một tiếng gầm gừ dữ tợn, nó bật dậy, lao ra giữa ánh sáng chói lòa của ban ngày, tuyết đang rơi xuống quanh nó như những đám mây vụt sáng. Trước khi đặt chân xuống nền tuyết, nó nhìn thấy khu trại trắng xóa trải dài trước mắt, nó hiểu ra và nhớ lại tất cả những gì đã xảy đến từ khi được Manuel dắt đi dạo, cho đến khi nó đào cái hố cho riêng mình đêm hôm trước.
Tiếng reo lên của Francois hoan hô và chào đón sự xuất hiện của nó.
“Tôi đã nói rồi mà.” Người điều khiển chó thốt lên với Perrault. “Chắc chắn con Buck đó học hỏi nhanh hơn bất kỳ con chó nào khác.”
Perrault nghiêm nghị gật đầu. Là người đưa thư của chính phủ Canada, có trách nhiệm gửi đi những thông điệp quan trọng, anh ta luôn muốn những con chó tốt nhất, và anh ta đặc biệt vui sướng khi có được Buck.
Một giờ sau, thêm ba con chó kéo xe khác nữa gia nhập đội, như vậy tổng cộng có chín con, và chỉ mười lăm phút sau, tất cả chúng đã được đóng yên cương sẵn sàng, lao mình trên vạch đường mòn tiến về phía hẻm núi Dyea. Buck rất vui mừng khi lên đường, và dù công việc có vất vả, nặng nhọc, nó nhận ra nó không hề khinh miệt công việc đó. Nó thấy ngạc nhiên trước sự háo hức khiến cả đàn phấn khởi đến vậy, và sự háo hức đó cũng lây lan sang cả nó; nhưng điều kinh ngạc hơn nữa là sự thay đổi diễn ra ở Dave và Sol-leks. Thái độ của chúng trở nên khác hẳn, thay đổi hoàn toàn khi mang dây cương trên mình. Tất cả sự thụ động và thờ ơ biến mất. Chúng trở nên cảnh giác, thận trọng, năng nổ, cố gắng sao cho công việc tiến triển một cách tốt nhất, giận dữ khó chịu với bất kỳ thứ gì cản trở công việc, dù là sự chậm trễ hay lộn xộn. Lao động cực nhọc trên đường mòn dường như là cách cuối cùng để chúng thể hiện bản thân, là tất cả lẽ sống của chúng và là điều duy nhất mang đến cho chúng niềm hân hoan.
Dave ở phía sau Buck, rồi sau đó đến Sol-leks. Những con chó còn lại chạy ở phía trước, thành một hàng duy nhất, kéo dài cho đến con đầu đàn, đảm nhận vị trí này là Spitz.
Buck được đặt ở vị trí giữa Dave và Sol-leks là có chủ đích, làm vậy, nó sẽ được đào tạo và dạy dỗ tốt hơn. Nếu Buck là một học trò có năng khiếu thì Dave và Sol-leks là những người thầy tài giỏi, chúng không bao giờ cho phép nó phạm sai lầm quá nhiều, và dùng đến răng nanh để thúc đẩy việc dạy dỗ. Dave khôn ngoan và công bằng. Nó không bao giờ cắn Buck mà không có lý do, và nó không bao giờ thất bại trong việc trừng phạt Buck khi cần. Cái roi của Francois cũng có tác dụng thúc đẩy nó, Buck hiểu ra rằng tốt hơn là kịp thời sửa chữa những lỗi lầm của mình, chứ không nên cắn trả Dave.
Trong một lần dừng lại nghỉ ngơi một chút, khi nó làm rối tung dây kéo và khiến việc lên đường bị chậm trễ, cả Dave và Sol-leks cùng lao bổ vào quất cho nó một trận ra trò. Việc đó khiến dây kéo càng rối tung lên, nhưng từ đó về sau, Buck luôn cẩn thận giữ cho dây không bị rối nữa; và trước khi ngày hôm đó kết thúc, nó đã trở nên rất thành thạo công việc của mình, và những bạn đồng hành không còn quấy rầy nó nữa. Cái roi của Francois quất xuống ít hơn, và Perrault thậm chí còn nâng bàn chân của nó lên để kiểm tra một cách cẩn thận.
Đó quả là một ngày vất vả, lên chỗ hẻm núi, qua khu trại Sheep, băng qua Scales, lên một ngọn núi cao không có nổi một cái cây nào mọc được, vượt qua những sông băng và những khối tuyết gió dồn dày đến cả trăm mét, đi qua đường phân giới Chilcoot chắn giữa vùng nước mặn và vùng nước ngọt, như một người canh giữ đáng sợ và đầy hăm dọa của vùng đất phương bắc buồn thảm, quạnh hiu. Họ đã có quãng thời gian rất tuyệt, xuôi xuống một dãy những hồ nước trước đây là miệng núi lửa nay đã ngừng hoạt động, và đêm hôm ấy, khi đã rất muộn, họ tiến vào một khu trại lớn ở phía đầu hồ Bennett, nơi đây có hàng nghìn người đi tìm vàng đang làm những cái thuyền để sử dụng khi băng tan vào mùa xuân. Buck đào một cái hố trên tuyết và ngủ say sưa sau một ngày lao động mệt nhoài, nhưng rồi bị đánh thức khi còn quá sớm, vào lúc bóng tối lạnh lẽo vẫn bao trùm, bị đeo yên cương và buộc vào xe trượt tuyết cùng với những con chó khác.
Ngày hôm ấy, họ đã vượt qua chuyến hành trình dài đến bốn mươi dặm, con đường đó có nhiều người qua lại nên tuyết được nện chặt trên mặt đất; nhưng ngày hôm sau, và nhiều ngày tiếp nối, họ phải vừa đi vừa mở đường. Họ làm việc cật lực hơn, di chuyển cũng chậm hơn. Theo thói quen, Perrault di chuyển ở phía trước, dùng đôi giày đi tuyết của mình khiến con đường trở nên dễ dàng hơn cho cả nhóm. Francois điều khiển chiếc xe trượt, thỉnh thoảng đổi vị trí với Perrault nhưng việc này không thường xuyên xảy ra. Perrault đang rất vội vã, anh ta luôn tự hào về sự hiểu biết của mình đối với băng tuyết, mà sự hiểu biết này thì rất cần thiết, bởi vì băng vào mùa thu rất mỏng, ở những chỗ nước chảy mạnh thậm chí còn không có chút băng nào.
Ngày nối tiếp ngày, tưởng chừng như chuyến hành trình kéo dài mãi không bao giờ kết thúc, Buck lao động miệt mài trong bộ yên cương. Khi trời tối, họ luôn dừng lại để hạ trại, và khi ánh sáng nhợt nhạt đầu tiên của bình minh hé rạng, đã thấy lũ chó tiếp tục lao đi trên vệt đường mòn, bỏ những dặm đường lại phía sau. Họ luôn dừng lại hạ trại khi trời tối, đàn chó ăn phần cá của chúng rồi vùi mình vào tuyết ngủ. Buck luôn bị đói. Gần bảy trăm gam thịt cá hồi phơi khô là khẩu phần của nó mỗi ngày nhưng chẳng thấm vào đâu. Nó không bao giờ được ăn đủ và phải chịu cơn đói triền miên. Trong khi những con chó khác nhẹ cân hơn và quen với cuộc sống này hơn, thì chỉ cần bốn trăm năm mươi gam cá là đủ.
Nó nhanh chóng mất đi sự khó tính, kén cá chọn canh vốn là đặc tính của nó trong cuộc sống trước đây. Là một kẻ cầu kỳ trong chuyện ăn uống, nó thấy những bạn đồng hành ăn nhanh hơn, sau đó chúng còn cướp cả khẩu phần của nó nữa. Chẳng có cách nào để bảo vệ phần thức ăn của mình. Khi nó vừa đuổi được hai hoặc ba con chó đi, thì những con khác sẽ lao vào ngốn sạch. Để tránh chuyện đó xảy ra, nó cố ăn thật nhanh như chúng; và vì cơn đói cồn cào thúc ép nên nó chẳng hơn gì những con chó khác, buộc phải hạ mình để ăn trộm phần thức ăn không phải của nó. Buck quan sát và học hỏi. Nhìn thấy Pike, một trong những con chó mới, một kẻ ranh ma luôn giả ốm để trốn việc và là một tên trộm tài tình, đã khéo léo trộm được một lát thịt xông khói khi Perrault quay đi. Thế là ngày hôm sau, nó lặp lại đúng màn ăn cắp đó, chạy đi với cả một khoanh thịt to. Quả là một vụ om sòm, nhưng nó không mảy may bị nghi ngờ; trong khi Dub, con chó ngốc nghếch đến vụng về luôn bị tóm khi ăn trộm, phải chịu trừng phạt vì việc làm của Buck.
Hành động ăn trộm đầu tiên đó cho thấy Buck đã thích nghi để tồn tại được ở vùng đất phương bắc khắc nghiệt. Điều đó cho thấy khả năng thích ứng và điều chỉnh bản thân khi điều kiện sống thay đổi, không có khả năng đó đồng nghĩa với cái chết khủng khiếp và nhanh chóng. Hơn nữa, hành động đó là dấu hiệu chứng tỏ phần đạo đức trong nó đang suy tàn, bị đập nát thành nhiều mảnh nhỏ, đạo đức là thứ phù phiếm, là điều cản trở trong cuộc đấu tàn bạo để sinh tồn. Ở vùng đất phương nam, nơi luật lệ về tình yêu và tình bằng hữu chi phối, tôn trọng quyền sở hữu cá nhân và xúc cảm của người khác là điều tốt; thì ở vùng đất phương bắc này, dưới sự cai trị của dùi cui và răng nanh, chỉ có kẻ ngu ngốc mới coi trọng những điều đó, và chừng nào Buck còn coi trọng những điều đó thì nó không thể tồn tại và phát triển được ở nơi này.
Buck rõ là không thể suy luận rành rọt được đến vậy. Nó chỉ đang thích nghi, vậy thôi, và nó điều chỉnh bản thân cho phù hợp với cách sống mới mà không hề ý thức được về việc đó. Trong những tháng ngày trước đây, dù ở vào thế bất lợi ra sao, nó cũng không bao giờ bỏ chạy khỏi một cuộc đấu. Nhưng cái dùi cui của gã đàn ông mặc áo len đỏ đã dạy cho nó về một thứ luật lệ nguyên thủy hơn, cổ xưa hơn. Trong xã hội văn minh, nó sẵn sàng hy sinh vì một lý do đạo đức nào đó, ví dụ như để bảo vệ cho cái roi đi ngựa của ngài thẩm phán Miller; nhưng giờ đây, sự văn minh trong nó bị thoái hóa trọn vẹn, và bằng chứng rõ ràng nhất chính là nó có thể chạy trốn khỏi việc bảo vệ một giá trị đạo đức để cứu lấy mạng sống của mình trước đã. Nó không ăn cắp chỉ để cho vui, mà bởi vì cái dạ dày của nó kêu gào đòi ăn. Nó không ăn cướp một cách lộ liễu, mà kín đáo và khôn khéo. Nói tóm lại, nó đã làm những điều đó bởi vì làm thế thì dễ dàng hơn là không làm.
Sự phát triển của Buck (hay nói đúng ra là sự thoái hóa của nó) diễn ra rất nhanh. Cơ bắp của nó trở nên rắn như thép, nó trở nên chai sạn với những đau đớn bình thường. Nó không còn hoang phí và kén cá chọn canh nữa. Nó có thể ăn bất kỳ thứ gì, kể cả những thứ ghê tởm hay khó tiêu hóa; và một khi đã ăn, thứ chất dịch trong dạ dày của nó sẽ rút kiệt từng phần nhỏ chất dinh dưỡng; máu của nó mang thứ dinh dưỡng đó đến những nơi xa nhất trong cơ thể, đưa tới các mô và cơ, góp phần làm chúng trở nên rắn chắc, bền bỉ. Thị giác và khứu giác trở nên đặc biệt tinh nhạy, trong khi thính giác đạt được sự nhạy bén đến mức ngay cả khi đang ngủ, nó vẫn nghe được những âm thanh nhỏ nhất và biết âm thanh đó báo hiệu điềm lành hay điềm dữ. Nó học được cách cắn vỡ lớp băng tụ lại giữa các ngón chân của mình; còn khi nó khát và có một lớp băng dày phía trên một vũng nước, nó sẽ đập nát lớp băng đó ra bằng đôi chân trước chắc khỏe. Đặc điểm đáng chú ý nhất của nó là khả năng đánh hơi trong gió và dự đoán thời tiết sớm trước hẳn một đêm. Dù trời có lặng gió đến mấy khi nó đào hố để ngủ bên một thân cây hay một ụ đất, thì đến khi những cơn gió nổi lên, sẽ luôn thấy nó nằm tránh hướng gió, được che chắn ấm áp trong nơi trú ẩn.
Nó không chỉ học được nhờ kinh nghiệm, mà còn nhờ thứ bản năng đã ngủ yên rất lâu giờ đang sống lại. Nhiều thế hệ được thuần hóa trước đó đang dần sụp đổ trong nó. Theo những cách thức mơ hồ, nó nhớ lại thời kỳ đầu non trẻ của giống nòi, khi những con chó hoang tụ tập thành đàn, lang thang khắp những khu rừng cổ xưa và giết chết con mồi mà chúng săn được. Nó dễ dàng học được cách đáp trả những cú cắn xé nhanh như chớp của loài sói. Đó chính là cách chiến đấu của tổ tiên xa xưa đã bị lãng quên. Chúng làm sống lại cuộc sống xưa cũ trước đây trong nó, những mánh khóe của nó chính là thứ mánh khóe của giống nòi đã được di truyền lại. Thứ mánh khóe đến với nó một cách tự nhiên, chẳng cần phải nỗ lực học hỏi gì, như thể chúng đã luôn thuộc về nó. Và vào những đêm lạnh lẽo yên tĩnh, khi nó ghếch mũi về phía một vì sao, cất lên tiếng hú dài của loài sói, thì cũng chính là những tổ tiên của nó, những con chó đã chết và thân xác đã hóa thành cát bụi, đang ghếch mũi lên vì sao mà hú, qua cả quãng thời gian dài hàng thế kỷ và qua chính bản thân nó. Nhịp điệu của nó hòa cùng nhịp điệu của chúng, thứ nhịp điệu bày tỏ nỗi muộn phiền, thống khổ, và là thứ mà với chúng còn mang ý nghĩa của đêm tối, sự lạnh lẽo và khắc nghiệt.
Và vậy là, như một dấu hiệu biểu hiện sự sống của một vật bị chi phối, tiếng hát từ ngàn xưa đó trào dâng trong Buck và nó lại trở về với bản chất xa xưa của mình, đó là bởi vì con người đã tìm thấy thứ kim loại màu vàng ở vùng đất phương bắc, và bởi vì phụ việc cho người làm vườn là Manuel, kẻ mà mức lương của hắn không đủ để đáp ứng nhu cầu của một bà vợ và rất nhiều những bản sao nhỏ bé của chính hắn.